VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
- Điều tra thành phần ruồi đục quả tại huyện Thanh Hà- Hải Dương
- Thí nghiệm nuôi sinh học tại chi cục Kiểm dịch thực vật vùng 1 – Hải Phòng
- Đề tài được thực hiện từ tháng 3/2016 – 11/2016.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Ruồi đục quả giống Bactrocera (họ Tephritidae bộ Diptera) gây hại chính trên quả ổi đài loan.
VẬT LIỆU VÀ DỤNG CỤ NGHIÊN CỨU
- Cây trồng: Cây ổi giống ổi đài loan (Psidium guajava) 5 năm tuổi
- Thức ăn cho ruồi trưởng thành và ấu trùng:
Thức ăn nuôi ruồi trưởng thành
Thành phần Protein Đường Nước
Thức ăn cho trưởng thành được trộn đều và xay nhuyễn bằng máy xay sinh tố, sau đó chuyển vào ngăn đá tủ lạnh để bảo quản Cần thay thức ăn cho trưởng thành mỗi 3 ngày một lần.
Thức ăn nuôi sâu non
Thành phần Thịt quả ổi Torula yeast Đường trắng nipagin
Để nuôi sâu non ruồi đục quả, cần chuẩn bị thức ăn từ quả ổi chín Rửa sạch quả ổi, xay nhỏ và trộn đều với các thành phần khác cho đến khi hỗn hợp nhuyễn Sau đó, đặt hỗn hợp vào ngăn đá tủ lạnh Sau 24 giờ, lấy ra để rã đông hoàn toàn trước khi sử dụng cho thí nghiệm nuôi sâu non (Allwood, 1996).
- Vật liệu khác: bông, giấy thấm, khăn lau, màn, mùn cưa tiệt trùng, đĩa petri, bút lông…
- Phòng nuôi ruồi đục quả có điều hòa nhiệt độ 26- 28 0 C
Bẫy giới tính Multilure có thiết kế hình trụ với hai phần lắp ghép, phần trên trong suốt và phần đế màu vàng, cao 18 cm và đáy rộng 15 cm Cấu trúc này cho phép tách rời dễ dàng để vệ sinh và thay mồi nhử Bẫy có hai cửa đối xứng, mỗi cửa rộng 3 cm và dài 5 cm, được che mưa bằng khung nhựa nhỏ Ngoài ra, bẫy còn được trang bị một sợi dây móc để treo lên cành cây, và có thể sử dụng với cả ba loại chất dẫn dụ khác nhau.
- Chất dẫn dụ giới tính parapheromone:
+ Methyl eugenol: công thức: 4- allyl-1,2- diMEthoxybenzencacbonxylate + CUE Lure eugenol: công thức: [4-(3-Oxobutyl)phenyl] acetate (C12H14O3)
+ Protein thủy phân + 20% Pyrinex 20EC, các chất dẫn dụ được nhập ngoại
Lồng nuôi ruồi đục quả trưởng thành được thiết kế với khung nhựa PVC và phủ vải màn, có kích thước 53 x 53 x 53 cm Đặc biệt, lồng nuôi này có hình trụ đường kính 8cm, làm từ nhựa trong suốt, với hai đầu được gắn vải màn để tạo điều kiện tối ưu cho việc ghép cặp ruồi trưởng thành.
Hộp nhựa nhỏ hình vuông có kích thước 25 cm chứa nhộng và sâu non, trong khi hộp nhựa hình trụ với đường kính 6m và chiều cao 1,5cm được sử dụng để theo dõi cá thể trứng và sâu non Ngoài ra, hộp nhựa có kích thước 15 x 20 x 20 cm được dùng để nuôi tập thể.
- Các dụng cụ khác: panh, nước cất, cồn, kim côn trùng, hộp tiêu bản.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
+ Điều tra thành phần ruồi đục quả chính trên cây ổi tại Thanh Hà – Hải Dương
+ Điều tra diễn biến của các loài ruồi đục quả tại Thanh Hà – Hải Dương
+ Xác định đặc điểm sinh học của ruồi đục quả Bactrocera dorsalis Hendel giống Bactorcera, họ Tephritidae, bộ Diptera
+ Xác định hiệu quả của biện pháp phòng trừ ruồi đục quả bằng bẫy ME.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.5.1.Phương pháp xác định thành phần ruồi đục quả (Bộ: Diptera; Họ: Tephritidae; Giống: Bactrocera) trên ổi tại Thanh Hà, Hải Dương
- Điều tra thành phần ruồi đục quả bằng các loại bẫy:
Phương pháp đặt các chất dẫn dụ vào trong bẫy Multilure:
Chất dẫn dụ Methyl eugenol được sử dụng bằng cách lấy 3ml dung dịch và tẩm vào miếng bông sạch Sau đó, đặt miếng bông này vào bên trong bẫy Multilure, được gọi tắt là bẫy ME.
Chất dẫn dụ CUE Lure eugenol được sử dụng bằng cách lấy 3 ml dung dịch qua ống hút sạch, sau đó tẩm vào miếng bông Miếng bông này sẽ được đặt vào bẫy Multilure, được gọi tắt là bẫy CUE.
Để sử dụng Protein thủy phân, bạn cần tách phần đế dưới của bẫy Multilure Sau đó, cho 200ml nước sạch vào phần đế vàng và hòa tan 2 gram Protein vào nước trong đế bẫy Cuối cùng, đóng phần trên của bẫy lại, gọi tắt là bẫy Pb.
Treo 3 loại bẫy ME, CUE và PB, số lượng: 2 bẫy/ loại trên cùng một vườn ổi đài loan có diện tích 1000 m 2
+ Treo bẫy cách mặt đất 1,5m, các bẫy cách nhau 40m, bẫy treo theo sơ đồ hình 3.1
+ Thời gian thay mồi và thu mẫu định kỳ là 15 ngày/lần
Hình 3.1 Sơ đồ đặt bẫy
Chú thích: ME: Bẫy ME
CUE: Bẫy CUE Pb: Bẫy Pb
- Tính lượng ruồi bắt được trên một bẫy một ngày (FTD) (con/ bẫy/15 ngày)
F: Tổng số ruồi đục quả bắt được;
D: Số ngày trung bình giữa các lần kiểm tra bẫy
Để phân loại và giám định loài ruồi trưởng thành, mẫu cần được bảo quản bằng phương pháp sấy khô Việc đo kích thước chiều dài cơ thể và chiều dài cánh của từng loài là cần thiết, trong đó mô tả đặc điểm hình thái của loài ruồi đục quả thu thập từ bẫy Số lượng cá thể được đo là 30 cá thể cho mỗi loài.
- Chỉ tiêu điều tra: Tần suất xuất hiện các loài ruồi đục quả để từ đó xác định mức phổ biến của chúng
- Mức độ phổ biến (OD) được tính như sau:
Tổng số điểm bắt gặp
Tổng số điểm điều tra
* Ký hiệu mức độ phổ biến:
"+ " Mức độ phổ biến trung bình: (OD = 5%- 25%);
Số lượng từng loài ruồi đục quả
Tỷ lệ từng loài ruồi đục quả (%) = - × 100
Tổng số ruồi đục quả thu được
Điều tra thu thập thành phần và mức độ phổ biến của ruồi đục quả theo phương pháp ngẫu nhiên, tuân thủ quy chuẩn QCVN 01-38/2010/BNNPTNT, được thực hiện bằng cách không cố định điểm điều tra trong vườn ổi, nhằm thu thập các quả ổi bị nhiễm từ khi còn non Quá trình bắt đầu từ ngày 02/6/2016, các quả ổi được cho vào túi nilon và đưa về phòng thí nghiệm, với tần suất điều tra định kỳ 15 ngày/lần Tại phòng thí nghiệm, quả được đặt trong hộp thu nhộng có lót mùn cưa khô dày 0,5 cm, sau khoảng 6-7 ngày, tiến hành sàng để thu nhộng và chuyển vào hộp khác để theo dõi quá trình vũ hóa trưởng thành.
Để xác định thành phần hại trong quả, ổi Đài Loan được thu hoạch từ vườn thí nghiệm và đưa về phòng thí nghiệm, nơi chúng được đặt trong hộp nhựa có lót mùn cưa ẩm Nhộng được sàng lọc hai ngày một lần và chuyển vào hộp nhựa có lót mùn cưa để giữ ẩm Sau khi vũ hóa, ruồi được xử lý bằng nhiệt độ thấp trong tủ lạnh Cuối cùng, việc giám định thành phần ruồi đục quả được thực hiện để xác định các loại hại có trong quả.
* Xác định đặc điểm hình thái trưởng thành ruồi đục quả giống Bactrocera thu thập được từ bẫy và quả ổi:
Trưởng thành đực của các loài ruồi đục quả được thu thập từ bẫy và bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ thấp để tiêu diệt Một nghiên cứu đã tiến hành lấy ngẫu nhiên 30 cá thể của mỗi loài ruồi đục quả thu được tại Thanh Hà, Hải Dương để đo kích thước cơ thể.
+ Chiều dài cơ thể: đo từ đầu đến hết đốt bụng cuối, tính trung bình 30 cá thể được đo
+ Đo chiều dài sải cánh: đo từ mép trong của cánh đến mép ngoài của cánh (hết đỉnh M) tính trung bình 30 cá thể
* Theo dõi diễn biến ruồi đục quả trên ổi đài loan:
Sử dụng ba loại bẫy ME, CUE và Pb trong vườn ổi giúp thu thập ruồi trưởng thành, từ đó mẫu ruồi đục quả được mang về phòng thí nghiệm để phân lập và xác định loài Để theo dõi diễn biến của ruồi đục quả giống Bactrocera, cần tính mật độ ruồi trung bình mỗi bẫy trong 15 ngày Công thức tính mật độ ruồi trưởng thành cũng được áp dụng để đảm bảo độ chính xác trong quá trình nghiên cứu.
F: Tổng số ruồi đục quả bắt được;
D: Số ngày trung bình giữa các lần kiểm tra bẫy
3.5.2 Phương pháp nghiên cứu đặc điểm sinh vật học của loài ruồi đục quả gây hại chính
- Nuôi tạo nguồn ban đầu theo phương pháp nuôi ruồi của Walker et al.,
(1996) và Pritam ; nguồn ruồi ban đầu được thu từ quả bị hại
Để thu nhộng từ những quả ổi bị hại, đặt chúng trong hộp với lớp mùn cưa ẩm dày 0,5 cm Thu nhộng mỗi 2-3 ngày bằng cách sàng lọc và chuyển nhộng vào hộp có lót mùn cưa ẩm, sau đó đặt hộp vào lồng nuôi ruồi để theo dõi quá trình trưởng thành Khi ruồi trưởng thành, chuyển chúng vào lồng nuôi và cho ăn hỗn hợp đường và yeast theo tỷ lệ 3:1 Tiếp tục nhân nuôi để tạo nguồn ban đầu và tiến hành các thí nghiệm Ruồi đục quả B dorsalis Hendel được sử dụng cho nghiên cứu đặc điểm sinh vật học là thế hệ thứ 2 từ quần thể ruồi thu được từ quả ổi.
* Nghiên cứu tập tính đẻ trứng của ruồi đục quả B dorsalis
Thu đồng loạt 100 sâu non vào nhộng loài B dorsalis trong cùng ngày, đặt
Để tiến hành thí nghiệm, bắt đầu với 100 nhộng cùng lồng nuôi cho đến khi chúng vũ hóa thành ruồi trưởng thành Sau đó, chọn 30 con trưởng thành (15 cái và 15 đực) cho vào lồng nuôi riêng có kích thước 30x30x30 cm, cung cấp thức ăn nhân tạo và nước Sau 20 ngày, thu thập ruồi đực ra khỏi lồng Chuẩn bị 10 quả ổi chín đồng đều, không bị xây xát, bảo quản trong ngăn mát tủ lạnh Đặt ổi vào 2 ống hình trụ để làm giá đỡ Vào ngày thứ 21 sau khi ruồi vũ hóa, lấy 2 quả ổi ra, để chúng hết lạnh, cắt vỏ một quả và để nguyên quả còn lại Đặt vào lồng thí nghiệm lúc 7h30, quan sát số lần viếng thăm của ruồi cái vào các thời điểm 8h, 10h, 14h, 16h trong ngày, mỗi lần quan sát kéo dài 30 phút Sau 16h, lấy cả 2 quả ổi ra, sử dụng kính lúp để đếm số lượng trứng trên mỗi quả Ngày tiếp theo, lặp lại quy trình với 2 quả ổi khác và tiếp tục thí nghiệm trong 5 ngày (Wigund et al., 2009).
- Số lần viếng thăm của trưởng thành cái lúc 8h, 10h, 14h, 16h;
- Số trứng thu được trên mỗi quả
* Nghiên cứu thời gian đẻ trứng của ruồi đục quả B dorsalis
Thả 15 cặp trưởng thành (1 cái, 1 đực) ở 20 ngày tuổi vào lồng nuôi (kích thước 53x53x53 cm) ở phòng có nhiệt độ là 26- 28 0 C, ẩm dộ 60- 80% Thu trứng bằng miếng xoài ở 4 khoảng thời gian khác nhau trong ngày:
Công thức 1: thu trứng từ 8- 10h;
Công thức 2: thu trứng từ 10- 12h;
Công thức 3: thu trứng từ 14- 16h;
Công thức 4: thu trứng từ 16- 18h Đếm số trứng thu được ở mỗi công thức, thí nghiệm được lặp lại trong 5 ngày
* Xác đinh đặc điểm hình thái của các pha phát phát dục
Tiến hành nuôi ruồi đục quả Bactorcera dorslalis Hendel trong phòng thí nghiệm, chúng tôi đã thu thập 30 cá thể từ mỗi pha phát dục để quan sát dưới kính lúp và mô tả đặc điểm Để đo kích thước, chúng tôi thực hiện việc đo chiều dài của từng cá thể từ đỉnh đầu đến cuối cơ thể (hậu môn) theo phương pháp được mô tả bởi Prabhakar et al (2012).
* Theo dõi một số đặc điểm sinh học:
Trong giai đoạn trứng, sử dụng miếng xoài để thu hút ruồi đẻ trứng, thu thập trứng đồng loạt vào mỗi sáng sớm Sau đó, đặt trứng lên miếng vải và rải đều trên các đĩa thức ăn có thành phần thịt quả ổi, với khối lượng 0,3 gram cho mỗi đĩa Đĩa trứng cần được đặt trong phòng điều hòa với nhiệt độ từ 26-28 độ C và độ ẩm 60-80%, trong bóng tối Kiểm tra vỏ trứng còn sót lại trên đĩa bằng kính lúp soi nổi hai lần mỗi ngày, vào lúc 8 giờ sáng và 18 giờ chiều, theo dõi 30 trứng.
Ghi nhận thời gian có quả trứng nở đầu tiên đến quả trứng cuối cùng nở Tỷ lệ trứng nở được tính theo công thức
Thời gian phát dục của pha trứng là khoảng thời gian từ khi trứng được đẻ cho đến khi trứng nở thành ấu trùng Để xác định thời gian này, cần tính trung bình thời gian phát dục của 30 cá thể theo công thức đã quy định.
Trong đó: X : Thời gian phát dục trung bình; xi: Thời gian phát dục của cá thể n trong ngày thứ i; ni: số cá thể nở trong ngày thứ i;
N: Tổng số cá thể theo dõi
+ Sau 7 ngày thu trứng, đếm tổng số trứng không nở trên đĩa
Sử dụng bút lông để gạt sâu non vừa nở lên đĩa thức ăn chứa 0,3 gram thịt quả ổi Đặt đĩa vào phòng nuôi có nhiệt độ từ 26-28 độ C, độ ẩm 60-80% và trong bóng tối Quan sát sâu non chuyển thành nhộng hai lần mỗi ngày vào lúc 8 giờ sáng và 18 giờ chiều, theo dõi 30 sâu non Ghi nhận thời gian xuất hiện nhộng đầu tiên và nhộng cuối cùng.
Theo dõi các chỉ tiêu sau:
+ Thời gian phát dục của sâu non: Từ khi sâu non mới nở đến khi sâu non vào nhộng (tính giá trị trung bình của 30 cá thể theo dõi)
Số nhộng thu được + Tỷ lệ vào nhộng (%) = - × 100
Tổng số sâu non theo dõi
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
THÀNH PHẦN RUỒI ĐỤC QUẢ THU THẬP ĐƯỢC TỪ BẪY ME, CUE, BẪY PB VÀ TRONG QUẢ ỔI TẠI THANH HÀ- HẢI DƯƠNG NĂM 2016
Ruồi đục quả trưởng thành, thuộc giống Bactrocera spp, khi đến thời kỳ sinh sản, con cái tiết ra pheromone để thu hút con đực Dựa trên đặc điểm này, các hợp chất có mùi giống pheromone giới tính đã được phát triển để dụ con đực, và được đặt trong các bẫy màu vàng như bẫy ME và CUE Ngoài ra, ruồi trưởng thành cần protein để sống, việc phun bả protein tuy hiệu quả nhưng dễ bị mất do mưa, ánh sáng mặt trời và các yếu tố khác Vì vậy, hiện nay đã có bẫy Protein dạng viên, thuốc hòa vào nước trong bẫy Multilure, chứa chất độc Pyrinex 20EC (Pb).
Trong quá trình điều tra tại các khu vườn trồng ổi ở Thanh Hà – Hải Dương, đã thu thập được một số mẫu ruồi thuộc giống Bactrocera bằng ba loại bẫy khác nhau Kết quả giám định về thành phần ruồi đục quả được thể hiện trong bảng 4.1.
Bảng 4.1 Thành phần ruồi đục quả thu thập được từ bẫy ME, CUE, bẫy Pb trên vườn ổi và trong quả ổi tại Thanh Hà – Hải Dương
STT Loài ruồi đục quả Bẫy
Bẫy CUE Bẫy Pb Trong quả
Chú thích: “+”: Bắt gặp “-”: Không bắt gặp
Dựa trên bảng thành phần ruồi đục quả từ bẫy ME, CUE và Pb, chúng tôi nhận thấy rằng thành phần ruồi đục quả thuộc giống Bactrocera spp được ghi nhận tại huyện Thanh.
Khu vực Thanh Hà – Hải Dương ghi nhận 7 loài ruồi đục quả thuộc chi Bactrocera, bao gồm Bactrocera dorsalis, Bactrocera cucurbitae, Bactrocera tau, Bactrocera correcta, Bactrocera rubigina, Bactrocera scutellata và Bactrocera papayae Qua nghiên cứu, các loài ruồi khác nhau bị dẫn dụ bởi các bẫy giới tính khác nhau; bẫy ME chỉ thu được 3 loài Bactrocera dorsalis, Bactrocera papayae và Bactrocera correcta, trong khi 4 loài còn lại chỉ bị dẫn dụ bằng bẫy CUE Bẫy Pb thu được 2 loài là Bactrocera dorsalis và Bactrocera papayae, hiện thuộc nhóm Bactrocera dorsalis complex So với các nghiên cứu trước đó, số loài ruồi đục quả tại Thanh Hà – Hải Dương ít hơn nhiều, với 30 loài của Drew và cs (2000), 36 loài của Nguyễn Đức Khánh (2010) và 21 loài của Nguyễn Thị Thanh Hiền (2012) Nguyên nhân có thể do khu vực khảo sát hẹp và chỉ tập trung vào một loại cây trồng.
Mỗi loại bẫy dẫn dụ có khả năng thu hút nhiều loài ruồi đục quả, với khoảng cách từ 50-500 m Tuy nhiên, không phải tất cả các loài ruồi thu được từ bẫy đều gây hại cho cây ổi Để xác định chính xác loài ruồi gây hại, chúng tôi đã thu thập các quả ổi bị hại và nuôi trong lồng Qua quá trình vũ hóa, chúng tôi xác định được hai loài ruồi đục quả tại Thanh Hà – Hải Dương là B dorsalis và B papayae, phù hợp với các nghiên cứu trước đây của Lê Đức Khánh và các cộng sự (2012) cùng Lê Hữu Điền.
Nghiên cứu năm 2012 và thông tin từ CABI (2016) chỉ ra rằng loài ruồi B correcta có ký chủ chính là quả ổi, do đó chúng được gọi là ruồi đục quả ổi Mặc dù có xuất hiện trong bẫy ME, nhưng B correcta không được thu thập từ các quả bị hại Điều này có thể do quần thể của B dorsalis và B papayae lớn hơn nhiều so với B correcta, dẫn đến tình trạng cạnh tranh dinh dưỡng Hơn nữa, nhiều nghiên cứu cho thấy các loài ruồi đục quả thường không đẻ trứng lên những quả đã bị loài khác đẻ trứng trước đó (Silva et al., 2012).
Các loài ruồi đục quả như B tau, B cucurbitae, B rubigina và B scutellata chủ yếu gây hại cho các loại rau ăn quả như mướp, dưa chuột và bí ngô, nhưng cũng có thể gây hại cho ổi khi không có ký chủ chính Quan sát cho thấy, xung quanh vùng trồng ổi, người dân thường trồng thêm rau ăn quả, tạo điều kiện cho ruồi đục quả xuất hiện Do đó, các loài ruồi thu thập được từ bẫy có thể là do bị thu hút từ những loại quả khác thay vì từ quả ổi.
Tóm lại, thành phần ruồi đục quả trên quả ổi tại Thanh Hà – Hải Dương năm 2016 có hai loài là B dorsalis Hendel và B papayae Hendel
Để xác định chính xác thành phần ruồi đục quả phục vụ cho công tác quản lý dịch hại, cần tiến hành nghiên cứu bổ sung trong vài năm tới.
Bài viết này trình bày một số đặc điểm hình thái của bảy loài ruồi đục quả thuộc giống Bactrocera Mặc dù các loài này có nhiều đặc điểm chung, nhưng chúng cũng sở hữu những đặc điểm riêng biệt giúp phân biệt giữa các loài trong cùng một giống Các đặc điểm này được mô tả chi tiết trong bảng 4.2.
Bảng 4.2 Một số đặc điểm hình thái của 7 loài ruồi đục quả Bactrocera thu được từ 3 loại bẫy ME, CUE, Pb tại Thanh Hà – Hải Dương năm 2016
Chiều dài cơ thể (mm)
Chiều dài sải cánh (mm) Đặc điểm hình thái
Mảnh lưng ngực có màu đen, trong khi cánh có buồng bc và buồng c không màu Băng màu nhạt kéo dài dọc theo gân coasta đến gân R 2+3 và kết thúc tại đỉnh gân này, với đốm hình bầu dục nhỏ màu đậm trên đỉnh gân R 4+5.
Bactrocera rubigina (Wang and Zhao)
Mảnh lưng ngực có màu đỏ đến nâu sậm, trong khi cánh có buồng BC và C không màu Một băng hẹp màu nâu nhạt chạy dọc theo gân costa, kéo dài qua gân R 2+3 và kết thúc tại gân R 4+5 Bụng không có băng đen dạng chữ T rõ ràng.
Mảnh lưng ngực có màu nâu đỏ, trong khi cánh có băng rộng màu nâu đậm dọc theo gân costa, kéo dài qua gân R 2+3 và gặp gân R 4+5, sau đó phình ra dạng đốm ở đỉnh cánh Ngoài ra, còn có một băng màu nâu nhạt trên gân rm và một băng màu nâu đậm hơn dọc theo gân ngang dm-cu.
Mảnh lưng ngực có màu đen, trong khi cánh của buồng bc và buồng c không có màu Băng hẹp màu nâu đậm chạy dọc theo gân costa, gặp gân R 2+3 và thu hẹp lại, sau đó kéo dài qua gân này Tiếp tục kéo dài qua gân.
R 4+5 và hướng vế phía đỉnh M; băng màu nâu nhạt hơi hẹp dọc theo gân A 1+ CuA 2 (H.d) Bactrocera tau
9,23 ± 0,98 6,25 ± 0,13 Mảnh lưng ngực màu vàng Dọc mép trước mạch gân phụ có vệt vàng ngang qua đỉnh R 2+3 lan rộng và tạo đốm lớn qua đỉnh mạch R 4+5 (H.e)
Mảnh lưng ngực có màu đen, trong khi chiều dài sải cánh được xác định bởi các chấm nhỏ ở góc ngoài của buồng c Các phần còn lại của cánh không có màu, ngoại trừ buồng sc có màu đậm Băng rất hẹp màu đậm chạy dọc theo gân costa, giao với gân R 2+3 và tiếp tục hẹp xung quanh mép của gân costa, kết thúc ở giữa gân R 4+5 và gân M Đặc biệt, băng ngang của đốt bụng 3 bị đứt không liền.
Mảnh lưng ngực có màu đen với một đốm vàng hình thoi hẹp ở chính giữa Cánh có màu nâu đậm, hẹp dọc theo gân costa, gặp gân R 2+3 và thu hẹp lại, kéo dài qua gân này, tạo thành đốm xung quanh đỉnh gân R 4+5.
DIỄN BIẾN MẬT ĐỘ RUỒI ĐỤC QUẢ BACTROCERA DORSALIS
Ruồi đục quả gây hại cho cây ổi chủ yếu thuộc hai loài B dorsalis Hendel và B papayae Hendel, đều nằm trong phức hợp Bactrocera dorsalis complex Kết quả nghiên cứu cho thấy bẫy ME có hiệu quả cao hơn bẫy PB trong việc thu hút hai loài ruồi này, với số lượng ruồi vào bẫy PB thấp hơn nhiều so với bẫy ME Cả hai loài ruồi đục quả này có khả năng gây hại trên hơn 150 loài cây trồng, cho thấy tầm quan trọng của việc sử dụng bẫy dẫn dụ hiệu quả.
Để xác định diễn biến mật độ chính xác của ruồi đục quả gây hại cho quả ổi tại Thanh Hà – Hải Dương, chúng tôi tiến hành so sánh mật độ ruồi đục quả thu được từ bẫy với số lượng sâu non trong quả Kết quả điều tra được trình bày rõ ràng qua bảng 4.4 và hình 4.3.
Bảng 4.4 Diễn biến mật độ ruồi đục quả Bactrocera dorsalis complex thu thập được từ quả ổi bị hại và trên bẫy ME tại Thanh Hà – Hải Dương năm 2016
Giai đoạn sinh trưởng của cây
Mật độ trưởng thành trên bẫy ME (con/bẫy/ngày)
Mật độ sâu non thu được từ quả (con/quả) 3/4/16
Ghi chú: + Diện tích vườn điều tra: 1000 m 2 + Số lượng bẫy: 2
Hình 4.3 Diễn biến mật độ ruồi đục quả thu thập được từ quả ổi bị hại và trên bẫy ME tại Thanh Hà – Hải Dương năm 2016
Ruồi đục quả Bactrocera dorsalis complex xuất hiện từ tháng 4, đạt đỉnh vào tháng 7-10 với 31,52 con/bẫy/ngày, sau đó giảm đáng kể Khi quả bắt đầu chín vào tháng 6, mật độ sâu non tăng cao, đạt trung bình khoảng 13 sâu non/quả vào cuối vụ Quần thể ruồi đục quả duy trì ở mật độ thấp, tăng nhanh khi có nguồn thức ăn dồi dào, nhưng khi quả gần hết, chúng di chuyển do thiếu thức ăn Cuối vụ, việc dọn dẹp vệ sinh của người dân làm giảm số lượng pha nhộng trong đất Ruồi không thể chọc vỏ quả cứng ở giai đoạn đầu, nhưng khi quả chín, mùi thơm thu hút ruồi đến đẻ trứng Từ tháng 9-10, tỷ lệ quả chín cao, tạo điều kiện thuận lợi cho ruồi đẻ trứng và sâu non phát triển Khi số lượng ký chủ giảm, ruồi cái chọn cùng vị trí để đẻ, dẫn đến mật độ giòi trong quả không giảm.
Mật độ trưởng thành của ruồi đục quả Bactrocera dorsalis complex thu được trên bẫy ME và mật độ sâu non trong quả tại Thanh Hà – Hải Dương năm 2016 có sự biến động tương tự trong các tháng quả chín rộ, nhưng khác nhau ở đầu và cuối vụ do ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh.
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI HỌC VÀ SINH HỌC CỦA LOÀI
Bactrocera dorsalis Hendel, thuộc họ Tephritidae trong bộ hai cánh Diptera, là loài ruồi gây hại nghiêm trọng cho cây ăn quả và rau ăn quả Kết quả điều tra cho thấy đây là loài ruồi đục quả chính gây hại cho quả ổi tại vùng Thanh Hà – Hải Dương Để hiểu rõ hơn về đặc điểm sinh học và tập tính gây hại của loài ruồi này, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu các đặc điểm hình thái và sinh học, và đã thu được những kết quả đáng chú ý.
4.3.1 Tập tính gây hại của ruồi đục quả Bactrocera dorsalis Hendel
Ruồi đục quả giống Bactrocera có tập tính gây hại rõ rệt, với con cái thường bò quanh quả để chọn vị trí đẻ trứng Chúng sử dụng ống đẻ trứng để chọc thủng vỏ quả và đẻ trứng vào phần thịt bên trong Sau khi trứng được đẻ, quả sẽ bị ứ nước tại vị trí đẻ trứng, với dấu hiệu bên ngoài là một chấm đen, sau đó chuyển từ màu vàng sang nâu Ruồi đục quả thường chọn phần mềm nhất của quả để đẻ trứng, và có xu hướng tập trung vào các quả đã được cắt thay vì quả nguyên vẹn.
Bảng 4.5 Xu hướng đẻ trứng của ruồi đục quả Bactrocera dorsalis Hendel
Số lần trưởng thành cái viếng thăm (lần/ngày)
Tổng số trứng thu được (trứng/ngày) Quả cắt Quả không cắt Quả cắt Quả không cắt
Chú thích: + Số ngày quan sát: 5
+ Số cá thể cái theo dõi: 30 + Số lần quan sát/ngày: 4
Thời gian quan sát là 30 phút, cho thấy rằng quả ổi có nhiều vết thương trên bề mặt sẽ thu hút ruồi đục quả đến đẻ trứng Do đó, việc bảo vệ quả ổi khỏi xây xát là một biện pháp hiệu quả để ngăn ngừa ruồi đục quả.
Hình 4.4 Tập tính đẻ trứng cuả trưởng thành cái B dorsalis
Nghiên cứu về tập tính đẻ trứng của 15 cặp trưởng thành được thực hiện trong 5 ngày cho thấy, sau khi giao phối, trưởng thành cái có khả năng đẻ trứng suốt cả ngày, nhưng thời gian đẻ trứng nhiều nhất diễn ra vào buổi chiều, từ 14 đến 16 giờ, và gần như không có hoạt động đẻ trứng sau 16 giờ.
Ruồi đục quả B dorsalis đẻ trứng vào trong quả, và trứng sẽ nở thành ấu trùng ăn phần thịt quả Khi ấu trùng lớn lên, chúng thường tập trung ăn ở phần lõi mềm nhất của quả ổi, dẫn đến việc quả bị thối rụng Ngoài ra, các vết chích do ruồi đục quả còn tạo điều kiện cho nấm bệnh xâm nhập, làm giảm năng suất và phẩm chất của quả.
Khi dòi đục quả đã phát triển đủ sức, chúng sẽ đục quả chui ra ngoài và rơi xuống đất để hóa nhộng Để phát triển tốt, chúng cần điều kiện đất tơi xốp và ẩm ướt; nếu đất quá khô hoặc trũng nước, dòi dễ bị chết và không thể hóa nhộng Do đó, việc vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ và không để lại các quả thối hỏng từ vụ trước là phương pháp hiệu quả để hạn chế sự phát sinh và gây hại của ruồi đục quả cho vụ sau.
Hình 4.6 Ổi bị ruồi đục quả gây hại
Hình 4.7 Vết chích do ruồi đục quả để lại trên quả ổi 4.3.2 Đặc điểm hình thái của ruồi đục quả Bactrocera dorsalis Hendel
* Đặc điểm pha trưởng thành
Trưởng thành có màu vàng đặc trưng, với băng ngang đậm hình chữ T trên lưng bụng và hai đường vàng song song trên lưng ngực Hai bên lưng ngực có đốm vàng nổi bật Cánh trong suốt có băng màu nâu chạy dọc theo gân costa, gặp gân R 2+3 thu hẹp và kéo dài về phía đỉnh M Cánh sau tiêu biến, chỉ còn lại thùy cánh Hình thái con cái và con đực khá giống nhau, nhưng con cái có máng đẻ trứng ở đốt bụng cuối, trong khi con đực thì không.
Con ruồi đực có kích thước trung bình nhỏ hơn con ruồi cái, với kích thước lớn nhất đạt 8mm và nhỏ nhất là 5,5mm, trung bình khoảng 6,82 ± 0,25mm Ngược lại, con ruồi cái có kích thước lớn nhất cũng là 8mm, nhưng nhỏ nhất là 5mm, với kích thước trung bình là 7,22 ± 0,26mm.
Đặc điểm phát triển pha trứng
Trứng ruồi đục quả B dorsalis được đẻ dưới vỏ quả thành từng chùm từ 1-20 quả, đôi khi cũng rải rác Khi mới đẻ, trứng có màu trắng trong, nhưng khi gần nở, chúng chuyển sang màu trắng đục Kích thước trung bình của trứng là 2,23 ± 0,16 mm, với chiều dài lớn nhất là 3 mm và nhỏ nhất là 1 mm.
Đặc điểm pha sâu non
Sâu non của ruồi đục quả B dorsalis khi mới nở có màu trắng ngà, sau đó chuyển sang màu vàng nhạt và vàng trước khi hóa nhộng Chúng có hình dạng thuôn dài, với miệng có một móc cứng màu đen Kích thước ấu trùng ở tuổi cuối dao động từ 5mm đến 9mm, trung bình là 7,44 ± 0,29 mm Giai đoạn sâu non này có 3 tuổi, không có sự khác biệt về hình thái, chỉ khác nhau về kích thước và màu sắc cơ thể.
Sâu non sau khi đẫy sức sẽ đục quả và chui ra ngoài để hóa nhộng trong đất, tuy nhiên có thể gặp trường hợp sâu non hóa nhộng ngay trong quả Nhộng ruồi có hình dạng bọc, mới hóa nhộng có màu nâu, và khi chuẩn bị vũ hóa, nhộng chuyển sang màu nâu đậm với kích thước trung bình khoảng 5,19 ± 0,21 mm Khi trưởng thành, chúng sẽ chui ra ngoài qua lỗ vũ hóa.
Bảng 4.6 Đặc điểm hình thái học của loài ruồi Bactrocera dorsalis Hendel
Chiều dài lớn nhất (mm)
Chiều dài nhỏ nhất (mm)
Trứng 3 1 2,23 ± 0,16 Ấu trùng tuổi cuối 9 5 7,44 ± 0,29
Chú thích: n = 30 Thức ăn: thịt quả ổi và protein nhân tạo Nhiệt độ: 26- 28 0 C, ẩm độ: 60- 80% Đốt bụng trưởng thành cái Đốt bụng trưởng thành đực
Hình 4.8 Một số hình ảnh các pha phát dục ruồi đục quả
4.3.3 Một số đặc điểm sinh học của loài ruồi đục quả Bactrocera dorsalis Hendel
4.3.3.1 Thời gian phát dục của các pha và vòng đời của loài Bactrocera dorsalis Hendel
Để phòng trừ hiệu quả ruồi đục quả, việc hiểu biết về đặc điểm phát sinh và phát dục của từng pha là rất quan trọng Chúng tôi đã tiến hành nuôi ruồi đục quả B dorsalis Hendel trong điều kiện phòng thí nghiệm với nhiệt độ 26-28°C và độ ẩm 60-80% nhằm xác định vòng đời và thời gian phát dục của từng pha Kết quả nghiên cứu được trình bày trong bảng 4.7.
Bảng 4.7 Thời gian phát dục các pha của loài B dorsalis Hendel
Pha phát dục Thời gian phát dục (ngày)
Thấp nhất Cao nhất Trung bình
Ghi chú: + Nhiệt độ: 26- 28 0 C + Ẩm độ: 60- 80%
+ Thức ăn là quả ổi + n = 30
Kết quả thí nghiệm cho thấy, khi nuôi ruồi đục quả B dorsalis trong điều kiện nhiệt độ 26-28°C và độ ẩm 60-80%, vòng đời của ruồi dao động từ 19 đến 30 ngày, với thời gian nở trứng trung bình là 1,93 ngày Ấu trùng bắt đầu ăn ngay sau khi nở và sẽ hóa nhộng sau khoảng 8,48 ngày, trong khi thời gian vũ hóa trưởng thành là khoảng 7,43 ngày Ruồi trưởng thành B dorsalis cái bắt đầu đẻ trứng sau ít nhất 7 ngày, với thời gian tiền đẻ trứng ngắn hơn so với các nghiên cứu trước đó Trung bình, vòng đời của ruồi đục quả là 25,3 ngày, ngắn hơn so với công bố trước đây Mặc dù số lứa của ruồi đục quả phương Đông khá ít, nhưng khả năng sinh sản của chúng rất cao, dẫn đến thiệt hại lớn Tuổi thọ trung bình của ruồi B dorsalis trong thí nghiệm là 77,56 ngày, với tuổi thọ cao nhất đạt 100 ngày.
So sánh với kết quả của Nguyễn Hữu Đạt và Bùi Công Hiển (2004), Nguyễn Thị Thanh Hiền (2014) (140 ngày) thì tuổi thọ của ruồi đục quả B dorsalis ngắn hơn 40 ngày
Sự khác biệt trong kết quả nghiên cứu về các pha phát dục của ruồi đục quả Bactrocera dorsalis Hendel xuất phát từ việc nuôi ở các điều kiện khác nhau, dẫn đến những dữ liệu sinh học không đồng nhất Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng, khi nuôi ruồi đục quả B dorsalis Hendel bằng quả ổi ở nhiệt độ 26-28°C, chúng ta có thể bổ sung thêm hiểu biết về đặc điểm sinh học của loài ruồi này, đặc biệt là trong mối liên hệ với cây ăn quả, đặc biệt là cây ổi.
4.3.3.2 Tuổi thọ, sức sinh sản và nhịp điệu đẻ trứng trưởng thành cái loài Bactrocera dorsalis Hendel
Giai đoạn trưởng thành của ruồi đục quả Bactrocera dorsalis không gây hại trực tiếp đến quả, nhưng ảnh hưởng lớn đến mật độ sâu non, quyết định khả năng gây hại cho ký chủ Do đó, nghiên cứu đặc điểm phát triển của pha trưởng thành là cần thiết để áp dụng các biện pháp phòng trừ hiệu quả.
Qua nghiên cứu đặc điểm sinh học pha trưởng thành của ruồi đục quả Bactrocera dorsalis Hendel cho kết quả được thể hiện trong bảng 4.8
Bảng 4.8 Một số đặc điểm của pha trưởng thành cái loài B dorsalis Hendel
Chỉ tiêu theo dõi Thấp nhất Cao nhất Trung bình
Thời gian đẻ trứng (ngày) 27 72 52,53 ± 6,54
Sức đẻ trứng của trưởng thành cái
Chú thích: + Nhiệt độ: 26- 28 0 C + Ẩm độ: 60- 80%
+ n = 30 + Thức ăn: Protein nhân tạo
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ PHÒNG TRỪ RUỒI ĐỤC QUẢ BẰNG BẪY
4.4.1 So sánh hiệu quả phòng trừ ruồi đục quả Bactrocera dorsalis Hendel bằng các loại bẫy ME, CUE và PB tại Thanh Hà – Hải Dương năm 2016
Ruồi đục quả trải qua 4 giai đoạn phát triển, trong đó giai đoạn sâu non gây hại trực tiếp cho quả, nhưng chúng sống bên trong quả nên không thể tiêu diệt bằng biện pháp thông thường Giai đoạn nhộng phát triển trong đất, có thể giảm thiểu số lượng nhộng bằng cách dọn vệ sinh đồng ruộng, nhưng biện pháp này tốn công sức và không thể tiêu diệt hoàn toàn Để phòng trừ ruồi đục quả, đặc biệt là B dorsalis Hendel, cần tập trung vào việc tiêu diệt trưởng thành Mặc dù có nhiều biện pháp như sử dụng thuốc hóa học, nhưng hiệu quả thấp và gây độc hại cho môi trường Hiện nay, phương pháp sử dụng chất dẫn dụ để thu hút và tiêu diệt ruồi đực đang được áp dụng rộng rãi, giúp giảm mật độ ruồi mà không gây hại cho môi trường và người sử dụng với chi phí thấp.
Hiện nay, trên thế giới có ba loại chất dẫn dụ phổ biến được sử dụng là Methyl eugenol, CUE lure và Protein dạng thủy phân Theo các số liệu điều tra trước đây, ruồi đục quả ổi tại Thanh Hà, Hải Dương đã cho thấy sự xuất hiện đáng kể của những loại chất này trong việc kiểm soát và thu hút ruồi.
Năm 2016, nghiên cứu chủ yếu tập trung vào loài B dorsalis Hendel Để xác định loại bẫy hiệu quả trong việc thu hút và tiêu diệt ruồi đục quả phương Đông, chúng tôi đã tiến hành thí nghiệm so sánh giữa bẫy ME, CUE và PB Thí nghiệm được thực hiện trên một vườn ổi có diện tích 1000m2 tại Thanh Hà – Hải Dương, với mỗi loại bẫy sử dụng 2 chiếc, theo kiểu bẫy Multilure Kết quả chi tiết được trình bày trong bảng 4.10.
Bảng 4.10 Số lượng ruồi đục quả B dorsalis Hendel vào các bẫy ME, CUE và Pb tại Thanh Hà – Hải Dương năm 2016
Thời gian Bẫy (con/bẫy/15 ngày)
Hình 4.10 Số lượng ruồi đục quả B dorsalis Hendel vào các bẫy ME, CUE và PB tại Thanh Hà – Hải Dương năm 2016
Trong nghiên cứu, bẫy ME ghi nhận lượng ruồi đục quả B dorsalis Hendel cao nhất từ tháng 4 đến tháng 11, với đỉnh điểm là 854 con vào ngày 18/9/2016 Ngược lại, bẫy PB chỉ thu được 99 con vào ngày 18/8/2016, cho thấy số lượng thấp hơn nhiều Đặc biệt, bẫy CUE không thu được ruồi đục quả Bactrocera dorsalis nào.
Bẫy ME đã cho thấy hiệu quả cao nhất trong việc thu hút trưởng thành đực của ruồi đục quả B dorsalis tại vườn ổi ở Thanh Hà, Hải Dương trong năm 2016.
4.4.2 Đánh giá ảnh hưởng của số lượng bẫy ME đến khả năng phòng trừ ruồi đục quả B dorsalis tại vườn ổi tại Thanh Hà – Hải Dương năm 2016
Số lượng ruồi đục quả B dorsalis vào bẫy ME ở các mật độ treo tại Thanh Hà – Hải Dương năm 2016
Trong phòng trừ ruồi đục quả, việc sử dụng bẫy dẫn dụ đã trở nên phổ biến cả trong nước và quốc tế, tuân theo phương pháp đặt bẫy theo tiêu chuẩn ISPM số 6.
Từ năm 2011, số lượng bẫy ME được khuyến nghị là 3-5 bẫy/km² cho việc giám sát và diệt trừ, tuy nhiên, phương pháp này áp dụng chung cho mọi loại cây trồng và điều kiện tự nhiên Mật độ đặt bẫy khác nhau tùy thuộc vào mục đích và điều kiện cụ thể của từng vùng; chẳng hạn, ở Ấn Độ, cơ quan bảo vệ thực vật khuyến cáo từ 18-30 bẫy/ha mỗi mùa vụ, trong khi New Zealand đã đặt 3 triệu bẫy ME trên diện tích 157 km² vào năm 1995 để diệt trừ ruồi đục quả Bactrocera papayae Tại Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu về mật độ treo bẫy hiệu quả nhất, vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu thử nghiệm với các mật độ khác nhau, và kết quả về mật độ ruồi vào bẫy được thể hiện qua bảng 4.11.
Bảng 4.11 Số lượng ruồi B dorsalis vào bẫy ME ở các mật độ treo tại Thanh
Mật độ ruồi vào bẫy ME (Con/bẫy/15 ngày)
Tổng Trung bình Tổng Trung bình Tổng Trung bình
Trung bình 346,71 173,35 628,64 157,16 827,71 137,95 CV% (Trung bình)
Chú thích: CT1: 2 bẫy CT2: 4 bẫy CT3: 6 bẫy Diện tích vườn: 1000m 2 , độ cao treo bẫy: 1,5m
Kết quả từ bảng cho thấy rằng số lượng ruồi đục quả Bactrocera dorsalis bị thu hút vào bẫy không khác nhau ở các mật độ treo khác nhau Tuy nhiên, tổng số lượng ruồi bắt được trên cùng một diện tích cao nhất ở công thức 3, tiếp theo là công thức 2, và thấp nhất là công thức 1 Điều này cho thấy rằng việc treo nhiều bẫy hơn sẽ thu hút nhiều ruồi hơn.
Nghiên cứu tỷ lệ quả bị hại ở các mật độ treo bẫy ME tại vườn ổi ở Thanh Hà – Hải Dương năm 2016 cho thấy cần đánh giá hiệu quả của việc treo bẫy ở các mức độ khác nhau Mục tiêu là xác định công thức treo bẫy phù hợp nhất để giảm thiểu thiệt hại do ruồi đục quả Trong nghiên cứu, 100 quả được thu ngẫu nhiên từ các tầng khác nhau tại 4 vườn, bao gồm 1 vườn không treo bẫy làm đối chứng, với kết quả được trình bày trong bảng 4.12.
Bảng 4.12 Tỷ lệ quả bị hại ở các mật độ treo bẫy ME tại vườn ổi tại Thanh
Thời gian đánh giá Tỷ lệ quả bị hại (%)
Không treo CT1 CT2 CT3
Chú thích: CT1: 2 bẫy CT2: 4 bẫy CT3: 6 bẫy Diện tích vườn: 1000m 2 , độ cao treo bẫy: 1,5m
Từ bảng số liệu, có thể thấy rằng tỷ lệ quả bị hại khác nhau tùy thuộc vào mật độ treo Cụ thể, bẫy không treo có tỷ lệ quả bị ròi đục thấp nhất, với trung bình 16% và cao nhất là 40% vào mùa thu hoạch Ở công thức 1, tỷ lệ quả bị hại trung bình là 21,16%, không khác biệt so với công thức đối chứng Tuy nhiên, công thức 2 và công thức 3 cho thấy sự khác biệt rõ rệt; công thức 2 có tỷ lệ quả bị hại gấp đôi công thức đối chứng, đạt 35% vào tháng cao điểm, và số quả bị hại lên đến 66% Công thức 3 ghi nhận tỷ lệ bị hại trung bình là 49,66%, với mức cao nhất lên tới 86% vào ngày 3/10/2016 Sự chênh lệch này bắt đầu xuất hiện ngay từ khi quả bắt đầu chín.
Số lượng bẫy ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hút ruồi đục quả B dorsalis; càng nhiều bẫy, số lượng ruồi càng tăng và tỷ lệ quả bị hại cũng gia tăng Điều này xảy ra do chất dẫn dụ ME có khả năng phát tán xa, thu hút ruồi từ các vườn không treo bẫy, dẫn đến tổn thất cao hơn Nghiên cứu toàn cầu cho thấy trong những năm đầu sử dụng bẫy, mật độ ruồi không giảm ngay lập tức, mà chỉ giảm đáng kể sau vài năm áp dụng rộng rãi (IAEA, 2003) Để đánh giá chính xác hiệu quả của mật độ treo bẫy, cần tiếp tục nghiên cứu trên diện tích lớn hơn trong các năm tới tại vùng sản xuất ổi chuyên canh ở Thanh Hà – Hải Dương.
4.4.3 Đánh giá ảnh hưởng của các chiều cao treo bẫy ME tại vườn ổi tại Thanh Hà – Hải Dương năm 2016
Ruồi đục quả Bactrocera có khả năng bay xa nhờ cánh, và việc giao phối của chúng phụ thuộc vào pheromone mà con cái phát ra trong không khí Con đực sử dụng mùi pheromone để tìm kiếm bạn tình Do đó, chiều cao và vị trí của bẫy dẫn dụ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả phát tán pheromone Để xác định chiều cao tối ưu cho chất dẫn dụ, chúng tôi đã tiến hành đặt bẫy ở các độ cao khác nhau, và kết quả thử nghiệm được trình bày trong bảng 4.13.
Bảng 4.13 Số lượng ruồi B dorsalis vào bẫy ME ở các chiều cao treo khác nhau tại vườn ổi tại Thanh Hà – Hải Dương năm 2016
Mật độ ruồi vào bẫy (Con/ bẫy/ 15 ngày)
Chú thích: CT1: Treo bẫy cách mặt đất 1 m CT2: Treo bẫy cách mặt đất 1,5 m CT3: Treo bẫy cách mặt đất 2 m Mật độ treo bẫy: 1 bẫy/vườn, diện tích vườn: 500 m 2
Kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng ruồi đục quả khác nhau tùy thuộc vào chiều cao treo bẫy Cụ thể, bẫy treo ở độ cao 1,5m thu hút nhiều ruồi trưởng thành nhất, với 501 con vào tháng 8 và trung bình 255,83 con/bẫy/15 ngày Trong khi đó, bẫy treo ở 1m và 2m chỉ thu được 107 và 103 con/bẫy/15 ngày Vườn ổi Đài Loan có chiều cao cây trung bình 1,8 – 2m, do đó treo bẫy quá thấp (1m) sẽ làm giảm khả năng phát tán mùi của Methyl eugenol do ít gió, còn treo quá cao (2m) sẽ khiến chất dẫn dụ dễ bị quang phân Hơn nữa, ruồi đục quả B dorsalis và họ Tephritidae có tập tính giao phối trong điều kiện ánh sáng yếu và dưới tán lá, nên treo bẫy ở độ cao 2m không mang lại hiệu quả cao.
Chiều cao phù hợp nhất cho việc treo bẫy dẫn dụ ME tại vườn ổi đài loan tại Thanh Hà – Hải Dương là 1,5 m
4.4.4 Đánh giá ảnh hưởng của các thời điểm treo bẫy ME
Thời điểm áp dụng biện pháp phòng trừ sâu bệnh là yếu tố quyết định hiệu quả và chi phí cho người trồng Việc sử dụng bẫy dẫn dụ trong phòng trừ cũng cần được thực hiện đúng thời điểm để nâng cao hiệu quả và tiết kiệm chi phí Hiện tại, chưa có nghiên cứu nào về thời điểm treo bẫy dẫn dụ giới tính ME trong phòng trừ ruồi đục quả B dorsalis Hendel tại Việt Nam Do đó, chúng tôi tiến hành thí nghiệm xác định thời điểm treo bẫy dẫn dụ ME tại vườn ổi Đài Loan ở Thanh Hà – Hải Dương, với ba vườn có diện tích 500 m² và mật độ 1 bẫy/vườn ở năm giai đoạn phát triển của cây Kết quả thử nghiệm được trình bày trong bảng 4.14.
Bảng 4.14 Mật độ ruồi B dorsalis Hendel vào bẫy ME ở các thời điểm treo tại vườn ổi tại Thanh Hà – Hải Dương năm 2016
Mật độ ruồi vào bẫy (Con/bẫy/15 ngày) Vườn 1 Vườn 2 Vườn 3 Trung Bình
CT1: Trước khi ra hoa 1 3 0 1,33
CT4: Quả bắt đầu chín 175 126 140 147
Trước khi ra hoa, từ tháng 2 đến tháng 3, cây bắt đầu chuẩn bị cho quá trình nở hoa Thời gian ra hoa diễn ra từ giữa tháng 3 đến cuối tháng 4 Sau đó, từ đầu tháng 5 đến cuối tháng 5, quả non bắt đầu hình thành Quá trình chín của quả bắt đầu từ giữa tháng 6 đến giữa tháng 7, và đạt độ chín rộ từ đầu tháng 8 đến tháng 9.
Kết quả thí nghiệm cho thấy số lượng trưởng thành đực bắt được trên bẫy