Địa điểm, thời gian, vật liệu, nội dung và phương pháp nghiên cứu
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu trong phòng được thực hiện tại phòng thí nghiện trường THPT Mường La, Sơn La
- Nghiên cứu ngoài đồng được thực hiện trên cánh đồng mía thuộc xã Cò Nòi, Mai Sơn, Sơn La
- Thời gian nghiên cứu: đề tài được thực hiện từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 12 năm 2015.
Đối tượng, vật liệu và dụng cụ nghiên cứu
- Rệp xơ trắng (Ceratovacuna lanigera Zehntner), họ Aphididae, Bộ Hopmoptera và thiên địch của chúng
- Các giống mía chủ yếu như: ROC 22, MY55-14
- Các loại thuốc hoá học, thảo mộc: Lá xoan, hạt củ đậu, thuốc Elsin 10EC, Oshin 20WP
- Vợt, lọ đựng mẫu, cồn 70 % , bút lông, hộp petri, ống nghiệm, bình phun thuốc
12 lít và các dụng cụ pha thuốc khác, máy ảnh cùng các phụ kiện để chụp ảnh …
- Ôn ẩm kế theo dõi nhiệt độ và ẩm độ trong phòng, sổ tay theo dõi ở ngoài đồng, trong phòng.
Nội dung và phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm sinh vật học, gây hại của rệp xơ trắng hại mía (C lanigera)
- Điều tra diễn biến mật độ của rệp xơ trắng (C lanigera) hại mía trên các giống, chân đất trồng, trồng xen, trồng thuần
- Xác định biện pháp phòng trừ rệp xơ trắng hại mía:
- Biện pháp Canh tác: bóc lá mía, trồng xen, trồng thuần ,
Để kiểm soát rệp xơ trắng, có thể áp dụng biện pháp thuốc bảo vệ thực vật bằng cách sử dụng một số loại thuốc thảo mộc như lá xoan và hạt củ đậu Ngoài ra, việc sử dụng một số loại thuốc hóa học cũng là phương pháp hiệu quả trong việc phòng trừ rệp này.
3.3.2.1 ph ươ ng pháp Nghiên c ứ u đặ c đ i ể m sinh h ọ c c ủ a loài r ệ p x ơ tr ắ ng Ceratovacuna lanigera Zehntner h ạ i mía
Chuyển 20 rệp mẹ từ ruộng mía vào mỗi hộp nuôi, trong đó có lá mía sạch trên giấy thấm nước để giữ ẩm cho rệp đẻ Sau 1 đêm quan sát, nhẹ nhàng dùng bút lông tác động vào cuối cơ thể rệp tuổi 1 và chuyển từng rệp mới đẻ vào hộp riêng, mỗi hộp chứa 1 con rệp cùng với lá mía.
(giống ROC 22) đặt trên giấy thấm nước
Thí nghiệm được thực hiện với 50 con rệp non, theo dõi quá trình sinh sản và nuôi dưỡng chúng Mỗi con rệp được đánh số thứ tự và bổ sung nước hàng ngày, đồng thời loại bỏ xác rệp để xác định tuổi thọ của chúng Khi rệp bắt đầu sinh sản, tiến hành bắt rệp non mới hàng ngày để ghi nhận nhịp điệu và sức sinh sản của rệp mẹ Mỗi hai ngày, lá mía bánh tẻ từ giống ROC 22 được thay mới để làm nguồn thức ăn cho rệp.
Thu thập số liệu nuôi sinh học theo các chỉ tiêu:
+ Ngày rệp lột xác qua các tuổi để xác định thời gian các pha phát triển của rệp
Ngày rệp xơ trắng bắt đầu đẻ rệp non đánh dấu thời gian vòng đời của chúng Sau khi trưởng thành, rệp đẻ cá thể đầu tiên và hàng ngày cần quan sát, đếm số lượng rệp non được sinh ra Sử dụng bút lông, chuyển rệp non sang các hộp nuôi khác và ghi lại số lượng rệp non từ từng trưởng thành mẹ trong bảng nuôi sinh học Điều này giúp xác định nhịp điệu sinh sản và sức sinh sản của rệp Cuối cùng, ghi lại ngày rệp chết sinh lý để xác định thời gian của một đời rệp.
+ Xác định sức sinh sản của rệp:
* Phương pháp tính toán các chỉ tiêu sinh học
Thời gian phát dục của các tuổi ấu trùng (tuổi 1 đến tuổi 4) được xác định bằng thời gian trung bình giữa các lần lột xác Vòng đời của rệp non kéo dài từ khi được sinh ra cho đến khi trưởng thành đẻ ra cá thể rệp non đầu tiên Thời gian sống của một đời rệp được tính từ khi rệp non ra đời cho đến khi trưởng thành chết sinh lý Thời gian trưởng thành trước khi đẻ là khoảng thời gian từ khi ấu trùng tuổi 4 lột xác thành trưởng thành cho đến khi bắt đầu đẻ Cuối cùng, thời gian sống của trưởng thành được tính từ lúc lột xác đến khi trưởng thành chết sinh lý.
Nghiên cứu ảnh hưởng của loài rệp xơ trắng (C lanigera) đến độ Brix trong cây mía được thực hiện thông qua việc đánh giá tác hại của chúng Phương pháp đo độ Brix sử dụng máy cầm tay giúp xác định mức độ ảnh hưởng của rệp xơ trắng đến chất lượng mía.
Phân cấp rệp hại theo quy chuẩn QCVN 01-38: 2010/BNNPTNT
Cấp 0: Không có rệp xơ trắng
Cấp 1: Bị nhiễm rệp xơ trắng rải rác, có từ một cá thể rệp xơ trắng tới một ổ rệp nhỏ trên lá
Cấp 2: Bị nhiễm nhẹ, xuất hiện một vài ổ rệp xơ trắng nhỏ trên lá
Cấp 3: Bị nhiễm trung bình, rệp xơ trắng có số lượng lớn, thành từng đám khó phân biệt từng ổ
Cấp 4: Bị nhiễm nặng, rệp xơ trắng có số lượng lớn phủ kín mặt lá, ảnh hưởng tới tất cả các lá, thân và những lá ngọn thường kín rệp xơ trắng
+ Phân c ấ p r ệ p gây h ạ i vào giai đ o ạ n mía v ươ n lóng , tiến hành treo thẻ trên cây với các cấp hại khác nhau, mỗi cấp hại treo 20 cây
- Các cây đối chứng hàng tuần lau sạch rệp trên lá và thân cây
Mỗi cấp hại chọn 10 cây ngẫu nhiên xác định các chỉ tiêu:
Đo độ Brix của mía tại ba vị trí trên thân cây: gốc, giữa và ngọn, sau đó tính giá trị trung bình Cần chọc kim lấy nước mía và quan sát ngay, tránh để lâu trong kim để ngăn hiện tượng bốc hơi nước, điều này có thể làm tăng độ Brix so với thực tế.
3.3.2.2 Ph ươ ng pháp đ i ề u tra di ễ n bi ế n m ậ t độ c ủ a r ệ p x ơ tr ắ ng (C lanigera) Để thực hiện việc điều tra, thu thập rệp xơ trắng hại mía trên đồng ruộng chúng tôi dựa vào Quy chuẩn QCVN 01-38: 2010/BNNPTNT về Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phương pháp điều tra phát hiện dịch hại cây trồng
-Điều tra mật độ con/lá định kỳ 7 ngày/lần trong suốt thời gian nghiên cứu
Mỗi vườn sẽ được điều tra 10 điểm ngẫu nhiên, với mỗi điểm đại diện cho một cây Mỗi cây sẽ được khảo sát dựa trên 3 loại lá: 3 lá non, 4 lá bánh tẻ và 3 lá già Từ đó, chúng tôi sẽ tính toán tỷ lệ lá bị hại và mật độ con trên mỗi lá.
Không tiến hành điều tra các khóm mía gần bờ, gần đường đi và các vị trí mất cây sẽ dẫn đến thiếu sót trong nghiên cứu Cần ghi chép đầy đủ diễn biến thay đổi của các yếu tố ngoại cảnh trong suốt quá trình nghiên cứu để đảm bảo tính chính xác và toàn diện của kết quả.
- Chỉ tiêu theo dõi: tính tỉ lệ lá bị rệp xơ trắng hại và mật độ con rệp xơ trắng/lá
+ Nghiên c ứ u m ậ t độ r ệ p x ơ tr ắ ng (C lanigera) h ạ i mía trên các gi ố ng mía, mía tr ồ ng thu ầ n và tr ồ ng xen :
- Chọn ruộng đại diện cho giống mía được trồng phổ biến tại địa điểm nghiên cứu đó là giống mía ROC 22 và giống MY55-14
Chọn ruộng đại diện cho mía trồng xen canh với đậu tương và trồng thuần (Giống mía ROC 22)
Phương pháp điều tra tương tự (mục 2.3.2.2)
+ Nghiên c ứ u ả nh h ưở ng c ủ a đị a hình ru ộ ng mía tr ồ ng đế n di ễ n bi ế n m ậ t độ r ệ p x ơ tr ắ ng (C lanigera) h ạ i mía (mía tr ồ ng chân đấ t th ấ p và chân đấ t cao)
Chọn giống mía ROC 22 phù hợp với địa hình chân đất thấp và chân đất cao Nghiên cứu mật độ rệp xơ trắng (C lanigera) trên hai ruộng mía từ khi cây đạt 3 lá thật cho đến thời điểm thu hoạch.
Phương pháp điều tra giống như phương pháp đã nêu tại (mục 2.3.2.2)
+ Ph ươ ng pháp xác đị nh ả nh h ưở ng c ủ a l ượ ng m ư a t ớ i s ự bi ế n độ ng m ậ t độ r ệ p x ơ tr ắ ng
Để xác định ảnh hưởng của lượng mưa đến mật độ rệp xơ trắng hại mía, cần dựa vào dự báo khí tượng để chọn ngày điều tra Mật độ rệp xơ trắng (con/lá) sẽ được khảo sát trước và sau một ngày mưa, đồng thời ghi nhận lượng mưa để phân tích mối liên hệ giữa lượng mưa và sự thay đổi mật độ rệp xơ trắng.
+ Nghiên c ứ u ả nh h ưở ng c ủ a v ệ sinh lô mía đế n di ễ n bi ế n r ệ p x ơ tr ắ ng
Thí nghiệm được thực hiện trên đồng ruộng với hai mô hình: một là lô mía đã bóc lá già khô và hai là lô mía không bóc lá già khô Thí nghiệm này áp dụng cho cả mía trồng mới và mía lưu gốc, với tần suất bóc lá mía được thực hiện định kỳ mỗi tháng một lần.
Giống mía được trồng trong nghiên cứu này là ROC 22 Mật độ loài rệp xơ trắng (C lanigera) gây hại cho cây mía đã được điều tra từ giai đoạn cây mía có 3 lá thật cho đến thời điểm thu hoạch.
Phương pháp điều tra giống như phương pháp đã nêu tại (mục 2.3.2.2)
năm 2015 tại Cò Nòi, Mai Sơn, Sơn La
Diễn biến mật độ rệp xơ trắng (C lanigera) trên cây mía trồng ở chân đất cao và thấp tại vụ xuân, năm 2015 tai Cò Nòi, Mai Sơn, Sơn La
Khí tượng địa hình chân đất có ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng của cây mía, từ đó tác động đến sự phát sinh của rệp xơ trắng Sự phân bố của rệp xơ trắng cũng khác nhau ở hai loại địa hình chân đất cao và thấp Kết quả chi tiết được trình bày trong bảng 4.8.
Bảng 4.8 Diễn biến mật độ rệp xơ trắng ( C lanigera) trên mía trồng ở chân đất cao và thấp năm 2015 tại Cò Nòi, Mai Sơn, Sơn La
Chân đất thấp Chân đất cao (đất đồi) Mật độ (con/lá) Mật độ (con/lá)
Rệp xơ trắng gây hại nghiêm trọng hơn trên cây mía trồng ở vùng đất thấp với độ ẩm cao, đạt mật độ cao nhất là 117,48 con/lá, trong khi ở vùng đất cao, mật độ cao nhất chỉ là 92,26 con/lá.
Ảnh hưởng của biện pháp bóc lá mía đến mật độ của rệp xơ trắng (C lanigera) trên giống ROC22 năm 2015 tại Cò Nòi, Mai Sơn, Sơn La
Bóc lá mía là biện pháp hiệu quả trong chăm sóc cây mía, giúp giảm số lượng rệp Khi cây mía có 1-2 lóng, chúng tôi tiến hành bóc chân lá để chuẩn bị vun gốc, đồng thời cắt bỏ mầm thừa và mầm yếu Chúng tôi cũng so sánh sự phát triển của rệp xơ trắng giữa ruộng mía được bóc lá và ruộng không bóc lá trong cùng khu vực điều tra Kết quả được trình bày trong bảng 4.9.
Bảng 4.9 Ảnh hưởng của biện pháp bóc lá mía đến diễn biến mật độ của rệp xơ trắng ( C lanigera ) trên giống ROC22 năm 2015 tại Cò Nòi,
Ngày điều tra Giai đoạn sinh trưởng
Bóc lá mía Không bóc lá mía Mật độ (con/lá) Mật độ (con/lá)
Hình 4.7 Ruộng không sử dụng biện pháp bóc lá mía
Hình 4.8 Ruộng sử dụng biện pháp bóc lá mía
Theo bảng 4.9, sự phân bố của rệp xơ trắng trên cùng một giống mía trong thời kỳ sinh trưởng khác nhau giữa hai chế độ bóc lá và không bóc lá Cụ thể, rệp xơ trắng chỉ xuất hiện vào cuối tháng 5, trong khi ruộng được bóc lá 25 ngày một lần có môi trường thông thoáng hơn Kết quả cho thấy, mật độ rệp trung bình ở ruộng không bóc lá là 117,48 con/lá, trong khi ở ruộng bóc lá, mật độ này thấp hơn, chỉ đạt 66,12 con/lá.
Ảnh hưởng của trồng mía xen đậu tương và trồng mía thuần đến diễn biến mật độ rệp xơ trắng (C lanigera) hại mía năm 2015 tại Cò Nòi, Mai Sơn, Sơn La
Xen canh là phương pháp hiệu quả nhằm tăng cường đa dạng sinh học, giúp nâng cao hoạt động của thiên địch ngay từ đầu vụ Nhờ đó, thiên địch có thể phát sinh và phát triển mạnh mẽ, trở thành lực lượng chủ chốt trong việc kiểm soát các loài dịch hại.
Bảng 4.10 Ảnh hưởng của trồng mía xen đậu tương và trồng mía thuần đến diễn biến mật độ rệp xơ trắng ( C lanigera) hại mía năm 2015 tại Cò Nòi,
Mía trồng xen đậu tương Mía trồng thuần Mật độ (con/lá) Mật độ (con/lá)
Theo bảng 4.10, lô mía trồng xen đậu tương có tỷ lệ rệp hại cao nhất là 63,61 con/lá, thấp hơn so với lô mía trồng thuần với tỷ lệ rệp hại cao nhất là 66,12 con/lá.
Ảnh hưởng của đốt lá mía hoặc cày vùi lá mía vụ trước đến mật độ rệp xơ trắng (C lanigera) hại mía năm 2015 tại Cò Nòi, Mai Sơn, Sơn La
xơ trắng ( C lanigera) hại mía năm 2015tại Cò Nòi, Mai Sơn, Sơn La
Sau mỗi vụ thu hoạch, việc xử lý ngọn và lá mía cần được thực hiện kịp thời để duy trì sự thông thoáng cho đồng ruộng, ngăn ngừa sự xuất hiện của dịch hại trong thời gian không có cây mía Điều này cũng giúp cho công tác chăm sóc mía cho vụ sau trở nên thuận lợi hơn.
Bảng 4.11 Ảnh hưởng của đốt lá mía hoặc cày vùi lá mía vụ trước đến rệp xơ trắng ( C lanigera) hại mía năm 2015 tại Cò Nòi, Mai Sơn, Sơn La
Mật độ rệp x ơ trắng (con/lá) Đốt lá mía Cày vùi lá mía Mật độ (con/lá) Mật độ (con/lá)
Chúng tôi đã tiến hành điều tra ảnh hưởng của việc đốt lá mía và cày vùi lá mía vụ trước trên giống ROC 22 tại Cò Nòi, Mai Sơn, Sơn La ngay từ khi mía còn non, với các số liệu TB 16,35 và 18,60.
Theo bảng 4.11, trong cùng một giống mía và thời kỳ sinh trưởng, ruộng mía được đốt và dọn sạch tàn dư của vụ trước có tỷ lệ lá mía bị rệp xơ trắng hại thấp hơn Cụ thể, mật độ trung bình rệp trên lá mía là 117,48 con/lá, trong khi ruộng cầy vùi lá mía vụ trước có mật độ trung bình cao hơn, đạt 126,39 con/lá.
Ảnh hưởng của sự gây hại của loài rệp xơ trắng (C lanigera) đến độ Brix
Hiện nay, rệp xơ trắng (C lanigera) đã được xác định là loài dịch hại chủ yếu ảnh hưởng đến cây mía tại Mai Sơn, Sơn La Để đánh giá tác hại của rệp xơ trắng, phương pháp đo độ Bx được áp dụng.
Trước khi thu hoạch, thời gian đo độ Bx được thực hiện 7 ngày, với việc chọn 10 cây tại mỗi điểm Độ Bx đo được phản ánh độ chín của mía và mức độ ảnh hưởng của rệp xơ trắng Việc điều tra độ Bx được tiến hành ở ba đoạn của cây mía: gốc, giữa và ngọn, sau đó tính toán để có được độ Bx bình quân.
Khi mía bị rệp xơ trắng tấn công nặng, năng suất và chất lượng mía giảm đáng kể, đặc biệt là độ brix Cụ thể, khi mía bị rệp hại ở cấp độ 4, độ brix giảm khoảng 2,36 lần so với mía không bị ảnh hưởng Ngoài thiệt hại về năng suất, trữ lượng đường trong cây mía cũng bị giảm mạnh, kèm theo sự suy giảm trong khả năng kết tinh đường, tăng tạp chất và keo Hơn nữa, ngọn mía mất khả năng nảy mầm và gốc mía không còn khả năng tái sinh.
Bảng 4.12 Mức độ hại của rệp xơ trắng ( C lanigera) ảnh hưởng đến độ
Brix trên giống mía ROC 22 tại Cò Nòi, Mai Sơn, Sơn La
Mức độ hại của rệp xơ trắng Độ Brix Đối chứng (không bị hại) 21,948 ± 0,68
Các biện pháp phòng trừ rệp xơ trắng (C lanigera) hại mía tại Cò Nòi,
4.3.1 Diến biến mật độ rệp xơ trắng ( C lanigera) và các loài thiên địch trên giống ROC22 tại Cò Nòi, Mai Sơn, Sơn La năm 2015 Để tìm hiểu biến động số lượng của thiên địch rệp xơ trắng chúng tôi tiến hành điều tra và thu hai loài thiên địch phổ biến trên ruộng mía tại Cò Nòi, Mai Sơn, Sơn La Thời gian thu thập mẫu thiên địch được thực hiện cùng với thu thập mẫu rệp xơ trắng hại trong các lần điều tra
Kết quả theo dõi mật độ rệp và các loài thiên địch trên giống ROC22 tại Cò Nòi-Mai Sơn-Sơn La được trình bày chi tiết trong bảng 4.13.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong giai đoạn cây con, mật độ rệp xơ trắng (C lanigera) chỉ đạt trung bình 1,3 con/lá Tuy nhiên, các loài thiên địch như bọ rùa và bọ đuôi kìm đã xuất hiện, với mật độ trung bình lần lượt là 0,13 con và 0,10 con.
Bảng 4.13 Diến biến mật độ rệp xơ trắng ( C lanigera ) và các loài thiên địch trên giống ROC22 tại Cò Nòi, Mai Sơn, Sơn La năm 2015
Ngày điều tra Giai đoạn sinh trưở ng
Mật độ rệp (con/lá)
Mật độ bọ rùa tổng số (con/cây)
Mật độ b ọ đuôi kìm (con/cây)
Trong giai đoạn cây làm lóng, mật độ rệp xơ trắng tăng lên, đạt cao nhất vào thời điểm cây chuẩn bị thu hoạch với 117,48 con/lá, trong khi mật độ trung bình là 22,80 con/lá Đồng thời, mật độ các loài thiên địch cũng gia tăng, với bọ rùa đạt 0,35 con/cây và bọ đuôi kìm là 0,50 con/cây Kết quả điều tra cho thấy, khi mật độ rệp tăng, mật độ thiên địch ngoài tự nhiên cũng tăng theo Tuy nhiên, việc lạm dụng thuốc trừ sâu hóa học đã làm giảm mật độ thiên địch, do chúng dễ bị ảnh hưởng bởi thuốc, trong khi rệp xơ trắng với lớp xơ bảo vệ đã hạn chế tác động của thuốc.
Hình 4.9 Bọ rùa và ấu trùng của bọ rùa ăn rệp xơ trắng ( C lanigera )
4.3.2 Phòng trừ rệp xơ trắng ( C lanigera) hại mía bằng thuốc hóa học và thuốc thảo mộc tại Cò Nòi, Mai Sơn, Sơn La năm 2015
4.3.2.1 Hi ệ u l ự c c ủ a m ộ t s ố lo ạ i thu ố cBVTV tr ừ r ệ p x ơ tr ắ ng (C lanigera) trên gi ố ng mía ROC 22 trong phòng thí nghi ệ m
Chúng tôi đã tiến hành thử nghiệm hiệu lực của bốn loại thuốc: Oshin 20Wp, Elsin 10EC, lá xoan và hạt củ đậu, nhằm điều trị các đối tượng chích hút như rầy, rệp và một số loại sâu khác Thuốc được phun theo nồng độ khuyến cáo của nhà sản xuất Kết quả nghiên cứu về hiệu lực trừ rệp xơ trắng trên giống mía ROC 22 trong phòng thí nghiệm được trình bày trong bảng 4.14 và hình 4.11.
Bảng 4.14 Hiệu lực trừ rệp xơ trắng ( C Lanigera) của một số loại thuốc trên giống mía ROC 22 trong phòng thí nghiệm
Tên thuốc Lượng sử dụng
Hiệu lực phòng trừ (%) sau phun
Elsin 10EC Oshin 20WP Lá Xoan Hạt củ đậu
Hình 4.11 Hiệu lực trừ rệp xơ trắng (C lanigera) của một số loại thuốc trên giống mía ROC 22 trong phòng thí nghiệm
Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau 12 giờ phun, thuốc Oshin 20WP đạt hiệu lực phòng trừ cao nhất với 84,44%, trong khi lá xoan chỉ đạt 22,22%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê ở độ tin cậy 95% Sau 24 giờ phun, hiệu lực của các loại thuốc đều tăng trên 30%, trong đó Oshin 20WP vẫn giữ vị trí dẫn đầu với 92,22%, tiếp theo là Elsin 10EC với 82,22%, trong khi lá xoan và củ đậu chỉ đạt hiệu lực thấp nhất là 34,44%.
Sau 48 giờ phun thuốc thì hiệu lực phòng trừ của các thuốc Oshin 20WP và Elsin 10EC đạt cao nhất (đạt 100%), các thuốc còn lại đều đạt trên 40%, trong đó thấp nhất là Lá xoan chỉ đạt 45.56%; sự sai khác này có ý nghĩa thống kê ở độ tin cậy 95% Như vậy, các thuốc hóa học có hiệu lực phòng trừ rất cao (đạt 100% sau 48 giờ sau phun), các loại thuốc thảo mộc thì hiệu lực thấp hơn (dưới 50%)
4.3.2.2 Hi ệ u l ự c c ủ a m ộ t s ố lo ạ i thu ố c BVTV đế n m ậ t độ r ệ p x ơ tr ắ ng (C lanigera) trên gi ố ng mía ROC 22 t ạ i Cò Nòi, Mai S ơ n, S ơ n La n ă m 2015
Ngoài việc thử nghiệm các loại thuốc trong phòng thí nghiệm, chúng tôi còn tiến hành thử nghiệm hiệu lực của thuốc trong điều kiện đồng ruộng để đánh giá hiệu quả của chúng trong thực tế sản xuất Kết quả thử nghiệm này được trình bày trong bảng 4.15 và hình 4.13.
Bảng 4.15 Hiệu lực trừ rệp xơ trắng (C lanigera) của một số loại thuốc trên giống mía ROC 22 tại Cò Nòi, Mai Sơn, Sơn La năm 2015
Tên thuốc Lượng sử dụng Hiệu lực phòng trừ (%) sau phun
Hạt củ đậu 15 (kg/ha) 17,90 32,54 44,53 55,71
Kết quả nghiên cứu từ bảng 4.15 và hình 4.12 cho thấy, trong điều kiện đồng ruộng, các loại thuốc thử nghiệm đều có hiệu quả cao trong việc phòng trừ rệp xơ trắng hại mía Sau 1 ngày phun, hiệu lực của các thuốc dao động từ 9,89% đến 50,21%, trong đó thuốc Elsin 10EC đạt hiệu quả cao nhất với 50,21%, còn lá xoan chỉ đạt 9,89% Sau 3 ngày phun, hiệu lực của các thuốc thí nghiệm tăng lên, nằm trong khoảng từ 27,76% đến 64,19%.
Sau 7 ngày phun thì hiệu lực của các thuốc phòng trừ rệp xơ trắng hại mía đạt cao nhất, dao động từ 53,19 - 94,66%, cao nhất là thuốc Elsin 10EC (đạt 94,66%), thấp nhất là sử dụng lá xoan (chỉ đạt 53,19 %)
Elsin 10EC Oshin 20WP Lá Xoan Hạt củ đậu
Hình 4.12 Hiệu lực trừ rệp xơ trắng của một số loại thuốc trên giống mía ROC 22 tạiCò Nòi, Mai Sơn, Sơn La năm 2015
Hiệu lực của thuốc hóa học trong việc phòng trừ rệp xơ trắng hại mía trên đồng ruộng rất cao Tuy nhiên, các loại thuốc thảo mộc cho hiệu quả phòng trừ cao hơn trong điều kiện phòng thí nghiệm, nhưng vẫn không đạt hiệu quả bằng thuốc hóa học khi áp dụng trên đồng ruộng.
Thảo luận
Thời gian phát dục của rệp non loại không cánh dao động từ 14 đến 18 ngày, với vòng đời trung bình là 19,10 ± 1,85 ngày Một đời của loại hình này kéo dài từ 20 đến 29 ngày, trung bình là 25,58 ± 2,31 ngày Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn Hoan (2001) và khác với nghiên cứu của Kulkami et al (2006), cho thấy vòng đời của rệp xơ trắng kéo dài từ 1 đến 1,5 tháng.
Rệp xơ trắng có khả năng sinh sản cao, với mỗi rệp mẹ có thể sinh ra từ 9 đến 36 con, trung bình khoảng 26,04 ± 5,73 con Thời gian hoàn thành vòng đời của rệp ngắn, và khi gặp điều kiện khí hậu thuận lợi, rệp xơ trắng dễ dàng phát triển thành dịch.
Lượng mưa 62mm vào ngày 30/8/2015 đã làm giảm đáng kể mật độ rệp xơ trắng trên lá mía, với rệp non giảm 34,25% và rệp trưởng thành giảm 59,92% Nghiên cứu của Nguyễn Văn Hoan (2001) cho thấy với lượng mưa 71,8mm, mật độ rệp non chỉ còn 32,4% và rệp trưởng thành còn 37,5% Điều này cho thấy mưa lớn có tác động tích cực trong việc hạn chế sự phát triển của rệp xơ trắng Tuy nhiên, nếu thời tiết thuận lợi cho sự sinh trưởng của rệp, chúng có thể bùng phát thành dịch nếu không có biện pháp phòng trừ Rệp chủ yếu tập trung trên lá bánh tẻ, với mật độ trung bình 61,38%, trong khi chỉ có 22,57% trên lá già và 16,05% trên lá non Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn Ninh (2009), cho thấy rệp xơ trắng phát triển mạnh trên lá bánh tẻ do không ưa ánh sáng trực tiếp và thường xuất hiện từ lá thứ 3 đến thứ 5, trong khi không có rệp nào trên lá nõn Trung bình, mỗi cây mía có 3 lá có rệp xơ trắng, chủ yếu tập trung ở mặt dưới của các lá 3, 4 và 5.
Rệp xơ trắng trên giống mía ROC22 gây hại liên tục từ giai đoạn cây con đến giai đoạn làm lóng, với mật độ gây hại thay đổi theo từng giai đoạn sinh trưởng Ở giai đoạn cây con, mật độ rệp đạt 1,275 con/lá, trong khi ở giai đoạn làm lóng, mật độ này tăng lên cao nhất là 117,48 con/lá Theo nghiên cứu của Trần Văn Sỏi (1980), rệp xơ trắng được xác định là đối tượng gây hại lớn nhất đối với cây mía ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam, thường xuất hiện nhiều vào mùa hè và gây hại mạnh vào cuối thu, đầu đông, kéo dài đến khi thu hoạch Các lô mía bị rệp xơ trắng tấn công nặng có thể giảm năng suất từ 20-30%, và hàm lượng đường trong mía nguyên liệu giảm xuống mức không thể chế biến thành đường, chỉ còn 6-7 0 CCS, khiến cho tạp chất và keo khó lắng đọng, khó kết tinh thành đường, đồng thời làm mất khả năng nẩy mầm của ngọn mía và khả năng tái sinh của gốc mía.
Kết luận sơ bộ cho thấy, giống mía ROC22 trong giai đoạn cây con chịu tác động của rệp xơ trắng ở mức độ thấp, sau đó gia tăng đến giai đoạn làm lóng Điều này cung cấp cơ sở để xây dựng chương trình phòng trừ rệp xơ trắng hiệu quả và đúng thời điểm, đồng thời hỗ trợ cho công tác dự tính, dự báo.
Hai giống mía ROC22 và MY55-14 cho thấy mức độ nhiễm rệp xơ trắng khác nhau, với ROC22 có mức nhiễm cao nhất là 117,48 con/lá trong giai đoạn làm lóng Trong khi đó, giống MY55-14 ghi nhận mức nhiễm cao nhất lên tới 123,32 con/lá, cho thấy sự khác biệt có thể liên quan đến đặc điểm của giống MY55-14.
Rệp xơ trắng tấn công nặng nề hơn trên giống mía ROC22 với lá to và mềm, dễ nhiễm bệnh hơn Tại những vùng đất thấp, ẩm độ cao, mật độ rệp có thể lên tới 117,48 con/lá, trong khi ở đất cao là 92,26 con/lá Điều kiện môi trường như độ ẩm đất và không khí thuận lợi cho sự phát triển của cây mía làm tăng nồng độ dịch bào trong lá, tạo điều kiện cho rệp xơ trắng sinh sôi nhanh chóng Do đó, cần chú trọng phòng trừ rệp xơ trắng sớm ở những vùng đất thấp để ngăn chặn sự bùng phát thành dịch.
Rệp xơ trắng chủ yếu sinh sống trên lá mía, nơi có độ rậm rạp và ít ánh sáng Việc bóc lá mía tác động lớn đến sự sống của rệp; cụ thể, ở cùng một giống mía trong cùng thời kỳ sinh trưởng, sự phân bố của rệp xơ trắng khác biệt rõ rệt giữa hai chế độ bóc lá và không bóc lá Tại ruộng không bóc lá, mật độ rệp trung bình đạt 117,48 con/lá, trong khi ở ruộng bóc lá, mật độ rệp giảm xuống còn 66,12 con/lá Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Shankar et al.
Độ thông thoáng trong lô mía có ảnh hưởng lớn đến sự phát sinh và phát triển của rệp xơ trắng Việc bóc lá già khô trên cùng một giống mía không chỉ hạn chế sự phá hại của rệp xơ trắng mà còn tạo điều kiện thông thoáng, dễ dàng trong quá trình chăm sóc và thu hoạch Điều này cho thấy rằng biện pháp bóc lá mía có tác dụng rõ rệt trong việc kiểm soát sự phát sinh của rệp xơ trắng trong sản xuất mía.
Xen canh là phương pháp tối ưu hóa không gian, thời gian và năng lượng mặt trời trên diện tích canh tác Việc trồng xen mía với đậu tương giúp nông dân kiểm soát cỏ dại, tạo lớp thực vật che phủ cho đất, giảm lượng nước bốc hơi Hệ rễ của cây họ đậu còn có nốt sần vi khuẩn cố định đạm, cung cấp lượng đạm hữu ích cho đất Kết quả cho thấy, trong lô mía trồng xen đậu tương, tỷ lệ rệp hại cao nhất là 63,61 con/lá, thấp hơn so với lô mía trồng thuần với tỷ lệ 66,12 con/lá, phù hợp với nghiên cứu của Maleck et al.
Chúng tôi khuyến cáo các vùng trồng mía nên thực hiện việc trồng xen mía với các cây họ đậu như đậu và lạc, nhằm tăng thu nhập trước khi thu hoạch mía và bảo vệ đa dạng sinh học Đốt lá mía sau thu hoạch là phương pháp phổ biến tại Mai Sơn, Sơn La, vì dễ thực hiện, giải phóng mặt bằng nhanh và tiêu diệt mầm bệnh Tuy nhiên, không phải hộ gia đình nào cũng áp dụng biện pháp này; nhiều gia đình chọn cầy luôn để chuẩn bị cho vụ mía mới, dẫn đến nguy cơ sâu bệnh cao hơn cho vụ sau Nghiên cứu cho thấy, ruộng mía được đốt và dọn sạch tàn dư có tỷ lệ lá bị rệp xơ trắng hại thấp hơn (117,48 con/lá) so với ruộng cầy vùi lá (126,39 con/lá) Điều này cho thấy việc đốt lá mía có tác dụng tích cực trong việc hạn chế sâu hại, đặc biệt là rệp xơ trắng, nhưng cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến lượng thiên địch trong ruộng.
Rệp xơ trắng (C lanigera) gây hại cho cây mía không chỉ qua việc chích hút dịch, mà còn làm giảm khả năng quang hợp do tiết sương mật, tạo điều kiện cho nấm muội đen phát triển Sự phát triển của nấm này làm giảm diện tích quang hợp và dẫn đến giảm lượng đường trong thân mía Khi mía bị rệp xơ trắng tấn công nặng, hàm lượng đường có thể giảm đến mức không còn khả năng chế biến thành đường, với mức độ thiệt hại cấp 4 chỉ còn 9,292 0 ± 0,60 0 BX Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Trần Văn Sỏi (2003).
Rệp xơ trắng (C lanigera) có khả năng bùng phát nhanh chóng khi gặp điều kiện thuận lợi về môi trường và thức ăn, gây ra dịch hại nghiêm trọng Để kiểm soát loài này, người trồng mía hiện nay chủ yếu sử dụng biện pháp hóa học, kết hợp với các phương pháp canh tác và sinh học Mặc dù thuốc hóa học mang lại hiệu quả cao trong việc phòng trừ rệp xơ trắng, nhưng chúng cũng gây hại cho môi trường sinh thái và tiêu diệt các sinh vật có ích, đồng thời có thể gây ra một số bệnh nguy hiểm cho con người Do đó, chúng tôi đã tiến hành chọn lựa và đánh giá hiệu lực của hai loại thuốc hóa học và hai loại thuốc có nguồn gốc từ thảo mộc để kiểm soát rệp xơ trắng hại mía.
Trong phòng thí nghiệm, các loại thuốc hóa học có hiệu lực phòng trừ rất cao, đạt 100% sau 48 giờ phun, trong khi thuốc thảo mộc có hiệu lực thấp hơn, dưới 50% Ngoài đồng ruộng, sau 7 ngày phun, hiệu lực của thuốc phòng trừ rệp xơ trắng hại mía dao động từ 53,19% đến 94,66%, trong đó thuốc Elsin 10EC đạt hiệu quả cao nhất với 94,66%, còn lá xoan chỉ đạt 53,19% Mặc dù hai loại thuốc thảo mộc (lá xoan và hạt củ đậu) không đạt hiệu quả cao như thuốc hóa học, chúng tôi khuyến cáo nông dân nên sử dụng vì tính an toàn với con người và các loài thiên địch, đồng thời không gây ô nhiễm môi trường.