1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng stress và một số yếu tố liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông lương phú phú bình thái nguyên​

91 23 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 91
Dung lượng 2,1 MB

Cấu trúc

  • Chương 1. TỔNG QUAN (14)
    • 1.1. Một số khái niệm cơ bản (14)
      • 1.1.1. Khái niệm về stress (14)
      • 1.1.2. Các dấu hiệu của stress (14)
      • 1.1.3. Nguyên nhân của stress (15)
      • 1.1.4. Ảnh hưởng của stress (17)
    • 1.2. Thực trạng rối loạn stress ở học sinh phổ thông trên Thế giới và Việt Nam (19)
      • 1.2.1. Thực trạng rối loạn stress ở học sinh phổ thông trên Thế giới (19)
      • 1.2.2. Thực trạng rối loạn stress ở học sinh phổ thông tại Việt Nam (20)
    • 1.3. Các yếu tố liên quan đến rối loạn stress ở học sinh (23)
      • 1.3.1. Các nghiên cứu trên thế giới (23)
      • 1.3.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam (26)
    • 1.4. Công cụ sử dụng nghiên cứu stress ở học sinh - sinh viên (29)
    • 1.5. Giới thiệu về địa bàn nghiên cứu (31)
  • Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (32)
    • 2.1. Đối tượng nghiên cứu (32)
    • 2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu (32)
    • 2.3. Phương pháp nghiên cứu (32)
    • 2.4. Cỡ mẫu và kĩ thuật chọn mẫu (32)
    • 2.5. Công cụ và vật liệu nghiên cứu (34)
      • 2.5.1. Công cụ và vật liệu dành cho nghiên cứu thực trạng stress và tác hại tâm lý của stress sở học sinh (34)
      • 2.5.2. Công cụ và vật liệu dành cho nghiên cứu các yếu tố liên quan đến (34)
      • 2.6.2. Đối với giáo viên chủ nhiệm và ban lãnh đạo nhà trường (35)
    • 2.7. Chỉ số nghiên cứu (35)
      • 2.7.1. Các chỉ số về thông tin chung của đối tượng nghiên cứu (35)
      • 2.7.2. Mục tiêu 1: Các chỉ số về thực trạng stress ở học sinh (35)
      • 2.7.3. Mục tiêu 2: Các chỉ số về yếu tố liên quan đến stress ở học sinh (35)
    • 2.8. Phương pháp đánh giá (36)
    • 2.9. Biện pháp khống chế sai số (37)
    • 2.10. Xử lý và phân tích số liệu (38)
    • 2.11. Đạo đức nghiên cứu (38)
  • Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (39)
    • 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng tham gia nghiên cứu (39)
      • 3.1.1. Các thông tin chung của học sinh (39)
      • 3.1.2. Thông tin chung về nhóm cha mẹ học sinh (40)
    • 3.2. Thực trạng stress ở học sinh trường THPT Lương Phú - Phú Bình - Thái Nguyên (41)
    • 3.3. Các yếu tố liên quan (46)
  • Chương 4. BÀN LUẬN (56)
    • 4.1. Đặc điểm chung của đối tượng tham gia nghiên cứu (56)
      • 4.1.1. Các đặc điểm chung về nhóm học sinh nghiên cứu (56)
      • 4.1.2. Các đặc điểm chung về nhóm cha mẹ học sinh (57)
    • 4.2. Thực trạng stress ở học sinh trường THPT Lương Phú – Phú Bình – Thái Nguyên (57)
    • 4.3. Một số yếu tố liên quan đến stress ở học sinh trường Trung học phổ thông Lương Phú – Phú Bình – Thái Nguyên (60)
      • 4.3.1. Liên quan theo khối học, giới tính và dân tộc (60)
      • 4.3.2. Liên quan giữa yếu tố gia đình và stress ở học sinh (62)
  • KẾT LUẬN (68)
    • 1. Về thực trạng stress ở học sinh trường THPT Lương Phú – Phú Bình – Thái Nguyên (68)
    • 2. Một số yếu tố liên quan đến stress ở học sinh trường THPT Lương Phú – Phú Bình – Thái Nguyên (68)
  • PHỤ LỤC (78)

Nội dung

TỔNG QUAN

Một số khái niệm cơ bản

Trong cuộc sống hiện đại, thuật ngữ stress ngày càng phổ biến, nhưng mỗi tác giả lại có cách hiểu khác nhau về nó Walter Cannon, một bác sĩ thần kinh nổi tiếng của Mỹ, định nghĩa stress là những cảm giác khó chịu hoặc áp lực trong cuộc sống cá nhân.

Hiện nay, stress là một khái niệm phổ biến, được định nghĩa bởi Han Selye vào năm 1976 như sau: “Stress là tình trạng căng thẳng phản ánh sự tương tác giữa tác nhân gây căng thẳng và phản ứng của cơ thể.”

Stress là một phản ứng thích nghi tự nhiên của cơ thể, giúp con người điều chỉnh và thích ứng với môi trường xung quanh Khi gặp phải các tác động từ môi trường, stress giúp tạo ra một sự cân bằng mới cho cơ thể Tuy nhiên, nếu phản ứng với stress không đầy đủ hoặc không phù hợp, cơ thể sẽ không thể đạt được sự cân bằng cần thiết, dẫn đến rối loạn chức năng, xuất hiện các dấu hiệu bệnh lý và có thể gây ra stress bệnh lý cấp tính hoặc kéo dài.

1.1.2 Các dấu hiệu của stress

Stress có thể biểu hiện qua nhiều dấu hiệu thể chất, tâm lý và xã hội như kiệt sức, thay đổi khẩu vị, đau đầu, rối loạn giấc ngủ, và cảm giác lo âu, giận dữ Những triệu chứng thể chất bao gồm tăng nhịp tim, huyết áp cao, mệt mỏi và ra mồ hôi Về mặt cảm xúc, người bị stress thường cảm thấy khó chịu, dễ cáu gắt, trầm cảm và xa lánh mọi người Hành vi tiêu cực như lạm dụng chất kích thích, mất tập trung và xáo trộn sinh hoạt hàng ngày cũng thường xuất hiện Nếu stress kéo dài, nó có thể làm tổn hại hệ miễn dịch và tăng nguy cơ mắc bệnh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tổng thể.

Có rất nhiều nguyên nhân gây ra stress nhưng thông thường bao gồm 4 nguyên nhân cơ bản sau:

Môi trường bên ngoài: Thiên tai, thời tiết, tiếng ồn, giao thông, bụi và sự ô nhiễm…

Căng thẳng từ xã hội và gia đình có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm các vấn đề tài chính, sự mất mát của người thân, mâu thuẫn trong gia đình như cha mẹ ly hôn, tranh chấp và xích mích, cũng như các mối quan hệ bạn bè không tốt và tình yêu tan vỡ hoặc bị phụ bạc.

Các vấn đề về thể chất: Thay đổi cơ thể, không đủ chất dinh dưỡng, ốm đau, bệnh tật

Cách chúng ta suy nghĩ và diễn giải những sự kiện trong quá khứ hoặc tương lai có thể gây ra căng thẳng cho chính bản thân Đặc biệt, những suy nghĩ tiêu cực thường chiếm ưu thế, như khi thất bại trong kỳ thi đại học, khiến cho tương lai trở nên mờ mịt và đầy lo lắng.

Nghiên cứu của Đỗ Thị Lệ Hằng năm 2009 chỉ ra rằng có bốn nhóm tác nhân gây stress ở trẻ vị thành niên, bao gồm học tập, mối quan hệ với gia đình, mối quan hệ với bạn bè và các tình huống bất thường Trong đó, tác nhân từ các tình huống bất thường có mức độ ảnh hưởng cao nhất (trung bình 1.6), tiếp theo là học tập (1.5), mối quan hệ với gia đình (1.3) và bạn bè (1.2) Đặc biệt, học sinh cấp 3 chịu áp lực học tập lớn hơn so với học sinh cấp 2 do phải chuẩn bị cho việc lựa chọn nghề nghiệp và đối mặt với các kỳ thi quan trọng như tốt nghiệp Trung học phổ thông và thi đại học Nghiên cứu cũng cho thấy trẻ nam chịu ảnh hưởng từ áp lực học tập cao hơn trẻ nữ.

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hằng Phương chỉ ra bốn nhóm nguyên nhân chính gây ra rối loạn lo âu ở học sinh THPT chuyên Quảng Bình, bao gồm nguyên nhân liên quan đến học tập, bản thân học sinh, gia đình và mối quan hệ xã hội Đồng thời, nghiên cứu của Phùng Đức Nhật và cộng sự cho thấy các yếu tố gây stress ở học sinh như lo lắng về kết quả học tập, tương lai, tình hình kinh tế gia đình, áp lực học tập, an ninh nơi ở và thiếu bạn bè chia sẻ Kết quả cho thấy có mối liên quan đáng kể giữa tỷ lệ stress và lo lắng về học tập, tương lai cũng như sức khỏe bản thân Cụ thể, học sinh lo lắng về kinh tế gia đình có tỷ lệ stress cao gấp 1,56 lần so với những học sinh không lo lắng, trong khi học sinh lo lắng về áp lực học tập có tỷ lệ stress gấp 1,81 lần, và tỷ lệ học sinh lo lắng vì thiếu bạn để chia sẻ cao gấp 1,57 lần so với nhóm không lo lắng Hơn nữa, nhóm học sinh lo lắng về tình hình an ninh nơi ở cũng bị stress gấp 1,5 lần so với nhóm không lo lắng.

Nghiên cứu của Edem Maxwell Azila-Gbettor chỉ ra rằng stress có tác động tiêu cực đến kết quả học tập của học sinh và sinh viên Stress thường xuất hiện khi khối lượng học tập vượt quá khả năng chịu đựng của cơ thể.

Nghiên cứu của tác giả Zhang Jiapeng Casper về "Hiệu quả của việc quản lý căng thẳng đối với sức khoẻ tâm thần ở thanh thiếu niên" chỉ ra rằng, đối với đối tượng này, các yếu tố như kiểm tra ở trường học, xung đột gia đình và mối quan hệ bạn bè bất hòa đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra stress và trầm cảm.

Nghiên cứu cho thấy stress không chỉ gây hại cho sức khỏe của người chịu đựng mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến những người xung quanh và xã hội Dưới đây là những tác động chính mà stress có thể gây ra.

Stress có tác động nghiêm trọng đến cảm xúc và tâm lý, thường biểu hiện qua lo âu, dễ nổi nóng, chán nản, và cảm giác trống rỗng Những biểu hiện này có thể dẫn đến hành vi tiêu cực như bỏ học, tham gia vào các hoạt động bạo lực, và giao du với những người xấu Áp lực học hành từ chương trình giáo dục và kỳ vọng của cha mẹ đang ảnh hưởng lớn đến sức khỏe tâm thần của thanh thiếu niên, dẫn đến gia tăng số lượng học sinh mắc các chứng rối loạn tâm lý như lo âu và trầm cảm Trong một số trường hợp, stress không được quản lý có thể dẫn đến hành vi tự sát Mặc dù phản ứng stress có thể giúp thanh thiếu niên thích ứng với thách thức, nhưng nó cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tâm thần, đặc biệt khi nhạy cảm với kích thích cảm xúc trong giai đoạn dậy thì.

Stress có tác động nghiêm trọng đến cơ thể, gây ra các triệu chứng như mệt mỏi, đau đầu, đau lưng, chóng mặt, và khó thở Khi gặp stress, cơ thể sản xuất nhiều hormon như adrenaline và cortisol, dẫn đến thay đổi nhịp tim, huyết áp và trao đổi chất Mặc dù phản ứng này có thể cải thiện hiệu suất trong thời gian ngắn, nhưng nếu kéo dài, nó sẽ gây hại cho sức khỏe.

Stress kéo dài là nguyên nhân phổ biến gây ra nhiều bệnh lý như bệnh tâm thần kinh, bệnh tim mạch và các vấn đề về da như mụn sưng đỏ hay bệnh Zona Ngoài ra, stress còn ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa, sức khỏe tình dục, bệnh phụ khoa và các vấn đề cơ xương khớp, dẫn đến tình trạng suy sụp, mệt mỏi và dễ mắc bệnh Hành vi tiêu cực như lạm dụng rượu bia và thuốc lá cũng làm suy giảm sức khỏe Nhiều người sử dụng cần sa như một cách đối phó với stress, nhưng điều này có thể dẫn đến nguy cơ lệ thuộc vào rượu, gây ra sự căng thẳng trong các mối quan hệ cá nhân và công việc.

Stress có tác động nghiêm trọng đến khả năng ra quyết định của con người, dẫn đến những biểu hiện như mất khả năng tập trung, phán đoán không chính xác và trí nhớ suy giảm Khi chịu áp lực, khả năng nhận định và đánh giá cũng bị ảnh hưởng, khiến cho việc đưa ra quyết định chính xác trở nên khó khăn, đặc biệt khi sự tự tin bị giảm sút.

Thực trạng rối loạn stress ở học sinh phổ thông trên Thế giới và Việt Nam

1.2.1 Thực trạng rối loạn stress ở học sinh phổ thông trên Thế giới

Căng thẳng là một vấn đề sức khỏe tâm thần nghiêm trọng, ảnh hưởng đến khoảng 20% trẻ em và vị thành niên trên toàn thế giới, theo báo cáo của WHO (2003) Tỷ lệ này khác nhau giữa các quốc gia do các yếu tố kinh tế và xã hội, cũng như phương pháp đo lường khác nhau Các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ rối loạn tâm thần ở trẻ em và thanh thiếu niên dao động từ 13% đến 29% Một nghiên cứu của Noelle R Leonard cho thấy 31% học sinh tại các trường tư thục gặp phải căng thẳng, với nữ sinh có tỷ lệ cao hơn (60% so với 41%) Nghiên cứu của Shilpa Taragar (2009) chỉ ra rằng 10-20% học sinh từ 10-19 tuổi bị căng thẳng, chủ yếu do yếu tố gia đình Tại Australia, Kouzma NM (2004) cho biết 10-15% học sinh trung học phổ thông cũng gặp phải vấn đề này Tại Mỹ, nghiên cứu của Zhang Jiapeng Casper (2012) cho thấy 25-30% học sinh bị ảnh hưởng bởi căng thẳng, và một khảo sát của Hiệp hội Y tế Hoa Kỳ cho thấy 33,7% sinh viên đại học và cao đẳng gặp phải tình trạng tương tự.

Nghiên cứu về tỷ lệ stress ở thanh thiếu niên cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia Tại Goa, Ấn Độ, tỷ lệ stress thấp chỉ là 1,8% ở lứa tuổi 12-16 (Pillai et al., 2008) Trong khi đó, nghiên cứu của Viện công nghệ New Delhi (2015) chỉ ra rằng tỷ lệ mắc rối loạn tâm thần ở thanh thiếu niên Ấn Độ dao động từ 14,4-31,7% Tại Israel, Farbstein et al (2009) ghi nhận tỷ lệ stress là 11,7% ở độ tuổi 14-17, và tại Puerto Rico, Canino et al (2004) cho biết tỷ lệ này là 19,8% cho trẻ từ 4-17 tuổi Ở Zurich, Thụy Sĩ, Steinhausen et al (1998) đã tìm thấy tỷ lệ stress là 22,5% ở lứa tuổi 6-17, trong khi nghiên cứu của Guan et al (2010) tại Trung Quốc cho thấy tỷ lệ trẻ bị stress là 16,22% ở độ tuổi 5-17.

1.2.2 Thực trạng rối loạn stress ở học sinh phổ thông tại Việt Nam Ở Việt Nam, số lượng trẻ em trong độ tuổi học sinh mắc các rối loạn stress, lo âu và trầm cảm có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Hằng Phương trong tổng số 600 em tham gia điều tra thì tất cả các em đều có biểu hiện bất thường về sức khỏe và tâm lý trong vòng 2 tháng trở lại đây [20] Một nghiên cứu của viện Tâm thần Mai Hương năm 2005 cho thấy tỷ lệ học sinh có vấn đề về sức khỏe tâm thần chung là 19,46% [5]

Nghiên cứu của Trần Thị Hồng Vân và cộng sự (2014) tại trường THPT Phan Đình Phùng - Hà Nội chỉ ra rằng 46,1% học sinh gặp phải tình trạng stress, trong đó có 18,9% ở mức độ nhẹ và một tỷ lệ đáng kể ở mức độ vừa.

Nghiên cứu cho thấy rằng 20,1% học sinh gặp stress nặng, trong đó 5,2% ở mức nặng và 2,5% ở mức rất nặng Một khảo sát của Trung tâm nghiên cứu Phụ nữ - Đại học Quốc gia Hà Nội (2008) trên 200 học sinh lớp 12 cho thấy 47% học sinh bị stress ở các mức độ khác nhau Tại trường THPT Đông Hà – Quảng Trị, 69,6% học sinh rơi vào trạng thái stress cấp tính, trong khi 30,4% bắt đầu cảm thấy quá tải và cần hỗ trợ Nghiên cứu của Hồ Hữu Tính và Nguyễn Doãn Thành (2009) cho thấy 38% học sinh lớp 12 tại THPT Phan Bội Châu có biểu hiện stress Cuối cùng, nghiên cứu của Hoàng Cẩm Tú và Đặng Hoàng Minh (2010) cho thấy 25,76% học sinh tại hai trường THPT Nguyễn Trãi và Vân Tảo mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần, bao gồm stress.

Một nghiên cứu năm 2012 tại các tỉnh miền Bắc cho thấy Việt Nam có tỷ lệ trẻ vị thành niên gặp rối loạn tâm lý cao nhất trong số các quốc gia được khảo sát, với 18% trẻ em gặp ít nhất một trong tám triệu chứng như lo âu, trầm cảm và hành vi hung tính Nghiên cứu tại Hà Nội chỉ ra rằng 25.8% học sinh tiểu học bị stress ở mức độ vừa và 29% lo âu ở mức độ vừa và nhẹ Ngược lại, một nghiên cứu năm 2007 tại miền Trung ghi nhận tỷ lệ trẻ vị thành niên mắc bệnh tâm thần là 9% Tại Hội thảo quốc gia về sức khỏe tâm thần trong trường học, nhiều chuyên gia đã cảnh báo về tình trạng sức khỏe tâm thần của học sinh ngày càng sa sút, đặc biệt là nỗi lo sợ không hoàn thành bài vở của học sinh lớp 12.

Học sinh đang chịu áp lực học tập, dẫn đến 13,6% cảm thấy ăn không ngon, 17,6% chỉ muốn uống nước hoặc sữa, và gần 20% thường xuyên bỏ bữa Nhiều em lo lắng về kỳ thi quan trọng, sợ không làm tốt và thất vọng gia đình, khiến các em cảm thấy căng thẳng đến mức muốn "nổ tung".

Kết quả khảo sát cho thấy gần 27% học sinh Tây Ninh gặp phải tình trạng buồn phiền từ nhẹ đến nặng, tỷ lệ này thấp hơn so với TP Hồ Chí Minh và Long An, nhưng vẫn cao khi so với tiêu chuẩn quốc tế Đặc biệt, tỷ lệ học sinh lớp 10 có tâm lý buồn phiền chỉ đạt 23%, trong khi lớp 12 lên tới 30%.

Nghiên cứu gần đây nhất của Đặng Hoàng Minh và Trịnh Thị Mai

Theo nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới vào năm 2013, tỷ lệ học sinh từ 10-16 tuổi tại Việt Nam gặp vấn đề về sức khỏe tâm thần là 19,46% Nghiên cứu gần đây của Đặng Hoàng Minh, Bahr Weiss và Nguyễn Cao Minh cũng cho thấy 9,6% trẻ em từ 6-16 tuổi ở 10 tỉnh thành có vấn đề hướng nội ở mức lâm sàng, trong đó lo âu/ trầm cảm chiếm 1,8%, thu mình 2,1% và than phiền cơ thể 4,1% Tỷ lệ trẻ em có bất thường về tình cảm là 16,29%, với mức ranh giới 11,59% Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng khoảng 12-13% trẻ em Việt Nam trong độ tuổi này gặp vấn đề sức khỏe tâm thần rõ rệt, tương đương với khoảng 2,7 triệu trẻ em và vị thành niên trên toàn quốc, trong đó bao gồm cả stress.

Nghiên cứu của Phạm Thanh Bình tại trường THPT Yên Mô B Ninh Bình năm 2007 cho thấy rằng, theo thang đo mức độ lo âu của Soly-Bensabel, số lượng học sinh đạt điểm từ 70-80 chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp theo là nhóm học sinh đạt điểm 80-90 Kết quả này chỉ ra rằng có một lượng lớn học sinh trong khảo sát đang trải qua mức độ stress cao.

Học sinh, sinh viên đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng lực lượng sản xuất và sự bền vững của xã hội trong nền kinh tế tri thức Trong quá trình học tập, họ phát triển các phẩm chất tâm lý để làm chủ bản thân và xã hội hiện đại Tuy nhiên, hiện tượng stress thường xảy ra, ảnh hưởng đến sự thành công trong việc hoàn thiện nhân cách và phẩm chất tâm lý nghề nghiệp Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về sức khỏe tâm thần của thanh thiếu niên Việt Nam, nhưng vấn đề rối loạn stress ở học sinh, đặc biệt là học sinh Trung học phổ thông, vẫn chưa được khai thác đầy đủ Các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ học sinh Việt Nam gặp vấn đề về rối loạn stress là đáng kể, phản ánh áp lực từ gia đình, nhà trường và xã hội.

Các yếu tố liên quan đến rối loạn stress ở học sinh

1.3.1 Các nghiên cứu trên thế giới

Nghiên cứu tự đánh giá nguyên nhân stress ở học sinh cuối cấp 3

Nghiên cứu của Kouzma NM và Kennedy GA (2004) chỉ ra rằng các nguyên nhân chính dẫn đến stress ở học sinh bao gồm kỳ kiểm tra, điểm số, lo lắng cho tương lai và áp lực từ gia đình Tương tự, Zhang Jiapeng Casper (2012) cho biết phần lớn học sinh cảm thấy căng thẳng tinh thần do tham gia các kỳ thi Tại Hoa Kỳ, có đến 25% - 30% sinh viên gặp khó khăn do stress liên quan đến lo lắng, theo nghiên cứu của Hill Hiệp hội Y tế Trường Cao đẳng Hoa Kỳ cũng cho thấy 33.7% sinh viên cho rằng stress đã ảnh hưởng đến thành tích học tập của họ Những học sinh có điểm trung bình cao thường chịu áp lực lớn từ kỳ vọng của cha mẹ và thầy cô, trong khi học sinh có điểm thấp cảm thấy tự ti và thất vọng Ngoài ra, khối lượng công việc và bài tập về nhà cũng được xem là nguyên nhân gây stress, với nhiều học sinh cho biết chúng làm họ mất ngủ.

Theo một khảo sát của Harvard, hơn 58% thanh thiếu niên tại khu vực Washington cho rằng các yếu tố từ trường học là nguyên nhân chính gây ra căng thẳng Ngược lại, một nghiên cứu trường hợp ở Bangkok, Thái Lan đã chỉ ra những yếu tố khác ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần của giới trẻ.

Nghiên cứu của Youjaiyen M, Sirimai W, và Thongsai S (2010) trên 300 học sinh trung học phổ thông cho thấy rằng những học sinh có kết quả học tập thấp thường trải qua mức độ căng thẳng cao hơn so với những em có thành tích tốt hơn Tương tự, nghiên cứu của Ezila Gbettor tại một trường ngoại ô New York cũng chỉ ra rằng học sinh có điểm trung bình cao thường phải đối mặt với mức độ stress cao hơn so với các bạn có điểm trung bình thấp, trong khi những học sinh tham gia các lớp chuyên lại có mức độ stress cao hơn so với các lớp bình thường Đặc biệt, học sinh nữ thường cảm thấy căng thẳng trong học tập nhiều hơn so với nam.

Nghiên cứu của Suldo SM, Shaunessy E, Thalji A và cộng sự (2009) tại Mỹ trên 319 học sinh trung học cho thấy nguyên nhân chính gây stress ở học sinh tham gia chương trình học dự bị đại học là yêu cầu học tập Trong khi đó, học sinh bình thường thường gặp stress do mối quan hệ gia đình, khó khăn trong học tập, xung đột gia đình và các mối quan hệ bạn bè, cũng như sự chuyển đổi vai trò xã hội Học sinh dự bị đại học có nhiều biểu hiện tâm lý hơn và giảm khả năng học tập khi đối mặt với stress cao, đặc biệt liên quan đến yêu cầu học tập, thay đổi vai trò, vấn đề xã hội và hoạt động ngoại khóa.

Nghiên cứu của Shilpa Taragar (2009) tại Ấn Độ cho thấy không có mối liên quan giữa thông tin cá nhân như tuổi tác, số lượng anh chị em và nghề nghiệp của cha mẹ với mức độ căng thẳng ở học sinh cấp 3 Tuy nhiên, nơi cư trú có ảnh hưởng rõ rệt, với học sinh ở vùng ngoại thành có tỷ lệ stress nhẹ và vừa thấp hơn so với thành phố, trong khi tỷ lệ stress nặng lại cao hơn ở khu vực thành thị (22,4% so với 9,9%) Ngoài ra, giới tính cũng có liên quan đến stress, với nam sinh có xu hướng căng thẳng cao hơn, nhưng nữ sinh lại có tỷ lệ cao hơn ở mức độ stress nhẹ và vừa (71,7% so với 66%) Nghiên cứu của Finkelstein DM chỉ ra rằng thanh thiếu niên có cha mẹ trình độ học vấn thấp hơn có mức stress cao hơn so với những người có cha mẹ trình độ học vấn cao Theo Zhang Jiapeng Casper (2012), nguyên nhân chính gây stress ở học sinh thường liên quan đến cuộc sống cá nhân, bao gồm việc chia tay, mâu thuẫn gia đình, tình hình tài chính thay đổi và các vấn đề trong quan hệ bạn bè.

Kết quả nghiên cứu của tác giả Leslie R Rith-Najarian và cộng sự

(2014), chỉ ra không có sự liên quan giữa tuổi tác, giới tính và chủng tộc/sắc tộc với stress ở học sinh [48]

1.3.2 Các nghiên cứu tại Việt Nam

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng có mối liên hệ giữa kết quả học tập và tỷ lệ mắc stress ở học sinh trung học phổ thông Cụ thể, nghiên cứu của TS Đỗ Ngọc Khanh cho thấy học sinh có kết quả học tập cao thường có tỷ lệ mắc stress lớn hơn, với 33% học sinh giỏi có dấu hiệu stress so với 21,1% ở nhóm học sinh trung bình và 24,5% ở nhóm khá Ngoài ra, nghiên cứu của Phạm Thanh Bình xác định hai nhóm nguyên nhân gây stress: nguyên nhân khách quan như phương pháp giảng dạy và sự quan tâm của giáo viên, và nguyên nhân chủ quan như việc phân bố thời gian học tập và nghỉ ngơi không hợp lý Đặc biệt, nguyên nhân chủ quan có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn đến mức độ stress của học sinh.

Theo một nghiên cứu, 89,2% học sinh có dấu hiệu căng thẳng do thời gian học tập quá nhiều, trong đó 49,2% cảm thấy rất căng thẳng Học sinh lớp 12 lo lắng nhất về quỹ thời gian hạn hẹp và khối lượng kiến thức lớn, đặc biệt là áp lực từ hai kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông và thi vào đại học Môi trường học đường hiện nay còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, như bạo lực và các vấn đề xã hội, gây cảm giác lo âu cho trẻ vị thành niên Áp lực học tập đến từ chương trình học, kỳ vọng của cha mẹ và tâm lý bằng cấp đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tâm thần của học sinh 47% học sinh cho biết họ chịu nhiều áp lực từ việc học, 34% cảm thấy có quá nhiều cạnh tranh trong lớp học, và 60% lo lắng về tương lai Khối lượng bài tập và kiểm tra cũng là gánh nặng lớn, với 70% học sinh cho rằng có quá nhiều bài tập, dẫn đến lo lắng về điểm số Hơn 71% học sinh có biểu hiện chán nản và thất vọng trong học tập, cùng với các triệu chứng như thiếu tự tin và khó tập trung, cho thấy ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thể chất và tinh thần của các em.

Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ học sinh bị stress do học tập tại các huyện và thành phố của Tây Ninh có sự khác biệt rõ rệt, trong đó Hoà Thành ghi nhận mức độ stress cao nhất, trong khi huyện Tân Biên có tỷ lệ thấp nhất Đặc biệt, những gia đình có từ hai con trở lên có tỷ lệ trẻ em bị căng thẳng thần kinh thấp hơn so với gia đình chỉ có một con Hơn nữa, học sinh thường xuyên tranh cãi với giáo viên hoặc bị la mắng, hăm dọa, phạt có nguy cơ bị stress cao hơn từ 22 - 40% so với các bạn khác Điều này cho thấy rằng căng thẳng tinh thần của học sinh không chỉ xuất phát từ áp lực học tập mà còn bị ảnh hưởng bởi yếu tố gia đình và môi trường học đường.

Trong nghiên cứu “Thực trạng sức khỏe tâm thần của học sinh THCS ở

Nhu cầu tham vấn sức khỏe tâm thần học đường tại Hà Nội đang gia tăng, đặc biệt liên quan đến stress từ gia đình, mối quan hệ với bố mẹ và các chấn thương ở trẻ Nghiên cứu của Hồ Hữu Tính và Nguyễn Doãn Thành (2010) tại trường THPT Phan Bội Châu cho thấy có mối liên quan thống kê giữa stress ở học sinh lớp 12 với giới tính và học lực Từ góc độ gia đình, stress liên quan đến sức khỏe người thân và áp lực, kỳ vọng học tập từ gia đình Tại trường, áp lực học tập và thi cử cũng góp phần vào tình trạng stress Bên cạnh đó, học sinh còn phải đối mặt với những cạnh tranh trong học tập, vấn đề ngoại hình, bệnh lý học tập và việc thiếu hoạt động thể chất Về mặt xã hội, việc không có bạn bè thân thiết và lo lắng về an ninh nơi ở cũng là nguyên nhân gây stress Đặc biệt, mối quan hệ với bạn bè được xem là một yếu tố quan trọng, với tỷ lệ học sinh bị bắt nạt về thể chất và tinh thần tương đương với số em gặp stress do học tập.

Công cụ sử dụng nghiên cứu stress ở học sinh - sinh viên

Hiện nay, có nhiều bộ công cụ được sử dụng để đánh giá sức khỏe tâm thần, trong đó một số bộ đã được chuẩn hóa và phổ biến trong nghiên cứu cũng như chẩn đoán lâm sàng về stress Các công cụ này bao gồm bộ đánh giá stress nghề nghiệp (JSQ), test Soly-Bensabal để đánh giá trạng thái phản ứng, thang đo sức khỏe tâm thần SDQ, và bộ câu hỏi đánh giá stress của Beck & Srivastava.

Bộ câu hỏi đánh giá stress của Beck & Srivastava (BBSI) được phát triển vào năm 1991, dựa trên các nghiên cứu trước đó của Firth (1983) và Frances & Naftel (1986) Bộ câu hỏi này được chia thành hai phần: phần đầu tiên yêu cầu sinh viên mô tả những khó khăn trong cuộc sống và áp lực trong các kỳ thi trong tháng qua, trong khi phần thứ hai tập trung vào các yếu tố khác ảnh hưởng đến cảm giác căng thẳng của sinh viên.

Bài viết đề cập đến việc đánh giá mức độ stress ở sinh viên thông qua 44 tiểu mục, mỗi tiểu mục được chấm từ 0 đến 4 điểm Bộ câu hỏi này không chỉ dùng để đo lường stress mà còn cả trầm cảm Đánh giá trạng thái phản ứng được thực hiện qua bài test Soly-Bensabal với 30 câu hỏi, mỗi câu hỏi tương ứng với một mức độ biểu hiện phản ứng từ 1 đến 4 điểm Theo Soly-Bensabal, việc phân tích điểm số giúp xác định mức độ stress cụ thể của sinh viên.

Bộ câu hỏi về Điểm mạnh và khó khăn (SDQ) được phát triển từ các công cụ đánh giá tâm lý và hành vi nổi tiếng như Rutter A và Rutter B, nhằm đánh giá điểm mạnh và khó khăn trong hành vi và cảm xúc của trẻ em và thanh thiếu niên SDQ bao gồm 5 thang đo: hành vi được xã hội ủng hộ, tính hiếu động, vấn đề cảm xúc, vấn đề hành vi, và vấn đề bạn bè Bộ câu hỏi này có các phiên bản dành cho người chăm sóc, giáo viên trẻ từ 3 đến 16 tuổi, và thanh thiếu niên từ 11 đến 18 tuổi Mặc dù cũng được áp dụng cho trẻ khuyết tật, SDQ chủ yếu tập trung vào đánh giá sức khỏe tâm thần tổng quát.

Thang đánh giá stress, lo âu, trầm cảm của Lovibond (DASS 42 và DASS

Thang đo DASS 21 (Depression – Anxiety – Stress Scale) là công cụ đánh giá hiệu quả ba vấn đề sức khỏe tâm thần: stress, lo âu và trầm cảm Được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng lâm sàng, thang đo này hỗ trợ quá trình chẩn đoán DASS 21 là phiên bản rút gọn của DASS 42, giúp người dùng dễ dàng hơn trong việc đánh giá Trong khi DASS 42 bao gồm 42 tiểu mục được chia thành ba nhóm, DASS 21 mang lại sự tiện lợi mà vẫn đảm bảo tính chính xác trong đánh giá.

Bài viết đề cập đến việc đánh giá sức khỏe tâm thần qua 14 tiểu mục liên quan đến stress, lo âu và trầm cảm DASS 21 là một công cụ gồm 21 tiểu mục, chia thành 3 nhóm với 7 tiểu mục mỗi nhóm, mô tả các triệu chứng thể chất và tinh thần Điểm số cho mỗi tiểu mục dao động từ 0 đến 3, phản ánh mức độ và thời gian xuất hiện của triệu chứng Kết quả từ DASS cung cấp cái nhìn tổng quan về tình trạng sức khỏe tâm thần của người dùng.

Thang đo 21 không phải là công cụ chẩn đoán xác định bệnh mà chỉ có vai trò sàng lọc ban đầu cho những người có biểu hiện stress, lo âu, trầm cảm Kết quả từ thang đo này khuyến khích họ tìm kiếm sự giúp đỡ từ các chuyên gia tâm lý và thực hiện chế độ điều trị, chăm sóc, nghỉ ngơi phù hợp Các biểu hiện thể chất và tâm lý chỉ được đánh giá trong khoảng thời gian một tuần, do đó, giá trị của kết quả thu được chỉ có ý nghĩa tại thời điểm đánh giá.

Thang đo DASS 21 là công cụ duy nhất được Viện sức khỏe tâm thần quốc gia biên dịch và thử nghiệm trên nhiều đối tượng nghề nghiệp khác nhau, như lái xe buýt và công nhân dệt may Công cụ này cũng được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu liên quan đến học sinh - sinh viên tại Việt Nam, như nghiên cứu của Lê Minh Thuận (2010) tại Đại học Y - Dược TP.HCM và nghiên cứu của Eslami AA cùng cộng sự (2016) về hiệu quả rèn luyện ứng phó với căng thẳng, lo âu và trầm cảm ở học sinh trung học Ngoài ra, các tác giả Singh K, Junnarkar M, và Sharma S cũng đã áp dụng DASS 21 trong nghiên cứu về lo âu, căng thẳng, trầm cảm và chức năng tâm lý xã hội của thanh thiếu niên Ấn Độ, chứng tỏ tính thuận tiện và sự phù hợp của bộ công cụ này với đối tượng học sinh.

Việc sử dụng bộ công cụ DASS 21 để đánh giá tình trạng stress ở học sinh là hoàn toàn hợp lý và khả thi Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao sự quan tâm đến sức khỏe tâm thần của học sinh Trong nghiên cứu này, chúng tôi áp dụng DASS 21 cho học sinh tự điền, xác định rằng những học sinh có tổng điểm stress trên 14 sẽ gặp phải vấn đề về stress.

Giới thiệu về địa bàn nghiên cứu

Trường THPT Lương Phú, nằm tại xã khu vực 2 nông thôn Phú Bình, Thái Nguyên, đối mặt với nhiều khó khăn do kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp Ngoài việc học tập, học sinh còn phải giúp gia đình tăng gia sản xuất, điều này ảnh hưởng đến sức khỏe và thể chất của các em Được thành lập vào năm 2003, trường đã phải mượn cơ sở vật chất từ trường THCS Lương Phú trong hai năm đầu để đáp ứng nhu cầu học tập Đến năm 2005, cơ sở vật chất của trường đã được hoàn thiện, phục vụ cho hơn 1200 học sinh trong xã và các xã lân cận.

Khoảng cách từ nhà đến trường của nhiều học sinh lên tới 20km, cùng với điều kiện giao thông khó khăn và phương tiện chủ yếu là xe đạp, ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe của các em Sức khỏe tâm thần (SKTT) đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống học sinh, tác động đến mối quan hệ với thầy cô, bạn bè và gia đình, cũng như kết quả học tập và sự phát triển chung của các em Những năm gần đây, việc nghiên cứu sức khỏe tâm thần, đặc biệt là ở học sinh phổ thông, đã được chú trọng hơn Do đó, việc đánh giá stress ở học sinh phổ thông là cần thiết để đề xuất các giải pháp can thiệp nhằm nâng cao sức khỏe tâm thần cho các em.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

- Học sinh khối 10, 11, 12 trường Trung học phổ thông Lương Phú - Phú Bình - Thái Nguyên

- Tiêu chuẩn lựa chọn: Tất cả những học sinh và cha mẹ học sinh đồng ý tham gia nghiên cứu

- Tiêu chuẩn loại trừ: Những học sinh, cha mẹ học sinh từ chối hoặc bỏ tham gia nghiên cứu

- Giáo viên chủ nhiệm lớp tham gia nghiên cứu.

Thời gian và địa điểm nghiên cứu

- Địa điểm: Trường trung học phổ thông Lương Phú - Phú Bình - Thái Nguyên.

Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả, thiết kế cắt ngang, kết hợp định lượng và định tính.

Cỡ mẫu và kĩ thuật chọn mẫu

* Cỡ mẫu nghiên cứu định lượng:

Cỡ mẫu học sinh: Được tính theo công thức tính cỡ mẫu cho tỷ lệ

Trong đó: n: Là cỡ mẫu nghiên cứu α: Mức ý nghĩa thống kê; với α = 0,05 thì hệ số

Z =1,96 p: Tỷ lệ rối loạn stress, chọn p = 0,5 (Theo nghiên cứu

Nghiên cứu của Trần Thị Hồng Vân và cộng sự năm 2014 tại trường trung học phổ thông Phan Đình Phùng, Hà Nội cho thấy tỷ lệ học sinh gặp phải stress là 46,1% Để đạt được độ chính xác mong muốn với d = 0,05, số đối tượng nghiên cứu cần thiết là 385 người.

Cỡ mẫu cha mẹ học sinh: Toàn bộ cha mẹ học sinh của 1 lớp khối 10, 1 lớp khối 11 và 1 lớp khối 12 tham gia nghiên cứu

* Cỡ mẫu nghiên cứu định tính:

Cỡ mẫu Lãnh đạo nhà trường và giáo viên chủ nhiệm: toàn bộ lãnh đạo nhà trường và giáo viên chủ nhiệm của các lớp tham gia nghiên cứu

- Chọn chủ đích trường trung học phổ thông Lương Phú - Phú Bình - Thái Nguyên

- Chọn khối: Chọn cả 3 khối lớp 10, 11, 12 tham gia nghiên cứu

- Chọn lớp: 12 lớp (4 lớp khối 10, 4 lớp khối 11 và 4 lớp khối 12)

Cách chọn: Mỗi khối có 10 lớp, mỗi lớp trung bình có 40 học sinh

Lập danh sách các lớp theo khối Bốc thăm ngẫu nhiên mỗi khối 4 lớp vào nghiên cứu

- Chọn học sinh: Chọn toàn bộ học sinh trong các lớp đã được chọn

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã chọn mẫu cha mẹ học sinh từ 12 lớp đã được lựa chọn Cụ thể, chúng tôi thực hiện bốc thăm để chọn ra một lớp trong mỗi khối và tiến hành lấy toàn bộ cha mẹ của các em học sinh trong lớp đó làm mẫu nghiên cứu.

Chọn mẫu lãnh đạo nhà trường và giáo viên chủ nhiệm: Chọn toàn bộ lãnh đạo nhà trường và giáo viên chủ nhiệm các lớp tham gia nghiên cứu.

Công cụ và vật liệu nghiên cứu

2.5.1 Công cụ và vật liệu dành cho nghiên cứu thực trạng stress và tác hại tâm lý của stress sở học sinh

- Sử dụng Test tâm lý: DASS 21 để đánh giá thực trạng stress và một số hậu quả của stress ở học sinh

- Phiếu điều tra học sinh về một số tác hại tâm lý của stress

2.5.2 Công cụ và vật liệu dành cho nghiên cứu các yếu tố liên quan đến stress ở học sinh bao gồm:

Phiếu điều tra học sinh được thiết kế dựa trên yêu cầu và mục tiêu nghiên cứu Sau khi hoàn thiện, tiến hành thử nghiệm điều tra trên 15 học sinh để điều chỉnh nội dung, đảm bảo phù hợp với đối tượng và mục tiêu nghiên cứu.

- Phiếu điều tra cha mẹ học sinh: được xây dựng tương tự như mẫu phiếu điều tra học sinh

- Phiếu phỏng vấn sâu giáo viên chủ nhiệm, lãnh đạo nhà trường

2.6 Kĩ thuật thu thập số liệu

2.6.1 Đối với học sinh và cha mẹ của học sinh

Trước khi tiến hành nghiên cứu, các nghiên cứu viên cần liên hệ với Ban giám hiệu và giáo viên chủ nhiệm để thảo luận và thống nhất về nội dung, phương pháp, cũng như thời gian thực hiện nghiên cứu Đồng thời, việc thu thập phiếu đồng ý tham gia nghiên cứu từ cha mẹ và học sinh cũng là một bước quan trọng để đảm bảo tính hợp pháp và minh bạch của quá trình nghiên cứu.

Trước khi tiến hành khảo sát bằng bộ phiếu tự điền, điều tra viên sẽ giới thiệu với học sinh và phụ huynh về mục đích và lợi ích của nghiên cứu Đồng thời, điều tra viên cũng sẽ giải thích nội dung của phiếu và làm rõ một số thuật ngữ mà đối tượng nghiên cứu có thể chưa hiểu.

Bước 2: Tiến hành điều tra

- Học sinh và cha mẹ học sinh điền các thông tin vào phiếu theo sự hướng dẫn và giám sát của điều tra viên

Ngay sau khi học sinh và phụ huynh hoàn thành phiếu, ĐTV sẽ kiểm tra lại thông tin Nếu phát hiện thiếu sót hoặc có câu hỏi chưa được trả lời, ĐTV sẽ yêu cầu bổ sung ngay lập tức trong quá trình điều tra.

2.6.2 Đối với giáo viên chủ nhiệm và ban lãnh đạo nhà trường

Trước nghiên cứu: Nghiên cứu viên liên hệ với giáo viên chủ nhiệm và lãnh đạo nhà trường để thống nhất thời gian phỏng vấn

Trước khi tiến hành phỏng vấn, hãy giới thiệu rõ ràng về mục đích và lợi ích của nghiên cứu đối với đối tượng tham gia Đồng thời, cam kết bảo mật thông tin để không gây ảnh hưởng đến họ.

Bước 2: Tiến hành phỏng vấn

- Điều tra viên đặt câu hỏi và giải thích câu hỏi để đối tượng trả lời

- Kiểm tra lại phiếu phỏng vấn để bổ sung những thông tin còn thiếu.

Chỉ số nghiên cứu

2.7.1 Các chỉ số về thông tin chung của đối tượng nghiên cứu

- Các chỉ số về thông tin chung của học sinh bao gồm: phân bố theo giới tính, phân bố theo khối học, phân bố theo dân tộc

Các chỉ số thông tin chung của cha mẹ học sinh bao gồm phân bố theo nhóm tuổi, giới tính, dân tộc và trình độ văn hóa Những thông tin này cung cấp cái nhìn tổng quan về đặc điểm của phụ huynh, từ đó hỗ trợ trong việc hiểu rõ hơn về môi trường học tập và phát triển của học sinh.

2.7.2 Mục tiêu 1: Các chỉ số về thực trạng stress ở học sinh

- Tỷ lệ học sinh bị stress theo thang đo DASS 21 (Depression – Anxiety – Stress Scale 21)

- Mức độ stress theo thang đo DASS 21

- Đặc điểm stress tâm lý của học sinh theo thang đo DASS 21

- Một số ảnh hưởng của stress đối với học sinh như lo âu, trầm cảm

2.7.3 Mục tiêu 2: Các chỉ số về yếu tố liên quan đến stress ở học sinh

* Các yếu tố về gia đình như:

- Tình trạng hôn nhân của cha, mẹ

- Nghề nghiệp của cha, mẹ

- Trình độ học vấn của cha, mẹ

- KAP của cha mẹ về chăm sóc rối loạn stress ở trẻ

- Thứ tự con trong gia đình

- Tần suất mâu thuẫn trong gia đình

- Tần suất đối tượng bị mắng, chửi

- Sự quan tâm của cha mẹ với stress ở học sinh

* Các yếu tố về nhà trường:

- Cảm nhận về lượng kiến thức tại trường

- Lượng bài tập về nhà

- Sự quan tâm của giáo viên chủ nhiệm

- Hài lòng với các mối quan hệ bạn bè

- Áp lực việc thi cử

* Các hành vi sức khỏe:

- Tham gia các hoạt động ngoại khóa câu lạc bộ, năng khiếu.

Phương pháp đánh giá

* Đánh giá stress và lo âu, trầm cảm do stress theo thang DASS 21

0 điểm: Không đúng với tôi chút nào cả

1 điểm: Đúng với tôi phần nào, hoặc thỉnh thoảng mới đúng

2 điểm: Đúng với tôi phần nhiều, hoặc phần lớn thời gian là đúng

3 điểm: Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết thời gian là đúng Các câu hỏi theo thang đo DASS 21 (xem phần phụ lục)

Cách tính điểm: Điểm của stress và lo âu, trầm cảm do stress được tính bằng cách cộng điểm các đề mục thành phần, rồi nhân hệ số 2

Mức độ Trầm cảm Lo âu Stress

Đánh giá KAP của cha mẹ học sinh trong công tác chăm sóc sức khỏe là một quá trình quan trọng, sử dụng bộ câu hỏi phỏng vấn KAP để thu thập thông tin Qua việc đánh giá này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về kiến thức, thái độ và thực hành của cha mẹ đối với sức khỏe của con em họ, từ đó cải thiện các chương trình chăm sóc sức khỏe phù hợp.

Đánh giá kiến thức được thực hiện bằng cách tính điểm cho mỗi câu trả lời đúng, với mỗi câu đúng được 1 điểm, trong khi câu trả lời sai không được tính điểm Tổng điểm từ phần kiến thức sẽ được phân loại thành hai mức độ: chưa tốt và tốt, dựa theo phân loại của Bloom.

- Số điểm đạt được < 80% : Chưa tốt

- Số điểm đạt được ≥ 80%: : Tốt

Đánh giá thái độ được thực hiện thông qua một bảng câu hỏi với 5 mức trả lời, mỗi mức tương ứng với điểm số từ 1 đến 5 Tổng điểm của phần đánh giá thái độ sẽ được phân loại thành 2 mức khác nhau.

- Số điểm đạt < 80 % : Chưa tốt

- Số điểm đạt được ≥ 80%: : Tốt

Đánh giá thực hành được thực hiện bằng cách tính 1 điểm cho mỗi câu trả lời đúng, trong khi câu trả lời sai sẽ không được tính điểm Tổng điểm của phần thực hành sẽ được đánh giá dựa trên 2 mức độ khác nhau.

- Số điểm đạt < 80 % : Chưa tốt

- Số điểm đạt được ≥ 80%: : Tốt

Biện pháp khống chế sai số

Tập huấn kỹ cho điều tra viên và thực hành điều tra

Thiết kế bộ câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, trước khi tiến hành điều tra có điều tra thử và chỉnh sửa bộ câu hỏi cho phù hợp

Tất cả thông tin cá nhân của đối tượng nghiên cứu sẽ được bảo mật hoàn toàn để đảm bảo tính chính xác trong việc thu thập dữ liệu Đối tượng nghiên cứu sẽ được sắp xếp chỗ ngồi hợp lý và có sự giám sát của ĐTV để ngăn chặn việc trao đổi thông tin Nếu có bất kỳ thắc mắc nào, đối tượng có thể hỏi trực tiếp ĐTV để được giải đáp.

Sau khi đối tượng nghiên cứu tự điền phiếu câu hỏi, ĐTV kiểm tra rà soát lại các thông tin, đầy đủ mới thu lại phiếu.

Xử lý và phân tích số liệu

Số liệu được nhập và quản lý bằng phần mềm Epidata 3.1

Phân tích và xử lý số liệu được thực hiện bằng phần mềm SPSS 18.0, sử dụng các phương pháp thống kê như tính tỷ lệ phần trăm, kiểm định Khi bình phương và tính giá trị OR để đánh giá các yếu tố liên quan.

Đạo đức nghiên cứu

Nghiên cứu này đã được sự đồng ý của lãnh đạo nhà trường, giáo viên chủ nhiệm, phụ huynh và học sinh tham gia Các đối tượng nghiên cứu được thông tin rõ ràng về mục đích nghiên cứu và có quyền tự nguyện tham gia, kèm theo giấy cam kết đồng ý từ phụ huynh và học sinh Thông tin cá nhân của các đối tượng được bảo mật tuyệt đối, không ảnh hưởng đến cuộc sống, tâm lý và sức khỏe của họ Kết quả nghiên cứu sẽ được thông báo cho các đơn vị y tế và cơ quan chuyên trách địa phương, nhằm cung cấp thông tin và đưa ra khuyến nghị về việc giảm stress và nâng cao sức khỏe cho học sinh.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Đặc điểm chung của đối tượng tham gia nghiên cứu

3.1.1 Các thông tin chung của học sinh

Bảng 3.1 Đặc điểm về thông tin chung của học sinh Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ (%) Tổng n (396) %

Trong nghiên cứu với 396 học sinh, tỷ lệ học sinh khối 10 chiếm 34,8% (nam 37%, nữ 63%), khối 11 chiếm 47,2% (nam 34,2%, nữ 65,8%), và khối 12 chiếm 18% (nam 50,7%, nữ 49,3%).

- Đa số học sinh là người dân tộc kinh 91,9%, học sinh các dân tộc thiểu số chiếm 8,1%

3.1.2 Thông tin chung về nhóm cha mẹ học sinh

Bảng 3.2 Đặc điểm chung về nhóm cha mẹ học sinh Đặc điểm Số lượng

Trong một nghiên cứu với 113 cha mẹ học sinh, tỷ lệ cha mẹ trong độ tuổi 30-40 chiếm 39,8%, trong khi đó, cha mẹ từ 40-50 tuổi chiếm 51,3%, và cha mẹ trên 50 tuổi chỉ chiếm 8,9%.

- Phụ huynh nam tham gia nghiên cứu là 56,6%, phụ huynh nữ là 43,4%

- Trình độ học vấn của nhóm cha mẹ tham gia nghiên cứu đa số là trung học phổ thông trở xuống, chuyên nghiệp chiếm 21,2%

- Đa số phụ huynh tham gia nghiên cứu là người dân tộc kinh 88,5%, dân tộc thiểu số chiếm 11,5%.

Thực trạng stress ở học sinh trường THPT Lương Phú - Phú Bình - Thái Nguyên

Biểu đồ 3.1 Tỷ lệ stress ở học sinh Nhận xét: Trong 396 học sinh tham gia nghiên cứu có 123 học sinh có biểu hiện stress chiếm tỷ lệ 31,1%

Biểu đồ 3.2 Mức độ stress ở học sinh Nhận xét: Trong 123 học sinh bị stress, stress ở mức độ nhẹ chiếm 39%, vừa chiếm 30,9%, nặng chiếm 22% và rất nặng là 8,1%

Bảng 3.3 Mức độ stress theo khối học

Nhận xét: Học sinh khối 10 bị stress mức độ nhẹ là 48,8%, vừa là 27,9%, nặng là 18,6% và rất nặng là 4,7%

Học sinh khối 11 bị stress mức độ nhẹ là 34,5%, vừa là 30,9%, nặng là 25,5% và rất nặng là 9,1%

Học sinh khối 12 bị stress mức độ nhẹ là 32%, vừa là 36%, nặng là 20% và rất nặng là 12%

Bảng 3.4 Các đặc điểm của stress theo thang đo DASS 21 Đặc điểm của stress Số lượng

Cảm giác không thoải mái được 117 95,1

Phản ứng thái quá với mọi tình huống 95 77,2

Hay suy nghĩ quá mức 122 99,2

Nhận xét: Đặc điểm stress hay gặp ở học sinh là hay suy nghĩ quá mức

Theo khảo sát, có tới 99,2% người tham gia cho biết khó khăn trong việc thư giãn, trong khi 95,9% cảm thấy không thoải mái Bên cạnh đó, 88,6% gặp khó khăn trong việc thích nghi với các tình huống, 79,7% dễ bị kích động, 77,2% có phản ứng thái quá với mọi tình huống, và 73,2% dễ phật ý, tự ái.

Bảng 3.5 Tỷ lệ lo âu và trầm cảm ở học sinh do stress theo thang DASS 21 Đặc điểm Số lượng

Nhận xét: Tỷ lệ học sinh bị lo âu do stress chiếm 65,9% và trầm cảm do stress chiếm 56,1%

Bảng 3.6 Đặc điểm của lo âu do stress theo thang DASS 21 Đặc điểm của lo âu Số lượng

Cảm giác bị khô miệng 48 59,3

Ra mồ hôi (chẳng hạn như mồ hôi tay…) 55 67,9

Lo lắng về những tình huống gây hoảng sợ hoặc biến thành trò cười 74 91,4

Có biểu hiện gần như hoảng loạn 40 49,4

Nghe rõ tiếng nhịp tim dù không làm gì 48 59,3

Đặc điểm lo âu phổ biến ở học sinh bao gồm việc thường xuyên lo lắng về các tình huống gây hoảng sợ, chiếm tới 91,4% Bên cạnh đó, 61,7% học sinh thể hiện sự sợ hãi vô cớ, trong khi 49,4% cảm thấy gần như hoảng loạn.

Bảng 3.7 Đặc điểm của trầm cảm do stress theo thang DASS 21 Đặc điểm của trầm cảm Số lượng

Không có chút cảm xúc tích cực nào 58 84,1

Khó bắt tay vào công việc 66 95,7

Không có gì để mong đợi 54 78,3

Không hăng hái với việc gì 58 84,1

Cảm thấy cuộc sống vô nghĩa 42 60,9

Theo thang DASS 21, trầm cảm thường biểu hiện qua việc khó bắt tay vào công việc (95,7%), cảm giác chán nản và thất vọng (94,2%), cùng với việc thiếu hứng thú với mọi hoạt động (84,1%) và không có cảm xúc tích cực (84,1%) Ngoài ra, nhiều người không có gì để mong đợi (78,3%), 60,9% học sinh cảm thấy cuộc sống vô nghĩa, và 44,9% thậm chí cảm thấy không xứng đáng được sống.

Hộp 3.1 Các ý kiến về rối loạn stress ở học sinh

Phỏng vấn lãnh đạo nhà trường và giáo viên chủ nhiệm cho thấy rằng stress là một vấn đề phổ biến ở học sinh ở tất cả các khối lớp Khi được hỏi về khả năng học sinh mắc stress, ý kiến của họ đều đồng thuận rằng học sinh có thể gặp phải tình trạng này Đặc biệt, họ cũng nhấn mạnh rằng không có khối lớp nào hoàn toàn miễn nhiễm với stress, điều này cho thấy tầm quan trọng của việc quan tâm đến sức khỏe tâm lý của học sinh trong môi trường học đường.

Tất cả học sinh đều có thể trải qua stress, nhưng khối 12 thường chịu áp lực nhiều hơn do khối lượng kiến thức lớn và các kỳ thi quyết định Áp lực từ việc thi tốt nghiệp và lựa chọn nghề nghiệp khiến các em phải nỗ lực hết mình để đạt kết quả tốt trong kỳ thi duy nhất này.

Theo bà L.T.H.G, giáo viên chủ nhiệm, học sinh khối 12 thường phải đối mặt với áp lực lớn từ việc học tập và thi cử, đặc biệt là kỳ thi cuối khóa Các em không chỉ phải thi tốt nghiệp mà còn thi đại học, yêu cầu nắm vững kiến thức từ lớp 10 và lớp 11 Do đó, ngoài thời gian học trên lớp, nhiều học sinh còn tham gia các lớp học thêm và tự học tại nhà, dẫn đến thời gian nghỉ ngơi gần như không có hoặc rất hạn chế.

Các ý kiến cho thấy rằng tất cả học sinh đều có nguy cơ mắc stress, nhưng học sinh khối 12 đặc biệt dễ bị ảnh hưởng hơn do áp lực từ kỳ thi và yêu cầu học tập.

Các yếu tố liên quan

Bảng 3.8 Phân bố stress theo giới, dân tộc

Nhận xét: Không có mối liên quan giữa giới tính và dân tộc của học sinh với rối loạn stress (p>0,05)

Bảng 3.9 Phân bố stress theo khối học

Theo thống kê, tỷ lệ học sinh khối 10 bị stress là 31,2%, khối 11 là 29,4%, và khối 12 cao nhất với 35,2% Tuy nhiên, sự khác biệt giữa các khối lớp này không đạt ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Bảng 3.10 Phân tích đặc điểm giới tính của học sinh mắc stress theo khối lớp

Nhận xét: Tỷ lệ stress ở học sinh nữ có xu hướng cao hơn học sinh nam

Tuy nhiên sự khác biệt về đặc điểm stress theo giới ở các khối lớp chưa có ý nghĩa (p>0,05)

Bảng 3.11 Mối liên quan giữa học thêm ngoài trường với stress ở học sinh

Học thêm ngoài trường Có stress Không stress Tổng

Nhận xét: Có mối liên quan giữa nhóm có học thêm ngoài trường với tỷ lệ stress ở học sinh (p0,05)

Bảng 3.13 Phân bố stress theo đặc điểm của cha mẹ học sinh

Khác (ly dị, ly thân, góa ) 13 48,1 14 51,9 3,951

Trình độ học vấn của bố

Trình độ học vấn của mẹ

Nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa tình trạng hôn nhân của cha mẹ và mức độ stress ở học sinh Cụ thể, học sinh có cha mẹ ly dị, ly thân, góa hoặc không kết hôn có nguy cơ bị stress cao hơn so với những học sinh có cha mẹ kết hôn và sống cùng nhau, với mức ý nghĩa thống kê p0,05)

Kiến Thức Thái độ Thực hành

Biểu đồ 3.3 Đặc điểm kiến thức, thái độ, thực hành của cha mẹ học sinh về chăm sóc rối loạn stress ở học sinh Nhận xét:

- Kiến thức về stress ở học sinh của cha mẹ đa số ở mức độ tốt (87,6%), chưa tốt chiếm 12,4%

- Đa số cha mẹ có thái độ tốt đối với stress ở học sinh chiếm 75,2%, thái độ chưa tốt chiếm 24,8%

- Thực hành chăm sóc rối loạn stress ở học sinh của cha mẹ chủ yếu ở mức độ chưa đạt (83,2%), thực hành đạt chỉ chiếm 16,8%

Bảng 3.14 Phân bố stress theo các yếu tố gia đình

Con thứ mấy trong gia đình

Quan tâm của gia đình

Mâu thuẫn trong gia đình

Tần suất bị mắng, chửi

- Không có mối liên quan giữa nhóm con cả, con thứ trong gia đình với stress ở học sinh (p>0,05)

Mối liên hệ giữa sự quan tâm của gia đình, mức độ xung đột trong gia đình và tần suất học sinh bị chỉ trích có ảnh hưởng đáng kể đến biểu hiện căng thẳng ở học sinh, với giá trị p0,05).

Nghiên cứu cho thấy có sự liên quan giữa sự quan tâm của bạn bè và mức độ stress ở học sinh Cụ thể, nhóm học sinh không nhận được sự quan tâm thường xuyên từ bạn bè có nguy cơ bị stress cao hơn so với nhóm học sinh thường xuyên nhận được sự quan tâm này (p

Ngày đăng: 06/04/2022, 21:55

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Hùng Anh (2005), Học sinh stress-hậu hoạ khôn lường, tại trang web: http://suckhoedoisong.vn/hoc-sinh-stress-hau-hoa-khon-luong-n98240.html, ngày truy cập 10/04/2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Học sinh stress-hậu hoạ khôn lường
Tác giả: Hùng Anh
Năm: 2005
2. Ngân Anh (2014), Học sinh Việt Nam sống trong stress, tại trang web: vietnamnet.vn/vn/giao-duc/.../hoc-sinh-viet-nam-song-trong-stress.html, Ngày truy cập 08/04/2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Học sinh Việt Nam sống trong stress
Tác giả: Ngân Anh
Năm: 2014
3. Biểu hiện stress trong hoc tập của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà- Quảng trị (2013), doc.edu.vn/.../de-tai-bieu-hien-stress-trong-hoc-tap-cua-hoc-sinh-lop-12..., Ngày truy cập 08/04/2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Biểu hiện stress trong hoc tập của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà-Quảng trị
Tác giả: Biểu hiện stress trong hoc tập của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà- Quảng trị
Năm: 2013
4. Phạm Thanh Bình (2007), "Stress trong học tập của học sinh trung học phổ thông", Tạp chí tâm lý học, Số 12(105), tr.29-33 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Stress trong học tập của học sinh trung học phổ thông
Tác giả: Phạm Thanh Bình
Năm: 2007
6. Bộ nội vụ, Quỹ Dân số Liên hợp quốc Tổng cục dân số (2010), “Báo cáo Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam lần thứ 2 năm 2010” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam lần thứ 2 năm 2010
Tác giả: Bộ nội vụ, Quỹ Dân số Liên hợp quốc Tổng cục dân số
Năm: 2010
7. Phạm Hồng Định (2007), Nghiên cứu stress ở những trẻ em vị thành niên qua đường dây tư vấn và hỗ trợ trẻ em 18001567, Luận văn thạc sỹ tâm lý học, Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu stress ở những trẻ em vị thành niên qua đường dây tư vấn và hỗ trợ trẻ em 18001567
Tác giả: Phạm Hồng Định
Năm: 2007
8. Đỗ Thị Lệ Hằng (2009), "Các tác nhân gây stress và các ứng phó với stress của trẻ vị thành niên", Tạp chí tâm lý học, Số 7 (124), tr.20-26 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các tác nhân gây stress và các ứng phó với stress của trẻ vị thành niên
Tác giả: Đỗ Thị Lệ Hằng
Năm: 2009
9. Đàm Thị Bảo Hoa (2014), Đánh giá hiệu quả mô hình phát hiện và can thiệp sớm rối loạn tâm thần ở học sinh từ 6 - 15 tuổi tại thành phố Thái Nguyên, Luận án tiến sĩ y học, Trường đại học Y-Dược Thái Nguyên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá hiệu quả mô hình phát hiện và can thiệp sớm rối loạn tâm thần ở học sinh từ 6 - 15 tuổi tại thành phố Thái Nguyên
Tác giả: Đàm Thị Bảo Hoa
Năm: 2014
10. Thu Huyền (2017), Nguyên nhân và cách giảm stress cho học sinh, tại trang web: http://thpt-baria brvt.edu.vn/index.php? Module=Content&amp;Action=view&amp;id=509&amp;Itemid=7, ngày truy cập 10/04/2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyên nhân và cách giảm stress cho học sinh
Tác giả: Thu Huyền
Năm: 2017
11. Phạm Thị Thanh Hương (2004), "Một số biểu hiện và mức độ stress ở sinh viên trong học tập", Tạp chí tâm lý học, Số 3/2004, tr.58-63 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số biểu hiện và mức độ stress ở sinh viên trong học tập
Tác giả: Phạm Thị Thanh Hương
Năm: 2004
14. Đặng Hoàng Minh và Hoàng Cẩm Tú (2010), "Thực trạng sức khỏe tâm thần ở học sinh trung học cơ sở ở Hà Nội và nhu cầu tham vấn sức khỏe tâm thần học đường", Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, 25 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng sức khỏe tâm thần ở học sinh trung học cơ sở ở Hà Nội và nhu cầu tham vấn sức khỏe tâm thần học đường
Tác giả: Đặng Hoàng Minh và Hoàng Cẩm Tú
Năm: 2010
15. Đặng Hoàng Minh, Trịnh Thị Mai (2013), Thực trạng các vấn đề Sức khẻo tâm thần của học sinh trung học phổ thông nội trú ở vùng dân tộc thiểu số phía Bắc, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng các vấn đề Sức khẻo tâm thần của học sinh trung học phổ thông nội trú ở vùng dân tộc thiểu số phía Bắc
Tác giả: Đặng Hoàng Minh, Trịnh Thị Mai
Năm: 2013
16. Nguyễn Cao Minh (2012), Điều tra tỷ lệ trẻ em và VTN ở miền Bắc có các vấn đề sức khỏe tâm thần, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điều tra tỷ lệ trẻ em và VTN ở miền Bắc có các vấn đề sức khỏe tâm thần
Tác giả: Nguyễn Cao Minh
Năm: 2012
18. Phùng Đức Nhật (2012), “Tình trạng stress và các yếu tố liên quan ở học sinh trường THPT Nam Hà, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai năm 2012”, Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 18, Phụ bản của số 6 (2014), tr.639-645 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình trạng stress và các yếu tố liên quan ở học sinh trường THPT Nam Hà, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai năm 2012”," Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh
Tác giả: Phùng Đức Nhật (2012), “Tình trạng stress và các yếu tố liên quan ở học sinh trường THPT Nam Hà, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai năm 2012”, Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 18, Phụ bản của số 6
Năm: 2014
19. Hồ Thanh Mỹ Phương (2007), "Kỹ năng giám sát sự lo lắng và căng thẳng", Tài liệu phục vụ chuyên đề rèn luyện kỹ năng sống cho sinh viên thiệt thòi trường Đại học An Giang Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kỹ năng giám sát sự lo lắng và căng thẳng
Tác giả: Hồ Thanh Mỹ Phương
Năm: 2007
20. Nguyễn Thị Hằng Phương (2009), “Thực trạng và nguyên nhân gây ra rối loạn lo âu ở học sinh THPT chuyên Quảng Bình”, Tạp chí Tâm lý học, 6 (123), tr.57-63 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng và nguyên nhân gây ra rối loạn lo âu ở học sinh THPT chuyên Quảng Bình”," Tạp chí Tâm lý học
Tác giả: Nguyễn Thị Hằng Phương
Năm: 2009
22. Dương Đình Thiện, Phạm Ngọc Khái và cs. (1999), Dịch tễ và thống kê ứng dụng trong nghiên cứu khoa học, NXB Y học, Hà Nội, tr. 17-45 23. Lê Minh Thuận (2011), “Sức khỏe tâm lý của sinh viên: Nghiên cứu cắtngang”, Tạp chí Y học thực hành, 7(774) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sức khỏe tâm lý của sinh viên: Nghiên cứu cắt ngang”, "Tạp chí Y học thực hành
Tác giả: Dương Đình Thiện, Phạm Ngọc Khái và cs. (1999), Dịch tễ và thống kê ứng dụng trong nghiên cứu khoa học, NXB Y học, Hà Nội, tr. 17-45 23. Lê Minh Thuận
Nhà XB: NXB Y học
Năm: 2011
24. Lê Thị Thanh Thủy (2009), "Stress trong học tập và cách ứng phó ở học sinh cuối cấp trung học phổ thông", Tạp chí tâm lý học, Số 4 (121), tr.22-27 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Stress trong học tập và cách ứng phó ở học sinh cuối cấp trung học phổ thông
Tác giả: Lê Thị Thanh Thủy
Năm: 2009
21. Sức khoẻ tâm thần học sinh: Vấn đề không thể xem nhẹ, http://www.baotayninh.vn/van-de-su-kien/suc-khoe-tam-than-hoc-sinh-van-de-khong-the-xem-nhe-65729.html, truy cập ngày 08/04/2016 Link
32. Viện sức khỏe tâm thần quốc gia, Thang đo đánh gia lo âu - trầm cảm - stress (DASS21), truy cập ngày 6/1/2016, tại trangweb:http://www.nimh.gov.vn/trac-nghiem-tam-ly/28-cac-trc-nghim/151-thang- anh-gia-lo-au-trm-cm-stress-dass-21.html Link

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 3.1. Đặc điểm về thông tin chung của học sinh - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng stress và một số yếu tố liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông lương phú   phú bình thái nguyên​
Bảng 3.1. Đặc điểm về thông tin chung của học sinh (Trang 39)
Bảng 3.2. Đặc điểm chung về nhóm cha mẹ học sinh - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng stress và một số yếu tố liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông lương phú   phú bình thái nguyên​
Bảng 3.2. Đặc điểm chung về nhóm cha mẹ học sinh (Trang 40)
Bảng 3.3. Mức độ stress theo khối học - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng stress và một số yếu tố liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông lương phú   phú bình thái nguyên​
Bảng 3.3. Mức độ stress theo khối học (Trang 42)
Bảng 3.4. Các đặc điểm của stress theo thang đo DASS21 - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng stress và một số yếu tố liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông lương phú   phú bình thái nguyên​
Bảng 3.4. Các đặc điểm của stress theo thang đo DASS21 (Trang 43)
Bảng 3.5. Tỷ lệ lo âu và trầm cả mở học sinh do stress theo thang DASS21 - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng stress và một số yếu tố liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông lương phú   phú bình thái nguyên​
Bảng 3.5. Tỷ lệ lo âu và trầm cả mở học sinh do stress theo thang DASS21 (Trang 43)
Bảng 3.7. Đặc điểm của trầm cảm do stress theo thang DASS21 - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng stress và một số yếu tố liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông lương phú   phú bình thái nguyên​
Bảng 3.7. Đặc điểm của trầm cảm do stress theo thang DASS21 (Trang 44)
Bảng 3.6. Đặc điểm của lo âu do stress theo thang DASS21 - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng stress và một số yếu tố liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông lương phú   phú bình thái nguyên​
Bảng 3.6. Đặc điểm của lo âu do stress theo thang DASS21 (Trang 44)
Bảng 3.9. Phân bố stress theo khối học - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng stress và một số yếu tố liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông lương phú   phú bình thái nguyên​
Bảng 3.9. Phân bố stress theo khối học (Trang 46)
Bảng 3.8. Phân bố stress theo giới, dân tộc - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng stress và một số yếu tố liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông lương phú   phú bình thái nguyên​
Bảng 3.8. Phân bố stress theo giới, dân tộc (Trang 46)
Bảng 3.10. Phân tích đặc điểm giới tính của học sinh mắc stress theo khối lớp - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng stress và một số yếu tố liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông lương phú   phú bình thái nguyên​
Bảng 3.10. Phân tích đặc điểm giới tính của học sinh mắc stress theo khối lớp (Trang 47)
Bảng 3.11. Mối liên quan giữa học thêm ngoài trường với stres sở học sinh - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng stress và một số yếu tố liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông lương phú   phú bình thái nguyên​
Bảng 3.11. Mối liên quan giữa học thêm ngoài trường với stres sở học sinh (Trang 47)
Bảng 3.12. Phân bố stress theo dự định tương lai của học sinh - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng stress và một số yếu tố liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông lương phú   phú bình thái nguyên​
Bảng 3.12. Phân bố stress theo dự định tương lai của học sinh (Trang 48)
Bảng 3.14. Phân bố stress theo các yếu tố gia đình - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng stress và một số yếu tố liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông lương phú   phú bình thái nguyên​
Bảng 3.14. Phân bố stress theo các yếu tố gia đình (Trang 50)
Bảng 3.15. Phân bố stress theo cảm nhận của học sinh về nhà trường - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng stress và một số yếu tố liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông lương phú   phú bình thái nguyên​
Bảng 3.15. Phân bố stress theo cảm nhận của học sinh về nhà trường (Trang 51)
Bảng 3.16. Phân bố stress theo các yếu tố về nhà trường - (LUẬN văn THẠC sĩ) thực trạng stress và một số yếu tố liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông lương phú   phú bình thái nguyên​
Bảng 3.16. Phân bố stress theo các yếu tố về nhà trường (Trang 52)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w