TỔNG QUAN
Ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường là sự thay đổi không phù hợp của các thành phần môi trường, dẫn đến những tác động tiêu cực đến sức khỏe con người và hệ sinh thái.
Ô nhiễm nước xảy ra khi hóa chất độc hại, vi khuẩn, virus và ký sinh trùng từ các nguồn thải như chất thải công nghiệp được xả ra ao, hồ, sông, suối hoặc thấm xuống nước ngầm mà không qua xử lý Hiện tượng này thường do khối lượng chất thải quá lớn, vượt quá khả năng tự điều chỉnh và làm sạch của các nguồn nước tự nhiên.
1.1.1 Ô nhiễm môi trường do sản xuất nói chung
Từ thế kỷ XIX, nhiều nhà vật lý và y học như Ericman, Parscelus, và Genman (1800 - 1915) đã phát hiện ra các hóa chất và dung môi độc hại trong chế biến kim loại màu, cho thấy rằng nhiều kim loại bị nhiễm chì, asen và thủy ngân.
Vào đầu thế kỷ XX, nghiên cứu về điều kiện môi trường làm việc, các yếu tố độc hại và bệnh nghề nghiệp bắt đầu xuất hiện, đặc biệt là các công trình của Lanphear, Succop, P.Roda, và S.Henningsen G Những nghiên cứu này đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề bệnh lý, hỗ trợ các nhà lâm sàng trong việc xác định nguyên nhân và phương pháp điều trị cho các trường hợp bệnh nghề nghiệp và nhiễm độc.
1.1.2 Ô nhiễm môi trường nước do khai thác mỏ Đặc điểm qui trình khai thác, tuyển quặng tại các khu vực mỏ khai thác, khu chế biến khoáng sản, tuyến đường vận chuyển đất đá thải, sản phẩm, mức độ gây ô nhiễm môi trường là rất lớn, ô nhiễm môi trường do nguồn nước thải phát sinh từ quá trình chế biến, tuyển rửa với đặc thù ô nhiễm về kim loại nặng, chất rắn lơ lửng, [50]
Hoạt động khai thác mỏ phát sinh kim loại nặng và hóa chất nguy hại, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người, gây ra nhiều bệnh lý liên quan đến mắt, da, mũi họng, tiêu hóa, hô hấp, tuần hoàn, thận, gan, và thậm chí có thể dẫn đến ung thư, tổn hại hệ thần kinh trung ương và dị dạng bẩm sinh Bên cạnh đó, nguồn nước mặt và nước ngầm cũng bị ô nhiễm nghiêm trọng do các hoạt động khai thác này.
Các chất độc hại và kim loại nặng từ các mỏ khai thác đang gây ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm tại khu dân cư, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của công nhân và cư dân lân cận Nghiên cứu của Viện Y học lao động và vệ sinh môi trường chỉ ra rằng các khu vực khai thác kim loại màu ở miền Bắc Việt Nam, như mỏ kẽm chì Làng Hích và mỏ thiếc Sơn Dương, có hàm lượng kim loại nặng vượt giới hạn cho phép từ 2-10 lần đối với chì, 1,5-5 lần đối với Asen và 2-15 lần đối với kẽm Tại mỏ than lộ thiên Khánh Hòa, nồng độ bụi than và bụi đá có thể lên tới 42mg/m³, cho thấy mức độ ô nhiễm môi trường đáng báo động.
Ô nhiễm môi trường do chì
1.2.1 Đặc điểm lý, hóa của chì
Chì là kim loại nặng màu xanh xám, dễ dát thành lá mỏng và kéo thành sợi, với nhiệt độ chảy là 237°C và nhiệt độ sôi là 1525°C Kim loại này hòa tan nhanh trong acid nitric và dễ tan trong các chất hữu cơ, cũng như trong nước có chứa muối nitrat Con người đã phát hiện và khai thác chì từ cách đây 8.000 năm dưới dạng quặng galen Chì được biết đến từ thời thượng cổ, cùng với các kim loại quý khác như vàng, bạc, đồng, thủy ngân và sắt.
Chì có nhiều ứng dụng quan trọng trong công nghiệp, đặc biệt là trong sản xuất ắc quy chì nhờ vào khả năng tạo thành lớp muối khó tan khi tiếp xúc với dung dịch H2SO4 nồng độ thấp hơn 80% Ngoài ra, chì còn được sử dụng để sản xuất vỏ dây cáp, đầu đạn, ống dẫn nước và thiết bị bảo vệ khỏi tia phóng xạ Chì có mặt trong nhiều hợp kim, như hợp kim cho ổ trục và que hàn PbO là nguyên liệu chính trong sản xuất ắc quy chì và dụng cụ quang học, trong khi Pb3O4 (Minium) chủ yếu được dùng trong sản xuất thủy tinh và sơn Chì axetat được ứng dụng trong ngành nhuộm và y học, còn chì cacbonat, chất bột màu trắng không tan trong nước, được dùng để làm sơn dầu màu trắng Tetraetyl chì, một hợp chất độc hại, được sử dụng làm chất chống kích nổ, trong khi các hợp chất chì IV, như PbO2, có vai trò quan trọng trong ngành hóa học Cuối cùng, chì cromat (PbCrO4) với màu vàng đẹp được dùng để pha sơn.
Chì được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực như công nghiệp, y tế và đời sống hàng ngày, dẫn đến nguy cơ ô nhiễm môi trường không thể tránh khỏi Ô nhiễm chì bắt đầu từ quá trình khai thác mỏ và nấu quặng, và hiện nay, mức độ ô nhiễm chì trên bề mặt trái đất đã tăng gấp 10 lần so với hàm lượng chì tự nhiên trong đất Chì tồn tại với nồng độ từ 10 đến 20 mg/kg trong lớp vỏ trái đất.
1.2.2 Sự tồn lưu và các con đường xâm nhập của chì vào cơ thể con người
Môi trường đang bị đe dọa bởi ô nhiễm chì do các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp và giao thông Con người có thể tiếp xúc với chì qua không khí, đất và nước, với hai hình thức tiếp xúc chính là nghề nghiệp và không nghề nghiệp.
Sơ đồ 1.1 Nước thải và đường xâm nhập của chì vào cơ thể [12]
Tiếp xúc với chì là một vấn đề phổ biến không chỉ ở người lao động trong các ngành nghề sử dụng chì mà còn trong môi trường sống hàng ngày Điều này cho thấy có một nguồn tồn lưu chì trong môi trường, do chì có mặt trong nguyên liệu công nghiệp và các vật dụng chứa đất.
Nước bề mặt Động Cây vật
CON NGƯỜI chì Sự tiếp xúc với chì không do nghề nghiệp là khá nhiều và con đường xâm nhập chủ yếu là đường hô hấp và tiêu hóa [4]
1.2.2.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới
* Nguồn tiếp xúc nghề nghệp
Theo nghiên cứu của Lanphear B.P và cộng sự, những ngành nghề có nguy cơ tiếp xúc cao với chì bao gồm thợ ắc quy, công nhân sửa chữa đồng thau, thợ đồng thiếc, thợ nấu chì, thợ mài đốt tinh chế kim loại, thợ sơn, thợ sản xuất dây cáp điện, thợ đúc, thợ sắt, thợ gốm và thợ hàn.
* Nguồn tiếp xúc không nghề nghiệp
Chì trong không khí là một vấn đề đã được nhiều tác giả nghiên cứu, trong đó có nghiên cứu của Tuzen Mvà cho thấy mức độ chì biến thiên rộng rãi tùy thuộc vào khu vực và vị trí, thường thấp hơn 1 µg/m³ trong môi trường Đặc biệt, nồng độ chì trong không khí tăng cao tại các nút giao thông, như nghiên cứu của Supat.W từ năm 1981-1991 tại Bangkok ghi nhận mức trung bình từ 36 đến 7,56 µg/m³ Điều này cho thấy sự dao động lớn về hàm lượng chì trong không khí mà các nghiên cứu đã chỉ ra.
Chì trong bụi đất là một vấn đề nghiêm trọng, khi chì từ không khí thường lắng đọng trở lại môi trường đất, như đã được Kavallieratos K và các cộng sự khẳng định Theo nghiên cứu, hoạt động của các phương tiện giao thông đóng góp đáng kể vào ô nhiễm đất, đặc biệt là ở những khu vực gần đường, nơi mà lượng chì trong đất giảm dần theo khoảng cách từ đường giao thông.
Theo Kovacs E định lượng chì trong đất tại các thành phố lớn ở Mỹ có khoảng dao động từ 160 - 530 àg/g đất [43]
Ô nhiễm chì hiện nay chủ yếu xuất phát từ khí thải của ô tô và xe máy, do từ năm 1924, con người đã thêm chì vào xăng dầu để ngăn ngừa hiện tượng nổ Trung bình, mỗi người dân Mỹ tiêu thụ khoảng 1000g chì mỗi năm thông qua việc sử dụng ô tô Tổng lượng chì xả ra môi trường tại Mỹ hàng năm lên đến hàng chục nghìn tấn, gây ra tình trạng ô nhiễm không khí nghiêm trọng với hàm lượng chì cao.
Hàm lượng chì trong không khí quanh khu vực sản xuất ắc quy đang ở mức cao, từ 290 đến 500 µg/m³, trong khi khu vực xưởng đúc luyện cũng ghi nhận mức cao hơn 10 µg/m³ so với mức cho phép Tình trạng này có thể gây nguy hiểm cho cộng đồng sống lân cận, vì nếu tiếp xúc lâu dài, nó có thể dẫn đến việc tăng hàm lượng chì trong máu.
Mức độ chì trung bình trong không khí vùng đô thị được công bố bởi Scutz A là 0,15 µg/m³, cao hơn nhiều so với khu vực ô nhiễm công nghiệp ở Uruguay Nghiên cứu của Ohman H cho thấy nồng độ chì trong không khí ngoài trời là 5,8 µg/m³, trong khi nồng độ chì trong nhà chỉ đạt 1,1 µg/m³ Đặc biệt, vào buổi chiều, nồng độ chì trong không khí tăng lên 6,3 µg/m³, cao hơn so với buổi sáng Tại Thụy Điển, hàm lượng chì trong xăng dao động từ 0,6 đến 0,7 g/l.
Jin A và cộng sự chỉ ra rằng chì trong bụi và đất là nguồn tiếp xúc chính đối với trẻ em, có mối liên hệ chặt chẽ với mức chì trong máu của trẻ Nồng độ chì trong đất có sự biến động lớn, có nơi lên tới hàng nghìn µg/g đất.
Lượng chì có trong đất là từ không khí và nước lắng đọng xuống Lượng chì có trên bề mặt trái đất từ 10 - 20 mg/kg
Chì tồn tại trong không khí và lắng xuống đất, dẫn đến sự gia tăng đáng kể nồng độ chì trong đất Khi có mưa, chì sẽ ngấm vào nước, làm tăng lượng chì trong nước bề mặt và nước ngầm nông Từ đó, cây trồng hấp thu chì, làm tăng nồng độ chì trong thực vật Vấn đề này đang được các nhà khoa học nghiên cứu một cách nghiêm túc.
Tại Mỹ các giám sát hàm lượng chì trong nước cho thấy ít khi vượt quá
50 àg/l nước [46] Yao J và cs nghiờn cứu thấy hàm lượng chỡ đo được trong cỏc vũi cả hệ thống cấp nước là dưới 0,05 àg/ml [52]
Nghiên cứu của Gunnarson E và cộng sự cho thấy hàm lượng chì trong nước bề mặt chỉ đạt 0,02 àg/l Trong khi đó, Kavallieratos K và nhóm nghiên cứu đã phân tích 2000 mẫu nước tại Hawaii, Mỹ, và phát hiện hàm lượng chì dao động từ 20 đến 700 àg/l Theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mức chì cho phép trong nước bề mặt là dưới 10 àg/l (0,01 mg/l).
Hàm lượng chì trong đồ ăn uống và thực phẩm dao động nhiều, phần lớn thực phẩm bị nhiễm chì do chế biến và bảo quản
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (OMS), nhiều loại thực phẩm và đồ uống chứa một lượng chì nhất định Cụ thể, lượng chì trong sữa dao động từ 10 - 40 µg/l, và có thể tăng cao khi sữa bị cô đặc Trong rượu vang, hàm lượng chì từ 130 - 300 µg/m³ do rượu vang được lưu trữ trong các bình lớn và lâu năm trong hầm rượu, cũng như sự di chuyển của chì từ các bình chứa vào rượu Ngoài ra, nghiên cứu từ các nhà khoa học Trung Quốc cho thấy rằng khi nước canh nóng hoặc canh chua được đựng trong bát nhôm hoặc bát tráng men, lượng chì trong đó cũng tăng cao Về rau củ, nghiên cứu của Kovacs E tại Mỹ chỉ ra rằng hàm lượng chì trong trái cây và nước hoa quả là 0,005 - 0,223 µg/g, trong khi ở rau là 0,005 - 0,694 µg/g.
Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đến sức khỏe, bệnh tật người dân xung quanh khu khai thác mỏ
Mối liên hệ giữa môi trường và sức khỏe con người là rất chặt chẽ Việc khai thác và sử dụng tài nguyên môi trường một cách hợp lý có thể mang lại lợi ích kinh tế và sức khỏe to lớn Ngược lại, nếu không bảo vệ và phát triển môi trường một cách bền vững, nó sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe con người, tạo ra các yếu tố nguy cơ dẫn đến bệnh tật.
Khoảng 25% bệnh tật ở con người liên quan đến môi trường, trong đó 80% các bệnh có nguyên nhân từ nước hoặc liên quan đến nước Đặc biệt, 80% tất cả các loại ung thư cũng có liên quan đến các yếu tố môi trường như hút thuốc, chế độ dinh dưỡng và các yếu tố khác.
Ngành công nghiệp luyện chì và kẽm chứa nhiều yếu tố độc hại hơn so với các ngành sản xuất kim loại màu khác Nghiên cứu của Letavet, Satalop và Zoi đã chỉ ra rằng công nhân tiếp xúc với chì thường gặp phải các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng như suy nhược cơ thể, viêm não và huyết áp cao Bên cạnh đó, các tác giả cũng đã đề cập đến cơ chế bệnh sinh liên quan đến nhiễm độc chì.
Nước thải công nghiệp luyện kim thường chứa các kim loại độc hại như Pb, Hg, Cd, As, và Mn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người Chì, một trong những kim loại này, có khả năng tích lũy trong cơ thể, dẫn đến các vấn đề như độc thần kinh và có thể gây tử vong nếu nhiễm độc nặng Các triệu chứng của nhiễm độc chì bao gồm đau bụng, đường viền đen ở lợi, viêm khớp, viêm thận, cao huyết áp và thiếu máu.
Tại Thái Nguyên cũng có nhiều nghiên cứu về môi trường và sức khoẻ, nhất là môi trường tại các nhà máy lớn và khu công nghiệp
Năm 2000, Đồng Ngọc Đức và cộng sự đã nghiên cứu sức khỏe của phụ nữ từ 15 đến 49 tuổi có chồng sống quanh khu vực nhà máy luyện kim màu Thái Nguyên Kết quả cho thấy hàm lượng chì trong mẫu nước sinh hoạt, nước thải và nước suối đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép, đặc biệt là nước giếng có hàm lượng chì cao hơn nhiều so với các khu vực khác Nghiên cứu cũng chỉ ra mối liên quan giữa mức chì trong máu cao với nguy cơ sảy thai (gấp 1,8 lần), thai lưu (4,3 lần) và tỷ lệ phụ nữ mắc bệnh viêm đường sinh dục cao gấp 3,8 lần.
Hoàng Khải Lập và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu về môi trường tự nhiên, bao gồm đất, nước, không khí, cũng như môi trường kinh tế xã hội tại xã Nam Hòa Nghiên cứu cho thấy rằng nguy cơ ô nhiễm nước ở đây rất cao, với tỷ lệ lên tới 0,9%, ảnh hưởng đến 52% dân số địa phương.
Nghiên cứu của Hoàng Hải Bằng năm 2003 về môi trường và sức khỏe của người dân sống gần khu vực khai thác mỏ Thiếc Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang cho thấy hàm lượng thiếc (360,7 àg/l) và kẽm (9,1 àg/l) trong nước sinh hoạt của người dân tại đây cao hơn so với khu vực xa Nồng độ chì trong máu của người dân vùng khai thác đạt 197,6 àg/l, cũng cao hơn so với người dân ở xa Tỷ lệ mắc bệnh tại khu vực khai thác cao hơn, với bệnh tuần hoàn chiếm 44,4%, bệnh hô hấp 72,2%, và bệnh hệ thần kinh 36,4%.
Nghiên cứu của Nghiêm Kim Dung năm 2004 về sức khỏe và bệnh tật của người dân sống gần khu khai thác mỏ Mangan tại Cao Bằng cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ở khu vực này cao hơn so với vùng đối chứng, cụ thể là bệnh hô hấp chiếm 77,68%, bệnh hệ thần kinh 51,7% và bệnh hệ tuần hoàn 34,8% Đặc biệt, hàm lượng Mangan trong máu của người dân nơi đây đạt 54,05 àg/l, vượt xa nồng độ bình thường từ 20 đến 30 àg/l.
Chì là một chất độc hại với nhiều nguồn gây nhiễm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người và các cơ quan trong cơ thể Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tác hại của chì đối với sức khỏe công nhân, nhưng còn rất ít tài liệu đề cập đến nguồn tiếp xúc không nghề nghiệp Đặc biệt, sự ảnh hưởng của chì đến sức khỏe cộng đồng sống xung quanh các khu vực ô nhiễm do chất thải từ các nhà máy và xí nghiệp cần được nghiên cứu nhiều hơn.
Một số biểu hiện bệnh lý thường gặp (Giai đoạn nhiễm chì thực sự):
• Toàn thân: nhức đầu, da tái nhợt, ăn uống kém, mệt mỏi, thường hay đau cơ
Thiếu máu do nhiễm độc chì thường không nặng, với huyết sắc tố hiếm khi giảm xuống dưới 60% Số lượng hồng cầu có thể dưới 3,5 triệu/mm³, và tình trạng thiếu máu có thể là đẳng sắc hoặc nhược sắc.
• Viêm đa dây thần kinh: thường hay liệt nhất là thể liệt thần kinh quay với triệu chứng tay cổ cò
• Cao huyết áp: hiện tượng này xảy ra do hiện tượng co thắt các động mạch thận Cao huyết áp thường đi đôi với cơn đau bụng chì [28].
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mô tả, thiết kế nghiên cứu cắt ngang
2.2.1 Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu nghiên cứu
2.2.1.1 Chọn mẫu và cỡ mẫu môi trường nước
Mẫu nước giếng: được tính theo công thức: n= Z 2 1-α/2 2
Trong đó: n: cỡ mẫu nghiên cứu
Z 1-α/2 : giá trị điểm Z tại mức ý nghĩa α, với α = 0,05, Z 1-α/2 = 1,96 s 2 : phương sai
X: giá trị trung bình của một nghiên cứu trước ε: mức sai lệch tương đối giữa các tham số mẫu và tham số quần thể Dựa vào kết quả nghiên cứu hàm lượng chì trong nước sinh hoạt của người dân xung quanh Công ty kim loại màu Thái Nguyên, theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Quỳnh Hoa [14], ta có X = 0,019; s = 0,014; ε = 0,3; thay vào công thức ta có n = 23,17 Số mẫu tối thiểu cần xét nghiệm là 23,17 mẫu
Chúng tôi đã tính toán cỡ mẫu và cộng thêm 10% dự phòng, dẫn đến tổng số 26 mẫu Để tiến hành xét nghiệm, chúng tôi đã chọn 30 mẫu chì trong nước, được phân bố theo hai xóm một cách có chủ đích.
2.2.1.2 Chọn mẫu, cỡ mẫu khám bệnh
Để ước lượng một tỷ lệ trong quần thể với sai số mong muốn không vượt quá 5% và độ tin cậy 95%, bạn có thể sử dụng công thức tính cỡ mẫu Công thức này giúp xác định số lượng mẫu cần thiết để đảm bảo kết quả nghiên cứu chính xác và đáng tin cậy.
Trong đó: n: cỡ mẫu nghiên cứu
Z 1-α/2 là giá trị điểm Z tương ứng với mức ý nghĩa α, với α = 0,05, Z 1-α/2 = 1,96 Độ sai lệch mong muốn d giữa tỷ lệ thu được từ mẫu và tỷ lệ thực của quần thể p đại diện cho tỷ lệ ước lượng của biến số nghiên cứu.
Theo nghiên cứu của Hoàng Hải Bằng, tỷ lệ mắc bệnh đường tiết niệu ở người dân sống quanh khu vực mỏ thiếc Sơn Dương là 20,2%, tương ứng với p = 0,202 và q = 0,798 Để phân tích thêm, chúng tôi chọn mức ý nghĩa d = 0,05.
Thay vào công thức (2), ta có n = 247,7 Cỡ mẫu tính toán trên được cộng với 10% dự phòng và làm tròn là 248 người Thực tế, chúng tôi khám
288 người và phân bố số người khám bệnh ở hai xóm nghiên cứu
2.2.1.3 Chọn mẫu, cỡ mẫu xét nghiệm chì trong máu và nước tiểu Được tính theo công thức (1) Dựa vào kết quả nghiên cứu về hàm lượng chì trong máu của người dân sống xung quanh Công ty Kim loại màu Thái Nguyên [14] ta có X = 0,03; s = 0,007; ε = 0,09 Thay vào công thức ta có n 25,82 người; Cỡ mẫu tính toán trên được cộng với 10% dự phòng và làm tròn thành 28,40 mẫu Chúng tôi xét nghiệm 30 mẫu máu, 30 mẫu nước tiểu
Chọn mẫu xét nghiệm chì niệu và chì máu là bước quan trọng trong việc phát hiện bệnh, đặc biệt đối với những người có nguy cơ cao và hộ gia đình sử dụng nước giếng Việc này giúp xác định mức độ nhiễm độc chì trong cơ thể và nguồn nước, từ đó có biện pháp can thiệp kịp thời để bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
- Xét nghiệm hàm lượng chì trong môi trường nước giếng của hộ gia đình sống xung quanh xí nghiệp kẽm chì Làng Hích,Thái Nguyên
- Khám để phát hiện một số bệnh
- Xét nghiệm chì máu, chì niệu của người trưởng thành
- Một số yếu tố liên quan: chì trong nước, chì máu, chì niệu
2.2.3 Các chỉ số nghiên cứu:
2.2.3.1 Thông tin chung: giới, nghề nghiệp, thời gian cư trú
2.2.3.2 Chỉ số về ô nhiễm chì trong nước giếng:
- Hàm lượng chì trong nước giếng
NGƯỜI DÂN TRƯỞNG THÀNH SỐNG XUNG QUANH XÍ NGHIỆP KẼM - CHÌ
TỶ LỆ MẮC BỆNH (TMH, tiêu hóa,tiết niệu…)
XÍ NGHIỆP KẼM CHÌ LÀNG HÍCH
2.2.3.3 Chỉ số về xét nghiệm máu và nước tiểu
- Hàm lượng chì trong máu
- Hàm lượng chì trong nước tiểu
- Nồng độ huyết sắc tố
- Tương quan giữa hàm lượng chì trong nước , trong máu và trong nước tiểu của người dân sống xung quanh xí nghiệp kẽm chì
- Tỷ lệ chì cao hơn tiêu chuẩn cho phép trong nước giếng, trong máu, chì niệu của người dân sống xung quanh xí nghiệp kẽm chì
2.2.3.4 Chỉ số về bệnh tật
- Tỷ lệ mắc các chứng bệnh TMH
- Tỷ lệ mắc các chứng bệnh hệ tiêu hoá
- Tỷ lệ mắc các chứng bệnh hệ tiết niệu
- Tỷ lệ mắc các chứng về cơ xương khớp
- Tỷ lệ mắc các chứng bệnh ngoài da
- Tỷ lệ mắc các chứng bệnh hệ thần kinh
- Tỷ lệ một số bệnh của người dân sống xung quanh xí nghiệp kẽm chì theo khoảng cách
2.2.4 Phương pháp thu thập số liệu
2.2.4.1 Thu thập số liệu xét nghiệm chì trong môi trường nước giếng, chì trong máu và chì trong nước tiểu và hemoglobin
Để phân tích chì trong nước giếng sinh hoạt, bạn cần lấy mẫu nước 500 ml cho vào chai sạch Hãy ghi rõ họ tên chủ hộ và đặc điểm mẫu trước khi gửi đến phòng thí nghiệm Viện 69.
Kỹ thuật vô cơ hóa mẫu nước là phương pháp quan trọng trong việc đo lường hàm lượng chì (Pb) trong mẫu nước Do nồng độ chì thường thấp, cần thực hiện quy trình làm giàu mẫu bằng cách lấy 50 ml nước và bay hơi ở nhiệt độ 70-80 độ C Sau khi bay hơi, cặn thu được sẽ được hòa tan bằng 2 ml HCl 1%.
Mẫu trắng, hay còn gọi là mẫu so sánh, là loại mẫu chứa đầy đủ các điều kiện cần thiết cho quá trình vô cơ hóa mã, đặc biệt là hóa chất được sử dụng cùng với mẫu phân tích.
Kết quả phân tích chì trong nước được phân tích bằng máy đo phổ hấp thụ nguyên tử AAS
Bảng 2.1 Thông số đo của phép đo của chì
Tỷ lệ Acetylen/không khí 1,2/6
Nồng độ kiểm tra chuẩn 4,0 mg/l
Xây dựng đường chuẩn 1,2,3,4,5 mg/l Độ nhạy của phép đo 0,032
Tiến hành đo trên máy quang phổ hấp thụ nguyên tử AAS 3300 bằng cách đặt thông số qua hệ thống điều khiển máy tính, sau đó ổn định trong 30 phút Tiếp theo, tiến hành dựng đường chuẩn và đo mẫu trắng để thu được kết quả C T (mg/l) cùng với mẫu nghiên cứu cho kết quả C M (mg/l) Kết quả được xử lý bằng phần mềm chuyên dụng và hiển thị trên màn hình hoặc in ra kèm theo các thông số cần thiết.
+ Tớnh kết quả: theo àg/l hay mg/l tựy theo quy ước quốc tế
Cách phân tích chì trong máu được thực hiện bằng máy đo phổ hấp thụ nguyên tử Perkin Elmer 3300 Quy trình bắt đầu bằng việc vô cơ hóa 1 ml máu với 5 ml HNO3 đặc (65%) và 1 ml oxy già (100%) bằng phương pháp đun cách thủy đến cạn trong tủ hút Sau khi hoàn tất quá trình vô cơ hóa ướt, mẫu được pha loãng với HNO3 0,1% để tiến hành đo.
- Cách phân tích chì trong nước tiểu: đo bằng máy đo phổ hấp thụ nguyên tử không ngọn lửa (lò graphite) - máy Analyst 600 (Perkin Elmer)
Xác định bằng AAS với lò graphite sau khi pha loãng 1:1 bằng nước khử ion
Hiệu chuẩn được thực hiện trực tiếp bằng bộ chuẩn trong nước, sử dụng di-ammonium hydro orthophosphat làm chất nền nguyên tử hóa Sau đó, tiến hành hiệu chỉnh nền theo phương pháp QuadLine hoặc Zeeman.
Phương pháp: dùng Acid nitric , metanol sạch, di-ammonium hydro orthophosphat, chuẩn chì AAS 1000 mg/l
Bảo quản mẫu: mẫu nước tiểu lấy vào chai nhựa rửa bằng acid và acid hóa đến pH < 2 bằng acid nitric, bảo quản ở 4 0 C đến khi phân tích
Để chuẩn bị mẫu cho phân tích, hãy đưa mẫu vào cốc của bộ bơm mẫu tự động đã được tráng acid ngay trước khi tiến hành Dãy chuẩn sẽ được pha tự động từ dung dịch chuẩn gốc 50 mg/L Chất nền sử dụng trong quá trình này là dung dịch acid nitric 0,1% và di-ammonium hydro orthophosphat 1%.
Để phân tích hemoglobin, cần lấy 2 ml máu từ tĩnh mạch và sử dụng EDTA làm chất chống đông Sau đó, mẫu máu được đưa về phòng thí nghiệm để thực hiện phân tích bằng máy xét nghiệm huyết học SYSMEX KX - 21 JAPAN.
2.2.4.2 Thu thập số liệu khám bệnh:
* Thu thập số liệu về các bệnh : trong nghiên cứu này, chúng tôi chọn một số nhóm bệnh hoặc chứng bệnh bao gồm các nhóm bệnh sau:
- Bệnh về TMH: được xác định là các bệnh thường gặp như: ho, viêm mũi dị ứng, viêm mũi họng, viêm thanh quản…
Phương pháp xử lý hạn chế sai số
- Chọn cỡ mẫu đảm bảo đủ cỡ và lực mẫu để khống chế được sai số ngẫu nhiên
Đội ngũ cán bộ điều tra và khám bệnh đã được đào tạo bài bản trước khi triển khai nghiên cứu, đồng thời thường xuyên rút kinh nghiệm để nâng cao chất lượng công việc.
- Cán bộ thu thập số liệu là học viên cao học, các bác sỹ chuyên khoa của BVĐKTW Thái Nguyên và trường Đại học Y Dược Thái Nguyên
- Thực hiện các kỹ thuật lấy mẫu xét nghiệm ở cùng một thời điểm, trước khi phân tích, chuẩn máy chính xác, đo theo đúng thường qui kỹ thuật.
Đạo đức trong nghiên cứu
- Là một nghiên cứu hoàn toàn nhằm mục đích bảo vệ sức khoẻ người lao động, ngoài ra không nhằm mục đích nào khác
- Thực hiện nghiêm chỉnh, đầy đủ các quy định về y đức của ngành Y tế
- Đối tượng tự nguyện hoàn toàn trong nghiên cứu và sẵn sàng hợp tác tốt
- Trong quá trình nghiên cứu không gây ra bất kỳ một hậu quả xấu nào
- Tất cả các xét nghiệm, khám bệnh đều được miễn phí
2.5 Phương pháp xử lý số liệu: Theo thuật toán thống kê sử dụng trong nghiên cứu y sinh học trên phần mềm tin học thống kê theo phần mềm SPSS 11.5
- Tính hệ số tương quan r.
Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
3.1 Thông tin chung về đối tƣợng nghiên cứu
Bảng 3.1 Tỷ lệ giới của đối tượng nghiên cứu
Giới Số lƣợng (n= 288) Tỷ lệ (%)
Nhận xét: Tỷ lệ nữ ở khu vực nghiên cứu cao hơn so với nam, tỷ lệ nữ (61,81%), nam (38,19 %)
Bảng 3.2 Nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu
Nghề nghiệp Số lƣợng (n= 288) Tỷ lệ (%)
Nông dânCán bộKhác
Nhận xét: Kết quả bảng 3.2 và biểu đồ 3.1 cho thấy nghề nghiệp của người dân khu vực nghiên cứu chủ yếu là nông dân (93,75%)
Bảng 3.3 Thời gian cư trú của đối tượng nghiên cứu
Thời gian Số lƣợng (n= 288) Tỷ lệ (%)
Nhận xét: Thời gian cư trú của người dân tại khu vực nghiên cứu chủ yếu là trên 15 năm, chiếm tỷ lệ 93,06%.
Mức độ ô nhiễm chì trong nước giếng của người dân sống xung
Bảng 3.4 Kết quả phân tích chì trong nước giếng của các hộ gia đình sống xung quanh xí nghiệp
Chì trong nước giếng 0,00585 ± 0,00323 < 0,01 mg /l
Khu vực nghiên cứu TCCP mg/l
Biểu đồ 3.2 Hàm lượng chì trong nước giếng so với TCCP
Kết quả phân tích hàm lượng chì trong nước giếng của các hộ gia đình xung quanh xí nghiệp, như thể hiện trong bảng 3.4 và biểu đồ 3.2, cho thấy mức độ chì thấp hơn tiêu chuẩn chất lượng nước.
Bảng 3.5 Số hộ gia đình sống xung quanh xí nghiệp kẽm chì Làng Hích có hàm lượng chì trong nước giếng vượt tiêu chuẩn cho phép
Loại giếng Số lượng (n = 30) Tỷ lệ (%)
Hàm lƣợng chì vƣợt TCCP
Giếng đào Giếng khoan Tổng số (Tỷ lệ %)
Biểu đồ 3.3 Tỷ lệ hộ gia đình có hàm lượng Pb trong nước giếng vượt TCCP
Bảng 3.5 và biểu đồ 3.3 cho thấy 20% hộ gia đình sống xung quanh xí nghiệp kẽm chì Làng Hích có nước giếng bị ô nhiễm chì vượt quá tiêu chuẩn chất lượng nước Cụ thể, tỷ lệ ô nhiễm ở giếng đào là 13,33% và ở giếng khoan là 6,67%.
BÀN LUẬN
Mức độ ô nhiễm chì trong nước giếng của người dân sống xung
Chì, mặc dù là một chất độc hại, nhưng lại được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực, bao gồm sản xuất ắc quy và các sản phẩm tiêu dùng như sơn tường, ống dẫn nước, cũng như đồ sành sứ tráng men chứa hóa chất có chì Điều này dẫn đến nguy cơ ô nhiễm môi trường không thể tránh khỏi.
Chì có thể xâm nhập vào cơ thể qua nhiều con đường khác nhau, bao gồm từ nước thải của các nhà máy, ngấm vào đất và sau đó được cây trồng hấp thụ Ngoài ra, chì cũng có thể vào cơ thể qua không khí qua các cơ quan hô hấp, tiêu hóa và da, và cuối cùng được đào thải ra ngoài qua hệ tiết niệu.
Lượng chì trong nước bề mặt và nước giếng ở khu vực nghiên cứu chủ yếu do ngấm từ đất và nước thải từ các nhà máy chưa được xử lý Kết quả phân tích cho thấy hàm lượng chì trong nước giếng sinh hoạt thấp hơn tiêu chuẩn cho phép (TCCP), với 0,0058 mg/l So với các nghiên cứu quốc tế, hàm lượng chì trong hệ thống cấp nước tại Mỹ là < 0,05 µg/l và 0,02 µg/l trong nước bề mặt Tuy nhiên, tỷ lệ hộ gia đình xung quanh xí nghiệp kẽm chì Làng Hích, Thái Nguyên có hàm lượng chì vượt TCCP, với 13,33% ở giếng đào và 6,67% ở giếng khoan Tổng cộng, 20,00% mẫu xét nghiệm chì trong khu vực nghiên cứu cao hơn TCCP.
Bảng 4.1 So sánh hàm lượng chì trong nước giếng với các tác giả khác
Tác giả Đối tƣợng HL
Lỗ Văn Tùng [31] Nước giếng của người dân ở làng nghề tái chế chì - Hà Nội 0,0016 2008 Đỗ Thị Hằng
Nước giếng của người dân sống xung quanh xí nghiệp kẽm chì Làng Hích,
Kết quả xét nghiệm chì trong nước giếng của chúng tôi cao hơn so với kết quả của Lỗ Văn Tùng Nguyên nhân có thể là do nguồn nước của người dân sống xung quanh xí nghiệp kẽm chì Làng Hích bị ảnh hưởng bởi nước thải từ xí nghiệp.
Thực trạng bệnh tật của người trưởng thành sống xung quanh xí nghiệp kẽm chì Làng Hích, Thái Nguyên năm 2011
4.2.1 Thực trạng bệnh tật củ a người trưởng thành sống x ung quanh xí nghiệp kẽm chì làng Hích
Theo các chuyên gia, nồng độ chì cao có thể gây tổn hại nghiêm trọng và không thể khắc phục đối với hệ thần kinh, cơ quan sinh sản và thận Điều này đặc biệt nguy hiểm đối với trẻ nhỏ, phụ nữ mang thai và đang cho con bú.
Khảo sát sức khỏe và bệnh tật của người trưởng thành sống quanh xí nghiệp kẽm chì Làng Hích, Thái Nguyên, chúng tôi đã chọn hai xóm là Đồng Mẫu và Làng Mới, nơi có người dân sinh sống gần xí nghiệp.
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong khu vực nghiên cứu, tỷ lệ nam giới chiếm 38,19% và nữ giới chiếm 61,81%, cho thấy tỷ lệ nữ cao hơn so với nam Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là nông dân, chiếm 93,75%, và thời gian sinh sống của họ chủ yếu trên 15 năm, đạt 93,15%.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Nghiêm Thị Kim Dung, cho thấy tỷ lệ bệnh tật của người dân sống gần khu khai thác mỏ Mangan.
Nghiên cứu về sức khỏe của người trưởng thành sống quanh xí nghiệp kẽm chì Làng Hích được thực hiện qua hai giai đoạn: giai đoạn 1 là khám lâm sàng, và giai đoạn 2 là lấy mẫu máu để xét nghiệm công thức máu cùng nồng độ chì Những đối tượng tham gia được mời đến trạm y tế xã để khám bệnh, giúp đảm bảo tính khách quan trong chẩn đoán bệnh thông qua các phương tiện chuyên dụng.
Chì khi vào cơ thể sẽ tác động đến nhiều cơ quan, bao gồm hệ thống tạo huyết, hệ thần kinh, hệ tuần hoàn, hệ tiết niệu, tuyến nội tiết, da, hệ thống miễn dịch, cũng như ảnh hưởng đến sinh sản và di truyền.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc bệnh của người trưởng thành ở khu vực nghiên cứu chủ yếu là các bệnh tai mũi họng (30,90%), tiêu hóa (26,74%), tiết niệu (22,22%), cơ xương khớp (46,18%), ngoài da (47,57%) và hệ thần kinh (17,71%) Các bệnh thường gặp trong số đó bao gồm viêm họng (64,04%) và viêm mũi dị ứng (48,31%) ở bệnh tai mũi họng; viêm loét hành tá tràng (46,75%) ở bệnh tiêu hóa; đái buốt (68,75%) ở bệnh tiết niệu; đau khớp (72,18%) và đau mỏi cơ (63,91%) ở bệnh cơ xương khớp; nấm da (38,69%) ở bệnh ngoài da; và đau đầu (84,31%) ở bệnh hệ thần kinh Mặc dù không phải là bệnh chỉ điểm do tác động của độc chất như chì, nhưng kết quả này phản ánh phần nào ảnh hưởng của môi trường khu sản xuất công nghiệp đến sức khỏe của người dân trong vùng.
Bảng 4.2 So sánh với kết quả nghiên cứu của các tác giả về tỉ lệ mắc các bệnh TMH và tiêu hoá
Tác giả Đối tƣợng Bệnh Tỉ lệ
ND Tân Lập - TN Phụ nữ Tân Lập
TMH TMH TMH Tiêu hoá Tiêu hoá
XN chì kẽm Làng Hích- TN
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ mắc bệnh tai mũi họng và tiêu hóa ở người dân xung quanh xí nghiệp kẽm chì Làng Hích tương đồng với kết quả của các tác giả khác.
Sự mất cân bằng trong hệ thống thần kinh trung ương và ngoại vi do tác động của các yếu tố bên ngoài có thể gây viêm và tổn thương tế bào não Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ngoài da ở người trưởng thành sống gần xí nghiệp kẽm chì đạt 47,57%, trong khi tỷ lệ mắc bệnh liên quan đến hệ thần kinh là 17,71%.
So sánh tỷ lệ mắc bệnh của người dân theo khoảng cách ≤ 1000 m và >
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ngoài da ở người dân sống trong khoảng cách 1000 m từ xí nghiệp có sự khác biệt đáng kể với p < 0,05 Ngược lại, các bệnh liên quan đến tai mũi họng, tiêu hóa, tiết niệu, cơ xương khớp và tâm thần kinh không có sự khác biệt rõ rệt (p > 0,05) Tuy nhiên, tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở những người sống gần xí nghiệp (≤ 1000 m) so với những người sống xa (> 1000 m) cho thấy cần thiết phải tuyên truyền cho cộng đồng về việc sống cách xa xí nghiệp hơn 1000 m Do đó, khu dân cư nên được quy hoạch tập trung ở khoảng cách an toàn này.
4.2.2 Hàm lượng chì trong n ước tiểu và trong máu của người trưởng thành sống xung quanh với xí nghiệp kẽm chì Làng Hích Để đánh giá những tác động của môi trường đến cơ thể con người phải dựa vào nhiều yếu tố, nhiều phương pháp, một trong các phương pháp đó là xét nghiệm hàm lượng các chất trong môi trường có cao ở trong máu không Thông thường, các kim loại nặng xâm nhập vào cơ thể qua một số đường như hô hấp (hít phải hơi, khói và bụi hạt nhỏ), qua da (tiếp xúc trực tiếp với bụi, nước), qua đường tiêu hoá (nước uống, chuỗi thức ăn), tích tụ lại trong cơ thể với nồng độ khác nhau tuỳ thời gian tiếp xúc, khả năng đào thải của cơ thể đối với từng chất Cơ thể của chúng ta có khả năng rất lớn trong việc làm sạch các chất nguy hiểm Gan, thận là hai cơ quan chủ yếu để lọc các chất độc, nhưng nếu cơ thể tiếp xúc với hoá chất trong một thời gian dài thì khả năng bảo vệ của cơ thể bị mất đi và làm cho các chất độc không được loại ra Các chất độc này sẽ tích lũy trong cơ thể và gây ra bệnh tật ví dụ trong trường hợp nhiễm độc chì, cadimi, cơ thể phải tốn nhiều thời gian để phân giải chì, còn đối với cadimi thì cơ thể không phân giải được Trong máu chất độc có thể ở dạng tự do hoặc liên kết với protein (thường là albumin) Tiếp theo chất độc vào các mô, ở đó có thể bị chuyển hoá trong gan, tích luỹ trong mỡ, bài tiết trong thận, hoặc thể hiện ở việc đáp ứng các kích thích trong não Chất độc phải vượt qua màng sinh chất của các tế bào thông qua các quá trình vận chuyển chủ động và bị động [38]
Hội thảo CEC-WHO-EPA diễn ra tại Berlin vào năm 1979 đã công bố danh sách các chất ô nhiễm môi trường chính và các vị trí trên cơ thể người mà ngành Y tế cần chú ý thu thập thông tin, nhằm đánh giá mức độ tiếp xúc của con người với các chất độc hại.
Để xác định nhiễm độc chì, cần thực hiện các xét nghiệm máu, nước tiểu, tóc, phân, thận, gan, xương và đôi khi là rau thai Kết quả nghiên cứu cho thấy các chất độc từ môi trường nước giếng của cư dân xung quanh xí nghiệp kẽm chì Làng Hích đã bắt đầu xâm nhập vào cơ thể con người.
Tỉ lệ chì trong máu phụ thuộc vào lượng chì hấp thu từ môi trường, với 90 - 95% chì nằm trong hồng cầu và phần còn lại ở huyết tương Khi hàm lượng chì trong máu cao, chì có thể tích tụ trong xương và mô mềm, trong khi khi mức chì thấp, chì từ xương và mô sẽ giải phóng trở lại máu Nồng độ chì cao trong máu có thể dẫn đến tổn thương não, rối loạn tiêu hóa, yếu cơ và phá hủy hồng cầu Chì có khả năng tích lũy trong cơ thể và gây độc hại nghiêm trọng.
Kết quả xét nghiệm chì trong máu, chì trong nước tiểu và huyết sắc tố của người trưởng thành sống quanh xí nghiệp kẽm chì Làng Hích không vượt quá tiêu chuẩn cho phép Tỷ lệ người dân có mức chì trong máu cao hơn tiêu chuẩn cho phép là 20% và tỷ lệ chì niệu cao hơn tiêu chuẩn là 10% Những người sống quanh xí nghiệp này có hàm lượng chì trong máu cao hơn tiêu chuẩn mắc bệnh da gấp 25 lần so với người có hàm lượng chì trong máu thấp hơn Đồng thời, họ cũng mắc bệnh tiêu hóa cao gấp 14 lần so với những người có hàm lượng chì trong máu thấp hơn tiêu chuẩn.
Bảng 4.3 So sánh hàm lượng chì trong máu với các tác giả khác trong và ngoài nước
Tác giả Đối tƣợng HL
Stokiger HE ( Mỹ) Nhân viên trông giữ xe 0,01 - 0,04 1997 Kapaki E.N ( Hy Lạp) Nhân viên lái xe bus 0,005 - 0,006 1998 IngaHeinze Trẻ em tiểu học 0,005 - 0,006 1999 Nguyễn Thị Quỳnh Hoa
[13] PN trong độ tuổi sinh đẻ 0,03 - 0,04
Hoàng Hải Bằng [2] Người dân sống tiếp giáp khai thác mỏ
2006 Đỗ Thị Hằng Người dân sống xung quanh XN kẽm chì