NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN THỦY NỘI ĐỊA
Phương tiện thuỷ nội địa và đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của phương tiện thuỷ nội địa
Trong xã hội, "phương tiện" thường chỉ những vật dụng phục vụ mục đích cụ thể Trong lĩnh vực giao thông vận tải (GTVT), thuật ngữ này thường được hiểu là "phương tiện giao thông", bao gồm các phương tiện di chuyển công cộng như xe, tàu điện Các phương tiện giao thông được phân chia thành nhiều loại khác nhau; ví dụ, trong giao thông đường bộ, có hai loại chính là phương tiện giao thông cơ giới và phương tiện giao thông thô sơ Tại Việt Nam, đường thủy nội địa bao gồm các luồng, âu tàu, và công trình hỗ trợ phương tiện di chuyển qua các khu vực như sông, kênh, hồ, và ven biển Việc quản lý và khai thác GTVT trên các tuyến đường này được quy định theo Khoản 1 Điều 3 Thông tư 23/2011/TT-BGTVT.
Theo quy định từ tháng 3 năm 2011, đường thuỷ nội địa được chia thành ba loại: đường thuỷ nội địa quốc gia, đường thuỷ nội địa địa phương và đường thuỷ nội địa chuyên dùng Đường thuỷ nội địa quốc gia kết nối các trung tâm kinh tế, văn hoá xã hội và các đầu mối giao thông vận tải quan trọng, phục vụ cho kinh tế, quốc phòng và an ninh quốc gia, bao gồm cả các tuyến đường có hoạt động vận tải thuỷ qua biên giới Đường thuỷ nội địa địa phương thuộc quản lý của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, chủ yếu phục vụ phát triển kinh tế và xã hội tại địa phương Trong khi đó, đường thuỷ nội địa chuyên dùng là các luồng chạy tàu, thuyền kết nối vùng nước cảng, bến thuỷ nội địa chuyên dùng với đường thuỷ nội địa quốc gia hoặc địa phương, phục vụ nhu cầu giao thông vận tải của tổ chức và cá nhân.
Hệ thống đường thuỷ nội địa Việt Nam rất phong phú với hơn 2.360 sông kênh dài 42.000 km, cùng với hơn 3.200 km bờ biển, tạo ra một mạng lưới vận tải thuỷ hiệu quả giữa các vùng miền Vận tải đường thuỷ nội địa có chi phí thấp, khả năng vận chuyển hàng hoá lớn và ít gây ô nhiễm, hiện chiếm khoảng 25% tổng khối lượng hàng hoá vận tải toàn ngành GTVT, với mức tăng trưởng trung bình hàng năm khoảng 10% Đặc biệt, khu vực đồng bằng sông Cửu Long, vận tải đường thuỷ đảm nhiệm 60-70% tổng khối lượng hàng hoá với mức tăng trưởng khoảng 20% mỗi năm Ngành này đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng và thúc đẩy giao lưu quốc tế, đồng thời thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia kinh doanh Với những lợi thế này, vận tải thuỷ nội địa tại Việt Nam là một ngành truyền thống có tiềm năng phát triển mạnh mẽ và thu hút đầu tư cho việc nâng cấp phương tiện.
Hoạt động giao thông đường thuỷ nội địa bao gồm nhiều khía cạnh như vận tải, quy hoạch, xây dựng và bảo vệ cơ sở hạ tầng Các phương tiện tham gia giao thông đường thuỷ nội địa đóng vai trò quan trọng, đáp ứng nhu cầu vận chuyển của người dân và xã hội Để đảm bảo an toàn và hiệu quả, các hoạt động này cần được quản lý chặt chẽ bởi nhà nước, bao gồm cả công tác tìm kiếm, cứu nạn và cứu hộ.
PTTNĐ ở Việt Nam rất đa dạng, gồm nhiều loại khác nhau Theo Khoản
8 Điều 5 Nghị định số 40 ngày 05 tháng 07 năm 2013 về bảo đảm trật tự, an toàn GTĐTNĐ thì Phương tiện thuỷ nội địa bao gồm:
- Tàu, thuyền có động cơ hoặc không có động cơ;
Các cấu trúc nổi trên đường thuỷ nội địa được sử dụng cho giao thông, vận tải và kinh doanh dịch vụ Theo Luật Giao thông Đường thuỷ nội địa, phương tiện thuỷ nội địa bao gồm tàu, thuyền và các cấu trúc nổi khác, có thể có hoặc không có động cơ, chuyên hoạt động trên các tuyến đường thuỷ nội địa.
Phương tiện thuỷ nội địa có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, PTTNĐ hoạt động gắn liền với hệ thống đường thủy nội địa
Phương tiện giao thông nội địa (PTTNĐ) đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh và giao thương, với tính chất xã hội hóa cao, cho phép nhiều thành phần kinh tế tham gia kinh doanh Trong lịch sử, PTTNĐ đã khẳng định vị trí trọng yếu, như năm 1967, khi vận tải đường sông chiếm 48,7% tổng khối lượng vận chuyển, vượt xa vận tải đường sắt (26,8%), ô tô (21,7%) và đường biển (0,2%).
PTTNĐ đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vật tư kỹ thuật, nguyên liệu và năng lượng cho các cơ sở sản xuất, đảm bảo quá trình sản xuất xã hội diễn ra liên tục và phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân Nó cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sinh hoạt hàng ngày PTTNĐ được xem như một mối liên hệ kinh tế, xã hội giữa các địa phương thông qua mạng lưới GTVT thủy nội địa Do đó, những khu vực gần các tuyến vận tải thủy nội địa lớn và các đầu mối GTVT thường tập trung nhiều ngành sản xuất, dịch vụ và dân cư Điều kiện hoạt động của PTTNĐ được quy định tại Điều 24 Luật GTĐTNĐ (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Đối với phương tiện thủy nội địa không có động cơ với trọng tải toàn phần trên 15 tấn, cũng như phương tiện có động cơ với tổng công suất máy chính trên 15 sức ngựa và sức chở trên 12 người, cần phải đảm bảo các điều kiện quy định khi hoạt động.
+ Đạt tiêu chuẩn chất lượng, an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 26 của Luật này;
Để đảm bảo an toàn và tuân thủ quy định, phương tiện cần có giấy chứng nhận đăng ký PTTNĐ, giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường Ngoài ra, phương tiện cũng phải kẻ hoặc gắn số đăng ký, vạch dấu mớn nước an toàn và ghi rõ số lượng người được phép chở.
+ Có đủ định biên thuyền viên và danh bạ thuyền viên theo quy định.
Phương tiện có động cơ với tổng công suất từ 5 đến 15 sức ngựa, hoặc sức chở từ 5 đến 12 người, khi hoạt động trên đường thủy nội địa cần tuân thủ các điều kiện quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này.
- Đối với phương tiện không có động cơ trọng tải toàn phần từ 1 tấn đến
Phương tiện thủy nội địa có trọng tải 15 tấn hoặc sức chở từ 5 đến 12 người, cùng với động cơ có công suất dưới 5 sức ngựa hoặc sức chở dưới 5 người, cần phải có giấy chứng nhận đăng ký PTTNĐ và đảm bảo các điều kiện an toàn khi hoạt động.
Thân phương tiện cần phải chắc chắn và không bị rò nước vào bên trong Nếu hoạt động vào ban đêm, phương tiện phải được trang bị một đèn có ánh sáng trắng dễ nhìn Đối với phương tiện chở người, cần đảm bảo có đủ chỗ ngồi cân bằng và cung cấp đủ áo phao hoặc dụng cụ cứu sinh cho số người được phép chở.
+ Máy lắp trên phương tiện phải chắc chắn, an toàn, dễ khởi động và hoạt động ổn định;
+ Phương tiện phải được kẻ hoặc gắn số đăng ký, ghi số lượng người được phép chở trên phương tiện;
Phương tiện vận tải cần được sơn vạch dấu mớn nước an toàn, và khi chở người hoặc hàng hóa, không được để nước ngập qua vạch này Dấu mớn nước an toàn được thể hiện bằng một vạch sơn màu khác, có chiều rộng 25 milimét và chiều dài 250 milimét, được đặt nằm ngang ở hai bên mạn phương tiện, tại vị trí giữa chiều dài lớn nhất Đối với phương tiện chở hàng, mép trên của vạch sơn cách mép mạn 100 milimét, trong khi đối với phương tiện chở người, khoảng cách này là 200 milimét.
Phương tiện thô sơ có trọng tải dưới 1 tấn hoặc sức chở dưới 5 người, cũng như bè hoạt động trên đường thủy nội địa, phải tuân thủ các điều kiện an toàn theo quy định Để tham gia giao thông đường thủy nội địa, các phương tiện này cần đảm bảo còn niên hạn sử dụng theo quy định của Chính phủ.
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm của đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa
Việc đăng ký và đăng kiểm phương tiện giao thông là cần thiết để quản lý và xác lập quyền sở hữu tài sản, đồng thời đảm bảo an toàn giao thông Tuy nhiên, trong lĩnh vực giao thông vận tải, các văn bản pháp luật hiện chưa có định nghĩa thống nhất về thuật ngữ "đăng kiểm", chỉ đưa ra các quy định chung về tiêu chuẩn an toàn và một số nội dung liên quan đến hoạt động này từ góc độ quản lý nhà nước.
Cấu thành quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa
Hiện nay, thuật ngữ "quản lý" được hiểu theo nhiều cách khác nhau Một số quan điểm cho rằng quản lý là quá trình cai trị, nơi người quản lý áp đặt ý chí lên đối tượng Ngược lại, có quan niệm cho rằng quản lý là sự điều hành, chỉ huy, với sự tham gia của cả người quản lý và đối tượng được quản lý Thuật ngữ này cũng được áp dụng trong nhiều lĩnh vực như quản lý xã hội, quản lý công và quản lý nguồn nhân lực.
Trong lĩnh vực thực thi quyền lực nhà nước, khái niệm "QLNN" được nghiên cứu và đề cập trong nhiều tài liệu và giáo trình Một cách chung nhất, "QLNN" hiểu là sự tác động của quyền lực nhà nước lên các mối quan hệ xã hội để đạt được mục tiêu xác định của nhà nước Khái niệm này có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, dẫn đến nội hàm đa dạng của "QLNN", có thể hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Quản lý nhà nước (QLNN) được hiểu là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước, bao gồm lập pháp, hành pháp và tư pháp Các cơ quan có thẩm quyền trong QLNN bao gồm Quốc hội, Chính phủ, Tòa án và chính quyền địa phương Đối tượng của QLNN rất đa dạng, bao gồm tất cả các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia vào các mối quan hệ pháp luật trong các lĩnh vực này.
Quản lý nhà nước (QLNN) theo nghĩa hẹp chủ yếu bao gồm hoạt động hành pháp, là phần cấu thành của quyền lực nhà nước với nhiệm vụ thực thi pháp luật và quản lý xã hội Quyền hành pháp được thực hiện bởi một bộ máy hành chính nhà nước phức tạp từ trung ương đến địa phương, bao gồm Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp và một số cơ quan khác được trao quyền hành pháp Đối tượng QLNN bao gồm các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia vào mối quan hệ quản lý hành chính, trong đó nhà nước sử dụng biện pháp hành chính, chủ yếu là quyền uy, để đảm bảo các đối tượng tuân thủ quy định pháp luật Việc vi phạm các quy định này sẽ dẫn đến xử lý theo pháp luật.
Trong lĩnh vực Giao thông Vận tải (GTVT) và đặc biệt là trong đăng kiểm phương tiện thủy nội địa (PTTNĐ), quản lý được hiểu là quá trình thực thi quyền hành pháp nhằm đảm bảo hoạt động đăng kiểm PTTNĐ đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa là quá trình tổ chức và điều chỉnh bằng quyền hành pháp nhằm đảm bảo an toàn cho các phương tiện này trong quá trình vận hành.
Với quan niệm như trên, QLNN về đăng kiểm PTTNĐ có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, QLNN về đăng kiểm PTTNĐ là hoạt động thực thi quyền hành pháp trong lĩnh vực GTĐTNĐ.
Hoạt động quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện giao thông đường bộ phải được thực hiện bởi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, phản ánh ý chí của nhà nước qua việc thực hiện các quy định pháp luật Nội dung quản lý này bao gồm việc xây dựng và ban hành chính sách, tổ chức thực hiện, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và hợp tác quốc tế Các biện pháp chủ yếu trong quản lý nhà nước về đăng kiểm là biện pháp mệnh lệnh - phục tùng, thể hiện rõ mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý Ngoài ra, các chủ thể quản lý còn áp dụng biện pháp giáo dục và thuyết phục để đạt được mục tiêu đề ra.
Thứ hai, QLNN về đăng kiểm PTTNĐ chỉ được tiến hành bởi những chủ thể có quyền năng hành pháp, được tổ chức thành hệ thống chặt chẽ.
Chủ thể có thẩm quyền trong quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện giao thông đường bộ bao gồm Chính phủ, Bộ GTVT, Cục ĐKVN và các tổ chức khác được giao nhiệm vụ cụ thể Hệ thống quản lý này được tổ chức chặt chẽ với sự phân cấp, đảm bảo tính liên tục trong hoạt động hành pháp và tính tập trung trong thực thi quyền lực, đồng thời đáp ứng kịp thời nhu cầu xã hội Do đó, việc xác định tính hợp lý của thẩm quyền ở mỗi cấp quản lý là rất quan trọng trong quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện giao thông.
Thứ ba, QLNN về đăng kiểm PTTNĐ có tính chấp hành và điều hành
Quản lý nhà nước (QLNN) về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa (PTTNĐ) cần thể hiện rõ tính chấp hành và điều hành, bảo đảm mọi hoạt động diễn ra theo đúng pháp luật Trong quản lý hành chính nhà nước, mặc dù có sự sáng tạo trong giới hạn nhất định, nhưng các chủ thể quản lý phải tuân thủ khuôn khổ pháp luật và phân cấp thẩm quyền Cấp dưới phải chấp hành các quy định và chỉ đạo từ cấp trên, trong khi các cấp quản lý cần điều hành và tổ chức các hoạt động thực tiễn để đảm bảo các quy định pháp luật được thực thi hiệu quả.
Hoạt động quản lý nhà nước (QLNN) về đăng kiểm phương tiện giao thông đường bộ (PTTNĐ) là một quá trình liên tục, đặc trưng cho tính chất của QLNN và phân biệt với các hoạt động lập pháp và tư pháp Để đáp ứng sự thay đổi không ngừng của xã hội trong lĩnh vực giao thông, hoạt động này cần có tính kịp thời và linh hoạt Chính vì vậy, Nhà nước đã ban hành các quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động đăng kiểm PTTNĐ, đồng thời quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể liên quan, bao gồm cả cơ quan QLNN và trách nhiệm công vụ của công chức trong lĩnh vực này.
Trong bối cảnh hiện nay, hoạt động quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện giao thông đường bộ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội Vai trò này được thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau, từ việc đảm bảo an toàn giao thông đến việc thúc đẩy hiệu quả vận tải.
Quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa.
Quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an toàn trong quá trình vận hành, đồng thời thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Sự hình thành các phương tiện giao thông đường nước (PTTNĐ) bắt nguồn từ nhu cầu xã hội có tính lịch sử lâu dài, đặc biệt ở các quốc gia có hệ thống giao thông đường nước phát triển Với sự tham gia của nhiều chủ thể và các loại phương tiện đa dạng như tàu, thuyền, bè và các cấu trúc nổi khác, nhu cầu bảo đảm an toàn cho con người, hàng hóa và tài sản khi tham gia giao thông đường nước là rất cần thiết Việc kiểm tra và đánh giá mức độ an toàn của các phương tiện này cần dựa vào các tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và môi trường, được áp dụng thống nhất trên toàn quốc.
1.2.2 Chủ thể quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa
Việc xác định chủ thể quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện giao thông đường bộ phải dựa trên quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến tổ chức quyền lực hành pháp Tại Việt Nam, Nhà nước đóng vai trò chủ thể quản lý nhà nước trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội Nhà nước thành lập các cơ quan và giao cho các cơ quan này những chức năng, nhiệm vụ cụ thể nhằm đảm bảo thực hiện hiệu quả hoạt động quản lý.
Những yếu tố tác động đến quản lý nhà nuớc về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa
1.3.1 Mức độ hoàn thiện của chính sách, pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông đường thuỷ nội địa
Một trong những nguyên tắc cơ bản trong quản lý nhà nước là quản lý bằng pháp luật, được thể hiện rõ trong Điều 8 Hiến pháp năm 2013, nhấn mạnh rằng Nhà nước tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, đồng thời thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ Hoạt động đăng kiểm phương tiện thủy nội địa là việc thực thi quyền lực nhà nước, do đó các cơ quan có thẩm quyền phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, thực hiện những nhiệm vụ mà pháp luật cho phép Tại Việt Nam, nguồn duy nhất của pháp luật là các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, điều này ảnh hưởng đến mức độ hoàn thiện của chính sách và pháp luật liên quan.
Quản lý nhà nước (QLNN) trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa (GTĐTNĐ) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý đăng kiểm phương tiện thủy nội địa (PTTNĐ) Pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ là công cụ thiết yếu giúp Nhà nước thực hiện quản lý hiệu quả, đảm bảo mục tiêu quản lý đạt được Qua các quy định pháp luật, Nhà nước quy định trách nhiệm của các bên liên quan trong việc xây dựng kế hoạch, chính sách, cũng như quy trình đăng kiểm PTTNĐ và các biện pháp kiểm tra, giám sát Hệ thống pháp luật hoàn thiện có thể thúc đẩy công tác đăng kiểm, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển, nhưng nếu không phù hợp với thực tiễn, nó cũng có thể trở thành rào cản, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của GTĐTNĐ và kinh tế - xã hội của đất nước.
1.3.2 Năng lực thực thi công vụ của đội ngũ công chức, viên chức của Cục Đăng kiểm Việt Nam
Quản lý nhà nước về đăng kiểm PTTNĐ là một phần quan trọng trong hoạt động hành chính, phản ánh sự thay đổi trong vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh rằng nhà nước cần thực hiện tốt chức năng kiến tạo phát triển, trở thành “bà đỡ” cho nền kinh tế Để đạt được điều này, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, đặc biệt là ở cấp cao, là điều thiết yếu Năng lực, đạo đức và sự nhiệt huyết của công chức quyết định đến hiệu quả quản lý nhà nước Nếu chất lượng đội ngũ cán bộ thấp, sẽ dẫn đến khó khăn, tiêu cực và tham nhũng, ảnh hưởng đến hoạt động của bộ máy nhà nước Hiện nay, một vấn đề nghiêm trọng là tình trạng suy thoái đạo đức và lối sống của một bộ phận cán bộ, công chức, điều này đã được đề cập trong nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), chỉ ra rằng nhiều cán bộ và đảng viên, đặc biệt là những người giữ vị trí lãnh đạo, đang sa vào chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng và lãng phí.
Hoạt động đăng kiểm PTTNĐ phụ thuộc vào năng lực thực thi công vụ của đội ngũ công chức, viên chức tại Cục ĐKVN Đội ngũ này đang đối mặt với yêu cầu xây dựng và củng cố để đáp ứng các tiêu chí cải cách hành chính, một trong năm mục tiêu quan trọng của Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020 Mục tiêu này nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ phục vụ nhân dân và phát triển đất nước Đề án cải cách chế độ công vụ cũng nhấn mạnh việc xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch và hiệu quả.
1.3.3 Sự phát triển của khoa học công nghệ trong quy mô quản lý giao thông đường thuỷ nội địa Đăng kiểm PTTNĐ là hoạt động đòi hỏi phải tuân theo đúng thẩm quyền với trình tự, thủ tục chặt chẽ và gắn liền với các tiêu chuẩn, quy chuẩn về an toàn kỹ thuật và môi trường Hoạt động đăng kiểm PTTNĐ là hoạt động hành chính và có tính “phục vụ” rất cao Đăng kiểm PTTNĐ không chỉ để nhằm đạt được mục tiêu của quản lý mà còn trực tiếp phục vụ nhu cầu chính đáng của các cơ quan, tổ chức và cá nhân Chính vì vậy, ứng dụng khoa học công nghệ vào các hoạt động trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ là nhu cầu khách quan trong quản lý giao thông đường thủy nói chung và là trụ cột không thể thiếu trong QLNN về đăng kiểm PTTNĐ hiện nay Sự phát triển của khoa học công nghệ tác động trực tiếp đến hiệu quả QLNN về đăng kiểm PTTNĐ. Tại Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 đã xác định nghiệm vụ là: “Hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước để đến năm 2020: 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện dưới dạng điện tử; cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử trong công việc; bảo đảm dữ liệu điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ quan; hầu hết các giao dịch của các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện tử, mọi lúc, mọi nơi, dựa trên các ứng dụng truyền thông đa phương tiện; hầu hết các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ ở mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau; Ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong quy trình xử lý công việc của từng cơ quan hành chính nhà nước, giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau và trong giao dịch với tổ chức, cá nhân, đặc biệt là trong hoạt động dịch vụ hành chính công, dịch vụ công của đơn vị sự nghiệp công” Những nội dung này đã thể hiện rõ vai trò và sự tác động của khoa học công nghệ đối với cải cách hành chính nói chung và trong phục vụ trực tiếp nhu cầu của xã hội nói riêng.
1.3.4 Sự phối hợp giữa Cục Đăng kiểm Việt Nam và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong thực hiện chức năng quản lý nhà nuớc về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa
Quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa (PTTNĐ) bao gồm nhiều nội dung và thuộc thẩm quyền của các cơ quan khác nhau Do đó, hoạt động này cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức trong ngành giao thông vận tải (GTVT) và các cơ quan, tổ chức khác Đặc biệt, việc hợp tác trong tổ chức thực hiện và tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ là rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả trong quản lý.
Cục Đăng kiểm Việt Nam (ĐKVN) đóng vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa (PTTNĐ), là đầu mối tổ chức công tác đăng kiểm và thực hiện chế độ thông tin, báo cáo Cục cũng tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải trong lĩnh vực này Để hoàn thành nhiệm vụ hiệu quả, Cục ĐKVN cần sự phối hợp chặt chẽ từ các cơ quan có thẩm quyền ở cả Trung ương và địa phương.
1.3.5 Ý thức pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành quy định về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội, là một trong những biểu hiện của trình độ văn hoá xã hội Ý thức pháp luật nói chung tác động trực tiếp đến cả quá trình xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật Vì vậy, ý thức pháp luật có các động rất lớn đến QLNN với nguyên tắc quản lý bằng pháp luật;
Ý thức pháp luật của cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc ban hành quy định về đăng kiểm PTTNĐ đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng pháp luật Nếu ý thức pháp luật cao, các văn bản và chính sách sẽ phù hợp với thực tiễn và có chất lượng Ngược lại, nếu ý thức pháp luật thấp, sẽ dẫn đến các văn bản không khách quan và không khả thi Đối với cán bộ, công chức có thẩm quyền trong lĩnh vực đăng kiểm, ý thức pháp luật ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc thực hiện các quy định Trình độ nhận thức pháp luật và tâm lý của cá nhân cũng là yếu tố quyết định Quá trình đăng kiểm PTTNĐ là áp dụng pháp luật, do đó, ý thức pháp luật của những người thực hiện sẽ tác động trực tiếp đến tính đúng đắn của quyết định Cuối cùng, ý thức của chủ phương tiện về đăng kiểm PTTNĐ cũng rất quan trọng, giúp cơ quan quản lý nhà nước thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về QLNN về đăng kiểm PTTNĐ có thể rút ra một số kết luận sau:
Quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa (PTTNĐ) là quá trình tổ chức và điều chỉnh bằng quyền hành pháp nhằm đảm bảo an toàn trong vận hành các PTTNĐ Nội dung này đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước về giao thông, đặc biệt là giao thông đường thủy nội địa, góp phần bảo đảm an toàn cho phương tiện và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Hoạt động quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa được thực hiện bởi các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, với nhiều nội dung khác nhau và được tổ chức thành một hệ thống chặt chẽ Thẩm quyền này chủ yếu thuộc về Chính phủ, Bộ Giao thông – Vận Tải, Cục Đăng kiểm Việt Nam, cùng với các Chi cục, Chi nhánh, Trung tâm Đăng kiểm tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thanh tra giao thông đường thủy nội địa, Sở Giao thông Vận tải và Ủy ban nhân dân các cấp.
Thứ ba, nội dung của QLNN về đăng kiểm PTTNĐ rất rộng, bao gồm:
Chính sách và pháp luật về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa (PTTNĐ) bao gồm việc ban hành, tổ chức thực hiện, thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm liên quan đến đăng kiểm PTTNĐ Ngoài ra, cần tuyên truyền và phổ biến pháp luật về lĩnh vực này, cũng như hợp tác quốc tế trong công tác đăng kiểm PTTNĐ Các nội dung này thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan khác nhau.
Bộ Giao thông Vận tải và Cục Đăng kiểm Việt Nam đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện giao thông đường bộ.
Hoạt động quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố, bao gồm chính sách và pháp luật, năng lực thực thi công vụ của công chức, sự phát triển khoa học công nghệ, sự phối hợp giữa các cơ quan, cũng như ý thức pháp luật của người dân trong việc tuân thủ các quy định liên quan đến đăng kiểm.