TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 7
Quản lý thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu từ nhiều nhà khoa học cả trong và ngoài nước Dưới đây là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu mà NCS đã sưu tầm và tổng hợp.
1 1 Công trình nghiên cứu nước ngoài
Dulleck, U , Fooken, J , Newton, C , Ristl, A , Schaffner, M and Torgler,
B (2016) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tinh thần trách nhiệm của công dân và tuân thủ thuế trong đề tài "Tuân thủ thuế và giá trị tinh thần: nhận diện các biểu hiện về tâm lý" Nghiên cứu nhấn mạnh vai trò quan trọng của giá trị đạo đức trong việc tuân thủ các quy định về thuế thu nhập cá nhân (TNCN).
Mỹ cho rằng yếu tố quyết định việc tuân thủ các quy định phụ thuộc vào giá trị đạo đức của từng cá nhân trong xã hội.
Nghiên cứu của Jimenez và Iyer (2016) về "Tuân thủ thuế trong xã hội" chỉ ra rằng các yếu tố xã hội như chuẩn mực xã hội, niềm tin vào chính phủ và nhận thức công bằng có ảnh hưởng lớn đến việc tuân thủ thuế ở Mỹ Các chuẩn mực xã hội tác động gián tiếp đến ý định tuân thủ thông qua chuẩn mực cá nhân, trong khi niềm tin vào chính phủ ảnh hưởng đáng kể đến sự công bằng của hệ thống thuế và quyết định tuân thủ của người nộp thuế Hơn nữa, cảm nhận về sự công bằng có tác động trực tiếp đến hành vi tuân thủ thuế Kết luận của tác giả nhấn mạnh rằng các yếu tố xã hội, sự tin tưởng vào chính phủ và cảm nhận công bằng là những yếu tố quan trọng trong việc hình thành ý định tuân thủ thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân ở Mỹ.
Trong nghiên cứu của Castro và Scartascini (2015) về "Tuân thủ thuế và một số kinh nghiệm thực địa", tác giả phân tích tình hình tuân thủ thuế của các doanh nghiệp nhỏ tại Úc Nghiên cứu chỉ ra rằng các doanh nghiệp này có tỷ lệ không tuân thủ thuế cao hơn so với các đối tượng nộp thuế khác như người lao động Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do các chủ doanh nghiệp nhỏ thiếu thông tin về các quy định thuế hiện hành, dẫn đến việc thất thu thuế nghiêm trọng Tác giả khẳng định rằng việc không tuân thủ quy định thuế của các doanh nghiệp nhỏ chủ yếu xuất phát từ việc thiếu hiểu biết về Luật thuế.
Nghiên cứu của Kamleitner, B., Korunka, C., và Kirchler, E (2012) về "Tuân thủ thuế của chủ doanh nghiệp nhỏ" chỉ ra rằng, tại Úc, khả năng không tuân thủ thuế của những người làm công ăn lương và chủ doanh nghiệp nhỏ là rất thấp Nguyên nhân chính là do các chủ doanh nghiệp nhỏ thiếu thông tin về các chính sách thuế và khả năng thích ứng kém với các quy định thuế, dẫn đến việc doanh nghiệp của họ gặp khó khăn trong kinh doanh Từ đó, tác giả kết luận rằng, các doanh nghiệp nhỏ ở Úc có xu hướng không tuân thủ quy định thuế do thiếu thông tin về các chính sách thuế hiện hành.
Wahl, I , Kastlunger, B and Kirchler, E (2010), với đề tài ―Trust in authorities and power to enforce tax compliance: An empirical analysis of the
Khung đường dốc không bền vững phân tích niềm tin của người dân vào chính phủ và cơ quan thuế (CQT) trong việc thực thi tuân thủ thuế Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách mà sự tin tưởng vào các cơ quan có thẩm quyền ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ thuế của người dân.
Nghiên cứu ở Úc cho thấy rằng sự gia tăng niềm tin của người nộp thuế (NNT) vào Chính phủ dẫn đến sự tăng cường tuân thủ thuế tự nguyện Ngược lại, khi niềm tin giảm sút, tuân thủ thuế cũng sẽ giảm theo Bên cạnh đó, sự gia tăng quyền lực của NNT lại làm giảm mức độ tuân thủ tự nguyện Tác giả đã đưa ra các chỉ tiêu để đo lường tuân thủ và không tuân thủ thuế của NNT, nhấn mạnh rằng niềm tin ngày càng cao vào Chính phủ sẽ thúc đẩy sự tuân thủ thuế, trong khi quyền lực gia tăng của NNT lại có xu hướng làm giảm tuân thủ thuế.
John Brondolo, Kyoshi Nakayama, Frank Bosch, Allan Foubister và Judy Tomaso (2008), với đề tài “Viet Nam implements personal income tax‖ (Việt
Nhóm tác giả nghiên cứu các đặc điểm cơ bản của thuế thu nhập cá nhân (TNCN) mới ở Việt Nam và ảnh hưởng của nó đối với quản lý thuế Bên cạnh đó, nhóm cũng đề cập đến kinh nghiệm từ các quốc gia khác trong việc xây dựng quy trình quản lý thuế TNCN chung Hệ thống thuế hiện hành có thể tác động trực tiếp đến mức độ tuân thủ của người nộp thuế (NNT), đồng thời giảm chi phí thực thi thông qua việc kiểm soát hiệu quả khấu trừ thuế TNCN trên tiền lương và hệ thống nộp tờ khai thuế TNCN phù hợp.
Kevin Holmes (2007), với công trình ―Personal income tax management‖
Nghiên cứu về quản lý thuế thu nhập cá nhân đã chỉ ra những vấn đề liên quan đến việc đăng ký và cấp mã số thuế (MST) cho người nộp thuế (NNT), cũng như quy trình khấu trừ thuế tại nguồn do chủ lao động thực hiện Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng xem xét việc kê khai và tính thuế hàng năm của NNT, cũng như cơ chế thu thuế, kiểm tra thuế, khiếu nại, vi phạm và xử phạt Tác giả đề xuất rằng cơ quan thuế cần xây dựng một chiến lược quản lý thuế dài hạn và toàn diện, tập trung vào việc khuyến khích NNT tuân thủ, từ đó dần dần nâng cao tỷ lệ tuân thủ thuế.
Bert Brys và Christopher Heady (2006) trong bài viết "Cải cách cơ bản thuế TNCN ở các nước OECD – những xu hướng và kinh nghiệm mới nhất" đã phân tích xu hướng cải cách thuế TNCN toàn cầu và đánh giá nội dung thuế TNCN của các nước OECD Hai chuyên gia này đề xuất cải cách thuế TNCN theo hướng cân bằng với thuế TNDN, đồng thời chia sẻ kinh nghiệm nâng cao hiệu quả quản lý thuế TNCN phù hợp với trình độ phát triển của từng quốc gia Nội dung trọng tâm của bài báo là chuyển đổi từ phương thức "Thông báo thuế" sang "Người nộp thuế tự khai, tự tính, tự nộp thuế", nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước và tạo sự công bằng giữa các người nộp thuế.
Luis Fernando Wasilewki (2005), với bài viết ―Economic Analysis of The
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) ở Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia, với biện pháp khấu trừ tại nguồn chiếm 82% tổng thu thuế TNCN Tác giả đề xuất cần bãi bỏ dần các ưu đãi thuế đối với thu nhập từ vốn và điều chỉnh mức thuế suất để tăng cường hiệu quả của Luật thuế TNCN, nhằm điều tiết thu nhập dân cư và giảm thất thu thuế Hệ thống hợp tác trong thu thuế TNCN cũng được nhấn mạnh như một giải pháp để giảm gánh nặng cho người nộp thuế (NNT) và nâng cao hiệu quả kiểm soát thu thuế Nghiên cứu chỉ ra rằng biện pháp khấu trừ tại nguồn là một trong những phương pháp kiểm soát TNCN hiệu quả nhất hiện nay Theo Ủy ban các vấn đề về thuế thuộc OECD, việc quản lý rủi ro tuân thủ thuế là cần thiết để nâng cao sự tuân thủ, khuyến khích các cơ quan quản lý thuế thực hiện các quy trình hiệu quả trong việc đưa ra quyết định và phương pháp tiếp cận.
Hugh J Ault, Boston College Law School & Brian J Arnold, Goodmans, LPP, Toroto (2004), cuốn sách ―Comparative Imcome Taxation: A Structural
Bài viết phân tích cơ cấu thuế thu nhập cá nhân (TNCN) từ góc độ so sánh giữa 09 quốc gia có nền kinh tế phát triển Các tác giả đã nghiên cứu thực trạng ngành thuế của những quốc gia này, từ đó so sánh cấu trúc và nội dung của thuế TNCN Mục tiêu chính là đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng và thực hiện thuế thu nhập một cách công bằng hơn giữa các người nộp thuế (NNT).
Trong bài viết "Nhật Bản – chặng đường 55 năm áp dụng cơ chế tự kê khai nộp thuế" của Thanh Bình (2003), tác giả nêu rõ thực trạng cải cách quản lý thuế TNCN ở Nhật Bản, diễn ra trong suốt hơn nửa thế kỷ với nhiều thăng trầm Để chuyển đổi từ cơ chế "Thông báo thuế" sang "Tự kê khai, nộp thuế", Nhật Bản đã trải qua một quá trình dài với sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ cả người nộp thuế (NNT) và cơ quan thuế (CQT) Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc theo dõi, giám sát và tổng kết để hoàn thiện cơ chế, cùng với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hướng dẫn và kiểm tra, nhằm đưa việc tự kê khai, nộp thuế vào nề nếp.
Richard M Bird và Milka Casanegra de Jantscher (1992) đã nghiên cứu "Cải thiện quản lý thuế ở các nước đang phát triển" nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân, tại Bolivia, Uruguay, Colombia và Trinidad Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng việc chú trọng đến nguyện vọng của người nộp thuế (NNT) là rất quan trọng, vì họ hiểu rõ nguồn gốc thu nhập của mình, điều này ảnh hưởng đến việc kê khai thuế chính xác Do đó, các tác giả đề xuất chuyển từ phương thức quản lý thuế truyền thống sang hình thức NNT tự khai, tự tính thuế Đồng thời, các cơ quan thuế cần tăng cường dịch vụ hướng dẫn và hỗ trợ NNT trong quá trình kê khai và thực hiện nghĩa vụ thuế Đây được coi là bước khởi đầu cho quá trình cải cách hành chính thuế, chuyển dần từ thông báo thuế sang tự khai, tự tính, tự nộp thuế.
1 2 Công trình nghiên cứu trong nước
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ THUẾ T HU NHẬP CÁ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH, THÀNH PHỐ 22
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH, THÀNH PHỐ
2 1 Thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế thu nhập cá nhân
2 1 1 Thuế thu nhập cá nhân
Trong từ điển Tiếng Việt thông dụng của tác giả Nguyễn Như Ý (1995):
Thu nhập được định nghĩa là tổng số tiền bạc hoặc tài sản nhận được, không bao gồm các chi phí cần thiết để có được số tiền hoặc tài sản đó.
Kể từ khi thành lập, Nhà nước đã áp dụng quyền lực của mình để ban hành các luật thuế, yêu cầu người dân và tổ chức đóng góp vào ngân sách nhà nước (NSNN) nhằm phục vụ cho các mục tiêu công cộng.
Thuế thu nhập là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập, được phân chia theo đối tượng thụ hưởng Có hai loại thuế chính: thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) áp dụng cho tổ chức và doanh nghiệp tư nhân, và thuế thu nhập cá nhân (TNCN) áp dụng cho cá nhân.
Thuế TNCN, hay thuế thu nhập cá nhân, là loại thuế trực thu đánh trên thu nhập của cá nhân, lần đầu tiên được áp dụng tại Anh vào năm 1841, sau đó lan rộng ra nhiều quốc gia như Nhật Bản (1887), Đức (1889) và Mỹ (1913) Qua thời gian, thuế TNCN đã phát triển vững chắc và trở thành sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế của hơn 180 quốc gia trên thế giới Tại các quốc gia phát triển, thuế TNCN chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu ngân sách, đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư khác nhau Do đó, thuế TNCN thường được coi là “vua của các loại thuế.”
“sắc thuế tốt nhất‖ và là loại thuế có tính công bằng nhất
Theo Vũ Thị Bích Quỳnh (2019), thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là khoản thu bắt buộc áp dụng cho thu nhập chịu thuế của cá nhân trong kỳ tính thuế theo quy định pháp luật Thu nhập chịu thuế được xác định sau khi đã trừ đi các khoản thu nhập được miễn thuế.
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là khoản thu bắt buộc mà cá nhân phải nộp dựa trên thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế theo quy định pháp luật Tại Việt Nam, mọi cá nhân nhận thu nhập dưới bất kỳ hình thức nào, từ lao động hay đầu tư, đều phải trích một phần thu nhập của mình để nộp cho nhà nước dưới dạng thuế TNCN.
2 1 1 1 Đặc điểm thuế TNCN có các đặc điểm sau
Thuế TNCN là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập cá nhân, với đặc điểm là người nộp thuế (NNT) đồng thời là đối tượng chịu thuế, không thể chuyển giao gánh nặng thuế cho người khác Sức ảnh hưởng của thuế TNCN đối với nền kinh tế và thái độ của NNT rất lớn Do đó, mỗi khi Chính phủ điều chỉnh chính sách thuế TNCN, như thay đổi thuế suất hay phạm vi các đối tượng chịu thuế, NNT thường có những phản ứng mạnh mẽ, bởi họ phải chấp nhận việc khấu trừ một phần lợi ích từ kết quả lao động của mình.
Ngày nay, mỗi cá nhân thường có nhiều nguồn thu nhập chịu thuế, bao gồm thu nhập từ kinh doanh, đầu tư vốn, chuyển nhượng bất động sản, và các khoản thưởng, quà tặng, thừa kế Các nguồn thu nhập này có tính chất khác nhau, với thu nhập thường xuyên và không thường xuyên Đối tượng nộp thuế cũng rất đa dạng, từ cá nhân cư trú, không cư trú, đến những người kinh doanh cố định hay lưu động, làm công ăn lương hoặc theo thời vụ Do đó, thuế thu nhập cá nhân (TNCN) có nhiều phương thức đánh thuế và thuế suất khác nhau, làm cho nó trở thành một loại thuế phức tạp Tính chất phân tán và biến động cao của các nguồn thu nhập khiến cho công tác quản lý thu thuế gặp nhiều khó khăn, dẫn đến chi phí hành thu cao Hơn nữa, thuế TNCN tác động trực tiếp đến thu nhập của người nộp thuế mà không ảnh hưởng rõ rệt đến một số ngành kinh tế cụ thể.
Tên nước Năm % tổng số thu về các loại thuế so với GDP
% số thu thuế TNCN so với GDP
% số thu thuế TNCN so với tổng số thu thuế
2 Các nước đang phát triển Ấn Độ 2007 18,57 2,2 11,7
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là công cụ quan trọng để kiểm kê và kiểm soát thu nhập dân cư, hỗ trợ quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước Ở các quốc gia phát triển như Canada và Mỹ, thuế TNCN chiếm tỷ trọng lớn trong ngân sách nhà nước, lần lượt là 12,4% và 10,8% so với GDP, cũng như 37,4% và 38,1% tổng thu thuế Ngược lại, ở những nước đang phát triển như Ấn Độ, tỷ lệ thuế TNCN chỉ đạt 2,2% GDP và 11,7% tổng thu thuế, cho thấy sự quan tâm chưa đầy đủ của Nhà nước đối với quản lý thu thuế TNCN.
Tỷ lệ thu thuế thu nhập cá nhân (TNCN) so với GDP và mức thuế suất lũy tiến cao nhất trong biểu thuế TNCN lũy tiến từng phần của một số quốc gia được trình bày trong Bảng 2 Những số liệu này giúp đánh giá hiệu quả thu ngân sách từ thuế TNCN và so sánh với các nền kinh tế khác.
Theo số liệu của IMF tháng 04 năm 2010, thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết thu nhập dân cư, đảm bảo công bằng xã hội Nhà nước quy định mức thu nhập chịu thuế, và tất cả người dân có thu nhập đạt mức tối thiểu này đều phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế TNCN.
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đảm bảo sự công bằng xã hội khi những cá nhân có thu nhập cao hơn phải nộp thuế nhiều hơn Đồng thời, thuế TNCN không tạo ra ưu đãi cho các ngành nghề trong hệ thống kinh tế quốc dân.
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của từng cá nhân, ảnh hưởng lớn đến đời sống của người nộp thuế (NNT) Sự tác động này dễ dẫn đến phản ứng từ NNT đối với vấn đề thu – nộp thuế, từ đó có thể phát sinh các hành vi trốn thuế và gian lận thuế.
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) có tính chất lũy tiến, nghĩa là mức thuế phải nộp tăng theo tỷ lệ với thu nhập chịu thuế Điều này có nghĩa là cá nhân có thu nhập cao hơn sẽ phải đóng thuế nhiều hơn Trong một số trường hợp, cần đảm bảo rằng tốc độ tăng của thuế lũy tiến luôn vượt quá tốc độ tăng của thu nhập để duy trì công bằng trong nghĩa vụ thuế.
Đối tượng nộp thuế đối với thu nhập cá nhân (ĐTNT) bao gồm công dân nước sở tại và người nước ngoài có thu nhập tại đây Theo quy định hiện hành, người cư trú là người có mặt tại nước sở tại từ 183 ngày trở lên trong năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên tục Ngược lại, người không cư trú là những cá nhân không đáp ứng điều kiện này Cá nhân cư trú phải nộp thuế trên thu nhập toàn cầu, trong khi cá nhân không cư trú chỉ nộp thuế trên thu nhập phát sinh trong lãnh thổ nước sở tại.