Cơ sở lý luận và thực tiễn
Cơ sở lý luận
2.1.1 Các khái niệm cơ bản
Nông thôn là khu vực sống của người dân, nơi diễn ra các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường, với sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn Hiện chưa có định nghĩa chuẩn xác về nông thôn trên thế giới, dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau Một số ý kiến cho rằng cần dựa vào trình độ phát triển cơ sở hạ tầng, trong khi những ý kiến khác lại nhấn mạnh vào khả năng tiếp cận thị trường và phát triển hàng hóa, hoặc sử dụng chỉ tiêu mật độ dân cư và số lượng dân cư trong vùng để xác định.
Nông thôn là khu vực sinh sống của cộng đồng dân cư, chủ yếu là nông dân, tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa – xã hội và môi trường trong một thể chế chính trị cụ thể Khái niệm về nông thôn mang tính tương đối và có thể thay đổi theo thời gian, phản ánh sự phát triển và ảnh hưởng của các tổ chức khác trong xã hội (Mai Thanh Cúc và cs., 2005).
2.1.1.2 Khái niệm Phát triển nông thôn
Phát triển nông thôn (PTNT) là một khái niệm rộng, được hiểu theo nhiều cách khác nhau và đã có sự thay đổi nhận thức qua các thời kỳ tại Việt Nam Tuy nhiên, từ góc độ quản lý, vẫn thiếu một hệ thống lý luận tổng hợp về thuật ngữ này Theo World Bank (1957), PTNT được định nghĩa là chiến lược cải thiện điều kiện sống kinh tế và xã hội cho nhóm người nghèo ở nông thôn, giúp họ hưởng lợi từ sự phát triển.
Trong bối cảnh Việt Nam, "phát triển nông thôn" được hiểu là quá trình cải thiện bền vững về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn Quá trình này chủ yếu do người dân nông thôn thực hiện, với sự hỗ trợ tích cực từ Nhà nước và các tổ chức khác (Mai Thanh Cúc và cs., 2005).
Xây dựng nông thôn mới là một cuộc cách mạng lớn, nhằm khuyến khích cộng đồng dân cư nông thôn hợp tác để cải thiện chất lượng cuộc sống tại thôn, xã và gia đình Mục tiêu bao gồm phát triển toàn diện các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, đồng thời nâng cao nếp sống văn hóa, bảo vệ môi trường và đảm bảo an ninh nông thôn Qua đó, thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của người dân sẽ được cải thiện đáng kể.
Theo Nghị Quyết số 26-NQ/TW, xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ cách mạng của toàn Đảng và toàn dân, mang tính chất kinh tế - xã hội và kinh tế - chính trị tổng hợp Chương trình mục tiêu quốc gia này cụ thể hóa Nghị Quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 08 năm 2008, nhằm phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn Đây là chương trình toàn diện, không chỉ xác định mục tiêu mà còn đóng vai trò là động lực cho sự phát triển bền vững và lâu dài tại khu vực nông thôn.
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” (Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 2008) b Nội dung xây dựng nông thôn mới
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM) được triển khai dựa trên 19 tiêu chí do Bộ tiêu chí quốc gia ban hành theo Quyết định số 419/QĐ – TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ, với nguyên tắc thực hiện rõ ràng và cụ thể.
Để xây dựng Nông thôn mới (NTM) hiệu quả, cần phát huy vai trò chủ thể của người dân và cộng đồng địa phương, trong khi Nhà nước đóng vai trò định hướng và hỗ trợ Các hoạt động cụ thể cần được quyết định và tổ chức thực hiện bởi người dân thông qua các cuộc họp dân chủ tại thôn, xã Việc xây dựng NTM cần kế thừa và lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia và các dự án hiện có, đồng thời khuyến khích đầu tư từ các thành phần kinh tế và huy động đóng góp từ cộng đồng Chương trình NTM phải gắn liền với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đảm bảo quy hoạch và cơ chế thực hiện Cần công khai, minh bạch trong quản lý và sử dụng nguồn lực, tăng cường phân cấp cho cấp xã trong việc quản lý và thực hiện các dự án Cuối cùng, xây dựng NTM là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội, với sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền, cùng sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Xây dựng nông thôn mới bao gồm 11 nội dung cơ bản, nhằm đạt được 19 tiêu chí theo bộ tiêu chí quốc gia Các nội dung này tập trung vào việc cải thiện chất lượng cuộc sống, phát triển hạ tầng, bảo vệ môi trường và nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn.
* Quy hoạch xây dựng nông thôn mới
Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu là yếu tố quan trọng cho phát triển sản xuất, đồng thời cần phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội và môi trường Việc hình thành các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có phải tuân thủ theo Thông tư số 09/2010/TT-BXD và Sổ tay hướng dẫn lập quy hoạch nông thôn mới của Bộ Xây dựng Mục tiêu là đạt tiêu chí số 01 trong Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
* Phát triển hạ tầng kinh tế xã hội
Để cải thiện giao thông nông thôn, cần hoàn thiện hệ thống đường liên xã và thôn bằng cách nhựa hóa hoặc bê tông hóa theo tiêu chuẩn đường ô tô cấp VI (TCVN 4054-2005) Đồng thời, cần cứng hóa các đường trục thôn, xóm, xây dựng hệ thống đường ngõ, xóm sạch sẽ, không lầy lội vào mùa mưa, và đảm bảo các đường trục chính nội đồng đạt tiêu chuẩn kỹ thuật TCVN 4454/1987 của Bộ Xây dựng (Thủ tướng Chính phủ, 2009).
Hoàn thiện hệ thống công trình điện nhằm đảm bảo cung cấp điện cho sinh hoạt và sản xuất trên địa bàn, đáp ứng Quy trình kỹ thuật điện nông thôn năm.
Để đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa thể thao trên địa bàn, cần hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ, bao gồm việc xây dựng và hoàn thiện trung tâm văn hóa, thể thao xã theo Quy chuẩn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đồng thời, cần chú trọng xây dựng và hoàn thiện nhà văn hóa cũng như khu thể thao tại các thôn.
Để phát triển hệ thống bưu chính viễn thông, cần xây dựng các điểm phục vụ như đại lý bưu điện, ki ốt, bưu cục hoặc điểm bưu điện - văn hóa với diện tích tối thiểu 150m² Ngoài ra, việc thiết lập điểm cung cấp dịch vụ truy nhập Internet tại các thôn cũng là một yêu cầu quan trọng nhằm nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ cho người dân (Thủ tướng Chính phủ, 2009).
Trụ sở xã cần được xây dựng tại vị trí trung tâm, thuận lợi cho hoạt động nội bộ và giao tiếp với bên ngoài, với diện tích khuôn viên tối thiểu 1.000m² Đối với khu vực đồng bằng và trung du, diện tích sử dụng tối thiểu là 500m², trong khi khu vực miền núi và hải đảo yêu cầu tối thiểu 400m² Mật độ xây dựng không vượt quá 50%, và mật độ cây xanh phải đạt trên 30% (Thủ tướng Chính phủ, 2009).
Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về huy động nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới
Công tác huy động nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới (NTM) là yếu tố quyết định đến thành công của chương trình này Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm huy động nguồn lực cho NTM, thể hiện rõ trong các văn kiện đại hội Đảng Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa X), mục tiêu, nhiệm vụ và phương thức xây dựng NTM đã được nêu rõ, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát huy sức mạnh toàn dân và huy động mọi nguồn lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp cho quá trình xây dựng NTM.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh việc triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) cần phù hợp với đặc điểm từng vùng, thực hiện theo các bước đi cụ thể và vững chắc Đồng thời, cần giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của nông thôn Việt Nam Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn và tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư, đặc biệt từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhằm tăng cường cơ hội việc làm Ngoài ra, chương trình đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm cũng cần được triển khai hiệu quả.
Để cụ thể hóa các chủ trương của Đảng và Chính phủ về xây dựng nông thôn mới (NTM), nhiều chiến lược, kế hoạch và chính sách đã được triển khai Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP khẳng định quan điểm phát triển toàn diện nông nghiệp và nông thôn, nhấn mạnh mục tiêu kết hợp giữa hỗ trợ Nhà nước và phát huy nội lực cộng đồng dân cư nông thôn Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và tổ chức đời sống văn hóa cơ sở là những nhiệm vụ quan trọng trong nghị quyết này Ngày 16/04/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 491/QĐ-TTg ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới, đánh dấu bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng NTM trong thời kỳ công nghiệp hóa.
Hội nhập kinh tế quốc tế và hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình phức tạp đòi hỏi sự đồng bộ trong nhiều lĩnh vực Ngày 4/6/2010, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 800/QĐ – TTg về chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020 Cùng với đó, các thông tư như Thông tư 54/2009/TT-BNNPTNT và Thông tư số 09/2010/TT-BXD đã được ban hành nhằm hướng dẫn thực hiện tiêu chí quốc gia về nông thôn mới, lập quy hoạch và quản lý quy hoạch xã nông thôn mới Những văn bản này đang được triển khai tích cực để thúc đẩy sự phát triển nông thôn.
2.2.2 Kinh nghiệm của một số nước về hoạt động huy động nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới
2.2.2.1 Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn Quốc, một quốc gia Đông Á với diện tích 100.140 km2 và 70% là vùng núi, có dân số 50,062 triệu người (2009) với mật độ 488 người/km2 Từ một nước nghèo sau chiến tranh, Hàn Quốc đã vươn lên trở thành một "con rồng" Châu Á, với thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 20.000 USD vào năm 2010 Đất nước này không chỉ nổi bật với sự phát triển kinh tế mà còn có những thành tựu ấn tượng trong phát triển nông thôn Trong vòng 26 năm, Hàn Quốc đã thành công trong việc xây dựng nông thôn mới (NTM), một thành công gắn liền với phong trào Seamaul.
Vào những năm 60, nông thôn Hàn Quốc đối mặt với nhiều khó khăn, với 74% dân số sống trong nghèo đói và chỉ 20% có điện Thiên tai liên tiếp khiến người dân phải tự khắc phục hậu quả Tổng thống Park Chung Hee nhận ra rằng phát triển kinh tế nông thôn cần sự hỗ trợ từ chính phủ nhưng cũng phải dựa vào sức mạnh nội lực của cộng đồng Ông khởi xướng phong trào Saemaul, nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác và tự lực Chính phủ áp dụng phương châm “Đi từng bước, đừng quá nhiều, quá nhanh” và không cưỡng ép người dân, đồng thời các dự án phải nâng cao lợi ích chung Nông dân cần chủ động thay đổi vận mệnh của mình để phát triển bền vững.
Vào năm 1971, có 33 nghìn làng với mỗi làng sử dụng 300 bao xi măng, trong đó đất đai và lao động do người dân địa phương đóng góp Đến năm 1972, chính phủ điều chỉnh chiến lược đầu tư, chọn ra một nửa số làng hoạt động tốt để tiếp tục hỗ trợ Các làng được phân loại thành ba nhóm: tích cực, trung bình và cơ bản, và nhận thưởng 2.000 USD khi nâng hạng nhờ đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới (NTM) Tuy nhiên, trình độ văn hóa thấp của người dân gây khó khăn trong việc phổ biến chính sách Để khắc phục, chính phủ tập trung phát triển đội ngũ cán bộ làng và xử lý tham nhũng quyết liệt Tổng thống Park Chung Hee cam kết chống tham nhũng và đã thực hiện nhiều biện pháp cải cách Cùng với việc xây dựng cơ sở hạ tầng, nông thôn Hàn Quốc đã thay đổi nhờ ngói hóa và bê tông hóa nhà ở Chính phủ cũng chú trọng tăng thu nhập cho nông dân thông qua hỗ trợ sản xuất và đào tạo nghề Cuộc cách mạng xanh và trắng trong nông nghiệp đã mang lại kỹ thuật và giống mới, cải thiện năng suất Chính phủ áp dụng chính sách miễn thuế cho nông sản, giảm lãi suất vay vốn cho doanh nghiệp nông thôn, giúp nâng cao sức cạnh tranh và thu nhập của người dân, đồng thời duy trì khoảng cách thu nhập giữa nông dân và thị dân ở mức thấp.
Năm 2010, thu nhập của nông dân đạt khoảng 85% thu nhập của thị dân Sau gần 30 năm từ đầu thập kỷ 70 đến cuối thập kỷ 90, phong trào Seamaul đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao đời sống nông dân thông qua hoạch định và đầu tư hợp lý, cùng với việc khơi dậy tinh thần sáng tạo và nỗ lực của họ trong các dự án phát triển nông thôn Nhờ vào sự thay đổi cơ sở hạ tầng và tinh thần hiện tại, thu nhập của nông dân không ngừng tăng lên, gần đạt mức thu nhập của thị dân, giúp họ tự cải thiện cuộc sống và biến đổi toàn diện nông thôn Hàn Quốc.
2.2.2.2 Kinh nghiệm của Nhật Bản
Sau Thế chiến II, kinh tế Nhật Bản bị tàn phá nặng nề, cả ngành công nghiệp lẫn nông nghiệp đều gặp khó khăn, với nguồn nguyên liệu và lương thực trong nước thiếu thốn Trước khi trở thành một trong những cường quốc công nghiệp hàng đầu, Nhật Bản chủ yếu dựa vào nông nghiệp, đặc biệt là trồng lúa nước và đánh bắt cá Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ Nhật Bản đã triển khai nhiều chương trình cải cách nông nghiệp, bao gồm phát triển khoa học - kỹ thuật, cải cách đất đai, và xây dựng hợp tác xã dịch vụ Trong nông thôn, một trong những chính sách nổi bật là phong trào “mỗi làng một sản phẩm” (OVOP) được thực hiện tại tỉnh Oita, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.
Phong trào OVOP (One Village One Product) được xây dựng dựa trên ba nguyên tắc chính: địa phương hóa và hướng tới toàn cầu; tự chủ và sáng tạo; phát triển nguồn nhân lực Thành công của phong trào này đã thu hút sự quan tâm không chỉ từ nhiều địa phương tại Nhật Bản mà còn từ nhiều khu vực và quốc gia khác trên thế giới, bao gồm cả Việt Nam (Tuấn Anh, 2012).
Chính phủ Nhật Bản đã đạt được bước tiến quan trọng bằng cách nhận diện và khai thác những nguồn lực chưa được sử dụng tại địa phương Việc này không chỉ giúp tối đa hóa nguồn lực mà còn đảm bảo sử dụng chúng một cách hiệu quả trên thị trường.
Nguyên tắc phát triển nông thôn cần dựa vào sự tự lực, sáng tạo và phát triển nguồn nhân lực Điều này khuyến khích người dân tự lập, mỗi làng nghề cần xác định một sản phẩm chủ lực có khả năng cạnh tranh cao và thị trường rộng lớn để nhận được hỗ trợ về chính sách và vốn, từ đó mang lại lợi ích gia tăng cho những người tham gia.
Chính quyền quận Oita đã hỗ trợ kỹ thuật và xúc tiến bán hàng cho người dân, khuyến khích họ phát huy lợi thế vùng với khẩu hiệu “hãy trồng mận và hạt dẻ rồi đi Hawaii” Mặc dù ban đầu không được khuyến khích, nhưng mận và hạt dẻ đã chứng tỏ tiềm năng mang lại thu nhập cao Thành công của thị trấn Oyama được ghi nhận qua chuyến du lịch Hawaii của 16 nông dân tự bỏ tiền túi Đời sống người dân nơi đây đã có sự thay đổi rõ rệt, với doanh thu 1 tỷ yên từ mận và hạt dẻ chưa qua xử lý và khoảng 1,2 tỷ yên từ các sản phẩm chế biến, tạo ra một nguồn thu nhập cao cho thị trấn (Tuấn Anh, 2012).
Chính phủ Nhật Bản triển khai các chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, trong đó sản phẩm sau khi kiểm tra sẽ được bày bán tại khu mua sắm Tokiwa, một chuỗi siêu thị lớn Tại đây, sản phẩm từ phong trào OVOP của Hợp tác xã nông nghiệp Oyama được trưng bày tại khu vực "Konohana Garten" Chất lượng sản phẩm được đặt lên hàng đầu, không chỉ nhờ vào công nghệ chế biến và bảo quản được kiểm định bởi các cơ quan chức năng, mà còn thể hiện qua thiết kế bao bì bắt mắt và tiện lợi cho người tiêu dùng.
2.2.2.3 Kinh nghiệm của Đài Loan
Cơ quan hợp tác Tái thiết nông thôn đóng vai trò quan trọng trong việc lập kế hoạch phát triển và điều hành đầu tư cho nông thôn Hiệp hội nông dân có trách nhiệm chuyển tải thông tin về nhu cầu phát triển nông thôn lên Trung Ương, đồng thời hướng dẫn nhà nước cung cấp vật tư nông nghiệp, tín dụng và các phương tiện tiếp thị đến đúng địa điểm và thời điểm cần thiết.
Một vấn đề cải thiện kinh tế nông nghiệp đã được chính phủ thực hiện là
Một số nghiên cứu liên quan
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM) đóng vai trò thiết yếu trong phát triển đất nước, nhận được sự quan tâm lớn từ Đảng, Nhà nước và toàn dân Kể từ khi khởi động, chương trình đã thúc đẩy nhiều nghiên cứu và công trình liên quan đến xây dựng NTM.
1 Thủ tướng Chính phủ (2010) “Quyết định về việc phê duyệt chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 (Số 800/QĐ-TTg, ngày 04/6/2010)” Đây là một quyết định mang tính chiến lược Nó được phổ biến rông khắp trong cả nước Quyết định này cụ thể hóa các mục tiêu cần pải thực hiện trong hoạt động xây dựng NTM, thông qua quyết định này đề cập đến tầm quan trọng của việc thực hiện chương trình xây dựng NTM là vô cùng quan trọng trong cả nước Tất cả các tỉnh các huyện các xã trong cả nước cần phải thực hiện quyết định này để nâng cao hiệu quả kinh tế của đất nước nói chung, của địa phương nói riêng và xóa đói giam nghèo phát triển theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Vân Anh về "Giải pháp huy động vốn để thực hiện đề án nông thôn mới tại xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội" đã phân tích chi tiết nhu cầu vốn cho từng hạng mục xây dựng NTM Tác giả đã chỉ ra các thuận lợi và khó khăn trong việc huy động nguồn vốn, đồng thời đưa ra nhóm giải pháp huy động vốn từ ngân sách thành phố, huyện, xã, vốn lồng ghép từ các chương trình mục tiêu, từ cộng đồng, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hợp tác xã và tư nhân Mục tiêu là đảm bảo đủ vốn để xã Dương Xá hoàn thành xây dựng NTM theo kế hoạch của Chính phủ vào năm 2015 Mặc dù nghiên cứu đã nêu rõ các giải pháp huy động vốn, nhưng còn thiếu đề cập đến một số nguồn lực quan trọng khác như lao động và đất đai, điều này có thể dẫn đến cái nhìn chưa đầy đủ về việc huy động và sử dụng các nguồn lực cho xây dựng NTM.
3 Luận văn thạc sĩ của Vũ Đức Lập (2008) “ Vai trò của người dân trong việc tham gia xây dựng mô hình nông thôn mới tại một số điểm vùng đồng bằng Sông Hồng” Với nội dung này làm sáng tỏ vai trò của người dân trong xây dựng NTM, tìm ra khó khăn, hạn chế từ đó đưa ra giải pháp để nâng cao vai trò của người dân trong xây dựng NTM
4 Luận văn thạc sĩ của Tạ Thị Thủy (2013)“ Huy động và sử dụng nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới tại huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang” luận văn cho thấy, và đề cập chi tiết về thực trạng huy động và sử dụng nguồn lực cho xây dựng NTM tại huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang thời gian qua bao gồm các nội dung: Huy động nguồn lực từ ngân sách nhà nước, nguồn lực từ sức dân, từ các tổ chức kinh tế trong xã hội, nguồn lực từ các chương trình phối hợp lồng ghép, việc sử dụng nguồn lực, đánh giá kết quả huy động và sử dụng nguồn lực cho xây dựng NTM, đồng thời đưa ra một số giải pháp trên cơ sở thực tế và có thể thực hiện ngay tại địa bàn về huy động và sử dụng nguồn lực cho xây dựng NTM tại huyện Yên Dũng Tỉnh Bắc Gang
5 Luận văn thạc sĩ kinh tế của Phan Đình Hà (2011) “Giải pháp đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An” luận văn đề cập chi tiết đến thực trạng xây dựng nông thôn mới của huyện và việc hoàn thành 19 tiêu chí về xây dựng nông thôn mới của MTQG Bên cạnh đó nêu nên những thuận lợi và khó khăn trong việc xây dựng NTM huyện Đưa ra các giải pháp đẩy mạnh xây dựng NTM ở xã gồm các giải pháp vi mô, vĩ mô.