ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu này tập trung vào việc thu thập dữ liệu từ tất cả bệnh nhân trẻ em bị gãy kín thân xương đùi, được điều trị bảo tồn bằng phương pháp kéo nắn và bó bột tại Bệnh viện Việt Đức trong năm 2019, cụ thể từ tháng 1 đến tháng 12.
2.1.1 Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán gãy kín thân xương đùi ở trẻ em đều được điều trị bảo tồn bằng phương pháp kéo nắn và bó bột tại Bệnh viện Việt Đức.
Bệnh nhân từ 15 tuổi trở xuống, không phân biệt giới tính và nguyên nhân gây chấn thương, cần được chú ý đặc biệt Đặc biệt, nhóm trẻ trên 10 tuổi, trẻ em béo phì và những trẻ có sự phát triển thể chất nhanh chóng cần được xem xét kỹ lưỡng về nguy cơ gãy xương.
Hồ sơ bệnh án cần phải đầy đủ thông tin, bao gồm hình ảnh X-quang trước và sau khi bó bột đối với bệnh nhân nội trú, hoặc tài liệu khám bệnh ngoại trú theo quy định của Bộ Y tế, đảm bảo cung cấp thông tin cần thiết cho nghiên cứu đối với bệnh nhân ngoại trú.
- Phụ huynh và bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu
Gãy kín thân xương đùi điều trị bằng phương pháp phẫu thuật
Gãy kín thân xương đùi do bệnh lý; gãy hở, lóc da - cơ, vết thương khớp trên chi bị gãy, gãy có biến chứng mạch máu và thần kinh ;
Gãy thân xương đùi ở trẻ lớn >15 tuổi
Phụ huynh và bệnh nhân không đồng ý cho nghiên cứu.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang hồi cứu - kết hợp tiến cứu, được tiến hành từ tháng 01 năm 2019 đến tháng 12 năm 2019
Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức – Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu– kết hợp tiến cứu:
- Nghiên cứu hồi cứu: từ tháng 1 đến tháng 6 2019
- Nghiên cứu tiến cứu: từ tháng 7 đến tháng 12 2019
Tất cả bệnh nhân là trẻ em mắc gãy kín thân xương đùi, được điều trị bảo tồn thông qua phương pháp kéo nắn và bó bột tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, Hà Nội.
Chọn mẫu thuận tiện bao gồm tất cả bệnh nhân đủ tiêu chuẩn lựa chọn.
Biến số và chỉ tiêu nghiên cứu
* Chỉ tiêu về đặc điểm lâm sàng và Xquang:
- Tuổi bệnh nhân: Chia làm 4 nhóm tuổi
+ Nhóm 1: dưới 2 tuổi ( trẻ nhỏ, nhũ nhi)
+ Nhóm 2: 3 - 6 tuổi (trẻ mẫu giáo)
+ Nhóm 3: 7 - 10 tuổi ( học sinh tiểu học)
+ Nhóm 4: 11 -15 tuổi ( học sinh trung học cơ sở)
- Nguyên nhân tai nạn: giao thông, sinh hoạt, tai nạn khác (tai nạn học đường)
- Vị trí gẫy xương: 1 3 trên, 1 3 giữa, 1 3 dưới
- Hình thái gẫy xương: ngang, chéo vát, gẫy có mảnh rời (Trước khi kéo nắn bó bột được chụp xquang qui ước xương đùi 2 tư thế thẳng và nghiêng)
- Chân gẫy: chân phải, trái
+ Sọ não: đánh giá tri giác, các dấu hiệu thần kinh khu trú, phim CT- Scanner sọ
+ Chấn thương bụng: Lâm sàng, siêu âm chẩn đoán và phương pháp can thiệp
+ Các tổn thương phối hợp khác
* Chỉ tiêu về điều trị:
- Thời gian từ khi gẫy xương đến khi được điều trị bảo tồn
- Phương pháp điều trị trước khi đến viện
- Số lần kéo nắn bó bột
+ Kết quả sau khám lại: Vận động khớp háng, gối, cổ chân Teo cơ, dài chi, gập góc, đau ổ gãy
+ X-quang xương kiểm tra định kỳ sau điều trị
- Đánh giá kết quả nắn chỉnh ổ gãy: dựa vào phim X quang sau bó bột theo tiêu chuẩn của Larson và Bostman
Bảng 2.1 Bảng đánh giá kết quả nắn chỉnh theo Larson và Bostman 37
Kết quả Kết quả chỉnh trục xương
Rất tốt Ổ gãy hết di lệch, xương thẳng trục giống như bên lành
Tốt Nếu mở góc ra ngoài hay ra trước 10 0
Ngắn chi >1cm (nếu vượt quả ngưỡng trên)
Trục xương mở ra ngoài hoặc ra trước lớn hơn 5 độ, trong khi mở vào trong hoặc ra sau lớn hơn 10 độ Chi ngắn hơn 1 cm và có kèm theo di lệch xoay, tương tự như tiêu chuẩn trung bình với di lệch xoay.
- Đánh giá kết quả về phục hồi chức năng chi gãy: dựa theo tiêu chuẩn của Ter-Schiphorst
Bảng 2.2 Bảng đánh giá phục hồi chức năng theo tiêu chuẩn
Vận động khớp cổ chân
Teo cơ đùi Kết quả iền xương
Bình thường Bình thường Không Liền xương thẳng trục
Tốt Đau khi gắng sức
Gấp mu = 0 Không đáng kể
Liền xương, trục xương mở góc ra ngoài hay ra trước
3,2%), mức độ kết quả điều trị rất tốt ở giới nam và nữ lần lượt là 37,9% và 38,7%
Biểu đồ 3.7 Phân loại kết quả điều trị chung theo hình thái gãy (n8)
Đánh giá kết quả điều trị cho thấy hầu hết bệnh nhân có kết quả phân loại theo hình thái gãy đạt mức tốt và rất tốt Tỷ lệ bệnh nhân có kết quả điều trị chung cuối cùng ở mức trung bình chỉ chiếm 9% đối với gãy ngang và 10% đối với gãy chéo vát Đặc biệt, 100% bệnh nhân gãy có mảnh rời đạt kết quả điều trị tốt và rất tốt.
Gãy ngang Chéo vát Có mảnh rời Rất tốt Tốt Trung bình
BÀN LUẬN
Các yếu tố dịch tễ học trong nghiên cứu
4.1.1 Đặc điểm của bệnh nhân nghiên cứu Độ tuổi trung bình của đối tượng tham gia nghiên cứu là 4,34±2,38 tuổi (Tuổi thấp nhất là 6 tháng tuổi, tuổi cao nhất là 12 tuổi) Kết quả nghiên cứu cho thấy, gãy xương đùi được điều trị bảo tồn chủ yếu xảy ra đối với trẻ từ 3 đến 6 tuổi (60,2%) và ít xảy ra đối với trẻ trên 10 tuổi Gãy xương đùi là chấn thương khá thường gặp ở trẻ nhỏ Tuy nhiên, do lá xương ít, chủ yếu là các tổ chức xơ và quá trình tạo cốt bào, hủy cốt bào khá nhanh chóng nên mau liền xương 16 Nghiên cứu tại Bệnh Viện Chợ Rẫy (2015) trên 49 trẻ em cho thấy, tỷ lệ trẻ gãy xương đùi là cao nhất trong tất cả các trường hợp gãy xương nhập viện từ 2013-2015, chiếm 30,6% với tỷ lành xương đạt 43 49 ca 39 Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của Bùi Bích Vượng tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức (2014) khi cho thấy, tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 4,78 tuổi 36 Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác tiến hành trên trẻ em cho thấy, trẻ từ 7-11 tuổi có tỷ lệ gãy xương đùi cao hơn các trẻ khác 39 Nghiên cứu của Yaron Sela (2013) tại Isreal tiến hành trên trẻ từ 0-16 tuổi, tuổi trung bình của bệnh nhi là 5 tuổi, cao hơn nghiên cứu của chúng tôi 9 Điều này có thể do chênh lệch về cơ mẫu và phương pháp điều trị áp dụng trên đối tượng nghiên cứu
Tỷ lệ gãy xương ở trẻ em từ 3 đến 6 tuổi cao nhất ở vị trí 1/3 giữa và 1/3 trên, lần lượt chiếm 27,6% và 20,3% Đối với trẻ dưới 2 tuổi, gãy xương 1/3 giữa xương đùi chiếm 17,9% Tổng thể, vị trí gãy 1/3 giữa là phổ biến nhất, với tỷ lệ 55,3% Nghiên cứu của Đỗ Quang Trường (2001) cho thấy gãy 1/3 giữa chiếm 67,7%, trong khi gãy 1/3 trên và 1/3 dưới lần lượt chiếm 27,3% và 5% Tương tự, nghiên cứu của Thou Vathaknak (2015) cũng ghi nhận tỷ lệ gãy 1/3 giữa cao nhất với 54,2%, gãy 1/3 trên 20,4% và gãy 1/3 dưới 25,4%.
Trẻ em trai có tỷ lệ gãy xương cao hơn trẻ em gái, với tỷ lệ nam:nữ xấp xỉ 2,8:1 Kết quả này tương tự như nghiên cứu tại Trung tâm y tế Sheba, Israel (2013), trong đó tỷ lệ nam:nữ là 2,4:1 dựa trên 212 hồ sơ bệnh án của bệnh nhi gãy xương đùi Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Phước tại Bệnh viện Chợ Rẫy giai đoạn 2013-2015 cũng cho thấy trẻ em trai bị gãy xương nhiều hơn trẻ em gái, với tỷ số nam:nữ là 2,5:1.
Năm 2004, nghiên cứu tại khoa ngoại chấn thương Bệnh viện trẻ em Hải Phòng cho thấy tỷ lệ trẻ em bị gãy xương đùi do phương pháp kéo nắn bó bột chiếm 81% ở trẻ nam và 19% ở trẻ nữ Nguyên nhân có thể là do tính cách hiếu động, tò mò và thích chạy nhảy của trẻ nam, dẫn đến nguy cơ tai nạn cao hơn.
Tỷ lệ trẻ em gãy xương bên trái (53,7%) cao hơn bên phải (46,3%), tương đồng với nghiên cứu của Phạm Văn Thinh (2009) và Yaron Sela (2013), cho thấy trẻ bị gãy chân trái (54%) nhiều hơn chân phải (46%) Trẻ từ 3 tuổi trở lên có tỷ lệ gãy xương đùi bên trái cao hơn, đặc biệt trẻ từ 10 tuổi trở lên chỉ gặp chấn thương bên trái Tỷ lệ chấn thương đùi trái cao hơn đùi phải ở cả hai giới, với hơn 40% trẻ nam và gần 14% trẻ nữ có tổn thương giữa Nguyên nhân có thể do chân trái là chân không thuận, yếu hơn, dễ gãy khi ngã hoặc va chạm Thêm vào đó, trẻ trai thường hiếu động và tham gia nhiều hoạt động thể lực, dẫn đến nguy cơ gãy xương đùi cao hơn so với trẻ nữ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, gần 70% trẻ em nam phải nhập viện do tai nạn sinh hoạt và tai nạn giao thông, trong khi tỷ lệ này ở trẻ em nữ là 13% cho tai nạn giao thông và 11,4% cho tai nạn sinh hoạt Nguy cơ chấn thương do tai nạn giao thông ngày càng gia tăng do sự phát triển đa dạng của phương tiện giao thông, trong khi hệ thống đường chưa đồng bộ và ý thức của người tham gia giao thông còn kém Nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu trước đây, như của Đỗ Quang Trường (2001) với 55% trường hợp do tai nạn giao thông, Phạm Văn Thinh (2009) với 22%, và Thou Vathaknak (2015) với 67,8% do tai nạn giao thông.
Điều trị tuyến trước và thời gian đến viện sau chấn thương
Các phương pháp điều trị tại tuyến dưới cho bệnh nhân gãy xương chủ yếu bao gồm nẹp cố định tạm thời (77,2%) và bó bột (17,1%) Nghiên cứu cho thấy 100% trường hợp cần gây mê tĩnh mạch trước khi can thiệp Thuốc gây mê giúp giảm đau, an thần nhưng có thể nguy hiểm nếu bệnh nhân chưa nhịn ăn đủ 6 giờ hoặc tại cơ sở y tế thiếu điều kiện Đối với gãy xương lớn, cần nhiều dụng cụ y tế và bàn chỉnh hình phù hợp Các cơ sở y tế tuyến dưới thường không đủ điều kiện thực hiện nắn xương tại chỗ, do đó họ sẽ bất động tạm thời và chuyển bệnh nhân lên tuyến trên Việc thiếu nhân lực và phương tiện cấp cứu cũng là một rào cản lớn trong việc áp dụng các phương pháp điều trị hiệu quả tại tuyến dưới.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian từ khi bị chấn thương đến khi được điều trị bảo tồn cho thấy 81,3% bệnh nhân được điều trị trong vòng 24 giờ sau khi gãy xương, trong khi 8,9% bệnh nhân được điều trị trong khoảng thời gian từ 24 đến 72 giờ Việc nắn xương sớm giúp giảm tình trạng phù nề và co cơ, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều trị Trong 3-4 ngày đầu sau khi gãy xương, tình trạng chảy máu và hình thành khối máu tụ diễn ra nhanh chóng, kéo dài khoảng 15 ngày, và đây là giai đoạn quan trọng để hình thành cal xương Nếu không nắn chỉnh trong những giờ đầu hoặc ngày đầu tiên, có thể làm hỏng các mầm cal xương Tuy nhiên, việc nắn chính xác chỉ có hiệu quả nếu được kết hợp với bất động đúng cách Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng 9,7% bệnh nhân đến viện sau 4 ngày gãy xương, có thể do họ đã được điều trị ở tuyến trước nhưng không đạt kết quả tốt, dẫn đến việc chuyển viện muộn đến bệnh viện Việt Đức.
Đặc điểm lâm sàng và X-quang
Vị trí gãy xương đùi thường gặp nhất là 1/3 giữa, chiếm 55,4%, tiếp theo là 1/3 trên với 31,6% Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Thou Vathaknak tại Bệnh viện Việt Đức (2015), cho thấy tỷ lệ gãy 1/3 giữa cao nhất là 54,2%, gãy 1/3 dưới 25,4%, và gãy 1/3 trên chỉ chiếm hơn 20% Nghiên cứu của Đỗ Quang Trường (2001) cũng xác nhận gãy 1/3 giữa chiếm tỷ lệ cao nhất với 67,7%, trong khi gãy 1/3 trên là 27,3% và gãy 1/3 dưới chỉ chiếm 5%.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, hình thái gãy xương đùi chủ yếu là gãy ngang (56,1%), tiếp theo là gãy chéo vát (41,5%), tỷ lệ gãy ngang thấp hơn so với nghiên cứu của Phạm Văn Thinh (2009) với hơn 65% bệnh nhân Nghiên cứu của Thou Vathaknak tại Bệnh viện Việt Đức (2015) ghi nhận tỷ lệ gãy ngang cao nhất (61%) và gãy chéo vát (18,6%) Các trường hợp chấn thương do ngoại lực trực tiếp thường dẫn đến gãy ngang, trong khi ngoại lực gián tiếp thường gây ra gãy chéo hoặc xoắn vặn Hầu hết bệnh nhân không có tổn thương phối hợp (95,1%), trong khi nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 4,9% trường hợp có tổn thương phối hợp, chủ yếu là chấn thương sọ não và các chấn thương khác Tỷ lệ tổn thương phối hợp trong nghiên cứu của Thou Vathaknak cao hơn gấp 6,6 lần so với nghiên cứu của chúng tôi, có thể do sự khác biệt trong đối tượng nghiên cứu và phương pháp can thiệp, đặc biệt là nhóm trẻ từ 5-15 tuổi, dễ gặp chấn thương nặng hơn.
Triệu chứng lâm sàng phổ biến nhất là đau chói (100%), tiếp theo là giảm mất vận động (90,2%), sưng nề vùng đùi (60,2%) và biến dạng lệch chi (33,3%) Sưng nề phần mềm thường xuất hiện do va chạm mạnh trong tai nạn, đặc biệt là tai nạn giao thông, dẫn đến tổn thương phức tạp và mô mềm bị dập nát Biến dạng chi thường xảy ra do di lệch xương gãy, vì xương đùi được bao quanh bởi nhiều khối cơ mạnh, yêu cầu lực tác động lớn để gây gãy và di lệch Do đó, gãy thân xương đùi thường gây ra biến dạng chi.
Kỹ thuật kéo nắn-bó bột
Tất cả bệnh nhân đều được điều trị bằng phương pháp gây mê và kéo nắn trên bàn chỉnh hình, với việc đặt tư thế bệnh nhân trên bàn là yếu tố quan trọng giúp thực hiện phương pháp này dễ dàng hơn Chúng tôi xem việc sử dụng bàn chỉnh hình là điều kiện bắt buộc cho điều trị bảo tồn bằng bó bột trong trường hợp gãy kín thân xương đùi trẻ em Gây mê mang lại nhiều ưu điểm như làm mềm cơ, giảm đau tuyệt đối, giúp thủ thuật diễn ra thuận lợi, đặc biệt với trẻ nhỏ thường quấy khóc Hầu hết các trường hợp gãy xương được xử trí can thiệp nắn xương cấp cứu khi ổ gãy chưa sưng, phù nề, giúp xác định kết quả nắn chỉnh Nắn chỉnh là phương pháp chính được thực hiện với hầu hết bệnh nhân trước khi tiến hành bó bột Đa số bệnh nhân chỉ cần bó bột một lần ở giai đoạn đầu (93,5%), trong khi có 5 bệnh nhân phải nắn chỉnh bó bột 2 lần do kết quả nắn chỉnh lần đầu không đạt yêu cầu, chiếm 4,1%.
Trong số 123 bệnh nhân, chỉ có 5 bệnh nhân (tuổi trung bình 8,2) cần chuyển mổ, bao gồm 4 nam và 1 nữ Trong đó, 4 bệnh nhân gặp gãy xương 1/3 giữa, và 1 bệnh nhân gãy xương 1/3 dưới Phân loại gãy xương cho thấy 3 trường hợp gãy ngang, 1 trường hợp gãy chéo vát, và 1 trường hợp gãy có mảnh rời nhỏ Nguyên nhân chuyển mổ chủ yếu do di lệch thứ phát do lỏng bột trong tuần đầu, với 2 bệnh nhân gặp vấn đề này Mặc dù kết quả nắn chỉnh ban đầu đạt mức tốt ở 2 bệnh nhân, gia đình vẫn yêu cầu phẫu thuật để giúp bệnh nhân sớm trở lại trường học.
Thời gian tháo bột và tập phục hồi chức năng
Hầu hết bệnh nhân đều tiến hành tập PHCN, chiếm 97,5%, trong đó có
90,4% bệnh nhân thực hiện phục hồi chức năng (PHCN) theo hướng dẫn của bác sĩ Việc tập PHCN sớm rất quan trọng để ngăn ngừa teo cơ, loãng xương và giảm sự đàn hồi của dây chằng Ngay sau khi bó bột, bệnh nhân được khuyến khích tập gồng cơ để tăng cường lưu thông máu đến vùng tổn thương Khi bột đã khô, bệnh nhân bắt đầu tập đi với nạng hỗ trợ hoặc sự trợ giúp từ người nhà, đồng thời cần có người chăm sóc bên cạnh để tránh ngã Việc tì sớm ở chân gãy với lực tăng dần giúp xương liền nhanh hơn Sau thời gian bó bột, bệnh nhân sẽ được khám lại và đánh giá tình trạng liền xương trước khi tháo bột Nếu cần thiết, thời gian mang bột có thể được gia hạn thêm 1-2 tuần và tiếp tục thực hiện PHCN theo hướng dẫn.
Kết quả điều trị
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy kết quả nắn chỉnh ổ gãy sau khi bó bột có 63,4% bệnh nhân đạt mức tốt và 24,4% đạt mức rất tốt, trong khi chỉ 12,2% có kết quả trung bình So với nghiên cứu của Thou vathknak về điều trị phẫu thuật gãy thân xương đùi bằng nẹp vít, kết quả của chúng tôi thấp hơn, với 67,79% bệnh nhân có kết quả rất tốt và tỷ lệ trung bình thấp hơn 37% Sự khác biệt này có thể do phương pháp điều trị khác nhau Một nghiên cứu tại Hàn Quốc năm 2004 cho thấy phương pháp nẹp vít ít gây biến chứng hơn so với điều trị bảo tồn Mặc dù vậy, hiệu quả và chi phí của điều trị bảo tồn lại khá tốt, ít biến chứng và an toàn cho trẻ từ 4 đến 10 tuổi.
Kết quả nghiên cứu cho thấy bó bột sau 24 giờ đạt hiệu quả tốt trên 97%, chỉ có 2,4% bệnh nhân gặp tình trạng lỏng bột Gần 60% bệnh nhân đã thay bột sau 10 ngày, với thời gian tháo bột trung bình là 4,63 ± 1,49 tuần, thấp hơn so với nghiên cứu của Casas J năm 2001 tại Mỹ, cho thấy thời gian tháo bột trung bình dài hơn.
Nghiên cứu về điều trị gãy xương đùi ở trẻ em tại Bệnh viện Việt Đức năm 2014 của Bùi Bích Vượng cho thấy sự khác biệt trong mức độ bệnh của đối tượng nghiên cứu Cụ thể, trong số 55 trẻ em với độ tuổi trung bình 4,78, thời gian bó bột trung bình được ghi nhận là 6,3 tuần.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân được đánh giá qua tái khám sau khi tháo bột từ 1 đến 12 tháng, với thời gian theo dõi tối ưu từ 7-12 tháng (45,5%) và 4-6 tháng (40,7%) Kết quả này tương đồng với nghiên cứu về phương pháp điều trị bằng nẹp vít, yêu cầu khám lại sau 3-6 tháng Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi có thời gian tái khám dài hơn, điều này cho thấy phương pháp điều trị bảo tồn cần thời gian theo dõi lâu hơn để đánh giá hiệu quả rõ rệt, vì quá trình tự bình chỉnh của xương gãy diễn ra mạnh mẽ nhất trong 1-2 năm đầu và thường kết thúc sau khoảng 5-6 năm.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, biến chứng sớm chỉ xảy ra ở 12,7% bệnh nhân, với 15 trường hợp được ghi nhận Cụ thể, viêm da tiếp xúc chiếm 5,93% (7 bệnh nhân), di lệch thứ phát 5,1% (6 bệnh nhân), và 1,7% (2 bệnh nhân) gặp cả hai biến chứng Viêm da tiếp xúc chủ yếu xảy ra ở vùng gót chân do lớp đệm lót trong bột quá mỏng, dẫn đến cọ sát gây viêm trợt da Tỷ lệ viêm da tiếp xúc trong nghiên cứu của chúng tôi tương tự như nghiên cứu của Yaron Sela (2013) với tỷ lệ 6,6% Di lệch thứ phát liên quan đến việc lỏng bột trong 24 giờ đầu sau khi bó bột hoặc sau khi thay bột lần đầu.
Kết quả liền xương trên X-quang cho thấy 58,3% là cal xương chắc, 36,7% là xương liền tốt với hình ảnh X-quang thẳng trục bình thường, còn lại là cal xương mờ và cal xương chắc nhưng có khe sáng Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Thou Vathaknak (2015) về cal xương chắc nhưng khác ở tỷ lệ xương liền tốt thẳng trục, đạt 100% so với 36,7% trong nghiên cứu của chúng tôi Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Sơn (2004) trên 237 bệnh nhân từ 0 – 15 tuổi cho thấy 79% xương liền tốt sau 2 tháng bó bột Theo Yaron Sela (2013), tỷ lệ liền xương đạt 100% ở 151 trẻ từ 0 – 16 tuổi được điều trị bảo tồn Sự khác biệt này có thể do hiệu quả điều trị giữa phương pháp bảo tồn và nẹp vít khác nhau, cũng như thời điểm đánh giá sau điều trị không giống nhau Trong nghiên cứu của Phạm Văn Thinh (2009), 100% trường hợp được khám lại đều liền xương, trong đó có 21,1% xương xù to nhưng không có trường hợp khớp giả hay chậm liền, và tất cả các trường hợp X-quang sau mổ đều đạt yêu cầu và thẳng trục.
Kết quả PHCN sau điều trị bảo tồn theo tiêu chuẩn của Ter- Schiphorst
Kết quả theo Đánh giá tiêu chuẩn của Ter-Schiphorst cho thấy không có bệnh nhân nào có kết quả PHCN kém sau điều trị bảo tồn, với 53,4% đạt mức tốt và 37,3% đạt mức rất tốt Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu của Thou Vathaknak, nơi 96,6% bệnh nhân có tỷ lệ PHCN tốt và rất tốt Nghiên cứu của Bùi Bích Vượng cho thấy 92,7% đạt kết quả rất tốt và 7,3% đạt kết quả tốt Sự khác biệt này có thể do thời điểm đánh giá sau điều trị; nghiên cứu của chúng tôi thực hiện đánh giá từ 1 đến 12 tháng sau điều trị, trong khi các nghiên cứu khác chỉ đánh giá sau 6 tháng Ngoài ra, một số bệnh nhân có tổn thương sọ não hoặc các tổn thương phối hợp, phải bó bột sau mổ và nằm bất động lâu, gây khó khăn trong việc tập PHCN.
Kết quả chung sau điều trị bảo tồn
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, sau điều trị bảo tồn, không có bệnh nhân nào có kết quả chung cuối cùng ở mức kém, với 52,6% đạt kết quả tốt và 38,1% đạt rất tốt, chỉ 9,3% có kết quả trung bình Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Thou Vathaknak, trong đó 84,7% bệnh nhân phục hồi chức năng rất tốt sau mổ So với nghiên cứu của Nguyễn Thanh Sơn tại bệnh viện trẻ em – Hải Phòng, kết quả của chúng tôi cao hơn, với 79% xương liền tốt sau 2 tháng bó bột Sự khác biệt có thể do kỹ thuật nắn tốt hơn, điều kiện gây mê và đội ngũ nhân lực chuyên nghiệp, cùng với sự phát triển công nghệ thông tin giúp kết nối và hỗ trợ bệnh nhân hiệu quả hơn, dẫn đến tỷ lệ điều trị thành công cao hơn.
Các yếu tố ảnh hưởng tới kết quả điều trị
4.7.1 Mối liên quan gi a đặc điểm lâm sàng và hình ảnh X quang với kết quả điều trị chung
Nghiên cứu cho thấy rằng các yếu tố như nhóm tuổi, giới tính, lý do nhập viện, chẩn đoán gãy kín thân xương đùi và điều trị tuyến dưới trước khi nhập viện không ảnh hưởng đến kết quả điều trị chung cuối cùng (p>0,05) (Bảng 1.1).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của tác giả Cassinelli, cho thấy rằng các yếu tố như nhóm tuổi, giới tính và lý do nhập viện không có ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng các yếu tố như vị trí gãy xương, hình thái gãy và các tổn thương phối hợp không ảnh hưởng đến kết quả điều trị cuối cùng, với giá trị p > 0,05 (Bảng 1.2 – Phụ lục 3).
Nghiên cứu của ClinKscales Carlton.M năm 1997 cho thấy yếu tố tuổi không ảnh hưởng đến kết quả điều trị, mà sự hài lòng của cha mẹ và giá cả dịch vụ lại là những yếu tố quan trọng hơn Bên cạnh đó, các yếu tố như tuổi, cân nặng, giới tính của bệnh nhân, vị trí và loại gãy xương, cùng hoàn cảnh xã hội cũng đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp điều trị tối ưu Nghiên cứu của Bento.E năm 2012 chỉ ra rằng tuổi tác và kỹ thuật điều trị có ảnh hưởng đến kết quả điều trị, bởi vì khả năng phục hồi gãy xương của trẻ em khác nhau theo từng độ tuổi, và trẻ lớn tuổi thường mong muốn thời gian nằm viện ngắn để trở lại trường học sớm.
4.7.2 Mối liên quan phương pháp điều trị với kết quả điều trị chung
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng nhóm bệnh nhân được bó bột hai lần có kết quả phục hồi chức năng tốt hơn so với nhóm chỉ bó bột một lần, với giá trị p > 0,05 (Bảng 2.1).
– Phụ lục 3) Nhóm có tập PHCN thì có kết quả PHCN tốt hơn so với nhóm không tập PHCN (p>0,05) Sự tương quan không có ý nghĩa thống kê
Khác với nghiên cứu của Carlton, nghiên cứu này chỉ ra rằng áp dụng sớm phương pháp điều trị bảo tồn, có hoặc không có lực kéo xương đùi ở xa, yêu cầu ít ngày nằm viện nhất, thời gian kết hợp ngắn nhất và chi phí tổng thể thấp nhất Tuy nhiên, phương pháp này lại có nguy cơ cao về các biến chứng như sai lệch và chênh lệch chiều dài xương đùi Lực kéo xương dẫn đến thời gian nằm viện lâu hơn và chi phí cao cho việc cố định bên ngoài và đóng đinh trong khuôn Cố định bên ngoài nguyên phát thường gặp ở những bệnh nhân không thể dung nạp sớm và có nguy cơ hoại tử vô mạch khi đóng đinh xương đùi Trong khi đó, bệnh nhân điều trị bằng nẹp vít lại có ít biến chứng nhất.
4.7.3 Mối liên quan kết quả điều trị với kết quả điều trị chung
Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt rõ rệt trong kết quả phục hồi chức năng (PHCN) giữa các nhóm phương pháp điều trị (p