CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Sơ lược lịch sử của nội soi phế quản
Ngành nội soi phế quản ống cứng có nguồn gốc từ rất xa xưa, với ý tưởng đầu tiên xuất hiện vào khoảng thế kỷ 5 trước Công nguyên Hippocrates, được coi là ông tổ của y học phương Tây, đã đề xuất việc đặt nội khí quản cho bệnh nhân bị ngạt thở Ngoài ra, các dụng cụ dùng để quan sát các lỗ tự nhiên của cơ thể cũng đã được phát hiện từ thời đại Pompeii.
Sau Công nguyên, Desault (1744–1795) là người tiên phong đầu tiên thực hiện thủ thuật đặt ống từ mũi đến khí quản để điều trị khó thở và lấy dị vật đường thở Từ đó, nhiều dụng cụ khác đã được phát triển để gắp dị vật ra khỏi đường thở qua thanh quản, cùng với phẫu thuật mở khí quản, được gọi chung là 'bronchotomy' Thủ thuật này cũng được sử dụng để điều trị chít hẹp dưới thanh môn trong bệnh bạch hầu.
Kinh nghiệm quan sát thanh quản với gương nha khoa được thực hiện bởi Latour (1825), Senn (1829), Belloc (1837) Liston (1840) and Avery
(1844) Tuy nhiên, đây không phải là các bác sĩ y khoa mà là các thầy dạy thanh nhạc ở London
Vào năm 1854, bác sĩ Manuel Garcia đã trở thành người đầu tiên quan sát thanh quản của mình bằng gương nha khoa, mở ra cơ hội chẩn đoán và điều trị bệnh thanh quản hiệu quả hơn Đến năm 1862, Victor von Bruns đã sử dụng gương soi thanh quản để thực hiện ca phẫu thuật cắt polyp ở dây thanh âm của chính anh trai mình.
Vào năm 1875, Voltoni đã lần đầu tiên quan sát lòng khí quản bằng cách sử dụng một phễu soi tai đặt vào lỗ mở khí quản Đến năm 1891, Rosenheim đã vô tình đưa ống soi vào đường thở trong quá trình soi thực quản, từ đó gợi ý rằng việc thăm khám trực tiếp khí phế quản là khả thi.
Lịch sử ngành nội soi phế quản sang trang mới vào ngày 30 tháng 3 năm
Vào năm 1897, Gustav Killian cùng O Kollofrath tại đại học Freiburg, Đức, đã lần đầu tiên sử dụng kỹ thuật nội soi phế quản bằng ống soi cứng để lấy ra một mảnh xương từ phế quản gốc phải của một nông dân Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Y học, khi Killian đặt tên cho kỹ thuật này là "SOI PHẾ QUẢN" hay "BRONCHOSKOPIE" Kể từ đó, G Killian và các đồng nghiệp đã cải tiến kỹ thuật này, mở rộng chỉ định nội soi phế quản, tạo ra một cuộc cách mạng trong lĩnh vực Y học.
Vào năm 1900, G Killian đã nhận giải thưởng từ Wiener Klinische Wochenschrift nhờ những nghiên cứu về "Nội soi phế quản và ứng dụng của kỹ thuật này trong điều trị dị vật đường thở" Sự thành công này đã giúp ông nổi tiếng và biến Freiburg thành trung tâm hàng đầu cho chuyên ngành nội soi phế quản.
Vào năm 1895, K Roentgen phát minh ra tia X, mở ra một kỷ nguyên mới trong y học Cùng thời điểm đó, G Killian đã tiến hành các thăm dò chẩn đoán và điều trị qua soi phế quản dưới sự hướng dẫn của hình ảnh huỳnh quang, nhằm phát hiện và xử lý các tổn thương cũng như dị vật trong đường thở ở phế quản ngoại biên.
G Killian rất quan tâm đến tầm quan trọng của nội soi phế quản trước và sau phẫu thuật ung thư phế quản Vào năm 1914, Ông mô tả phương pháp xạ trong (endoluminal radiotherapy) bằng mesothorium trong điều trị ung thư thanh quản Vào năm 1915, cùng với cộng sự của mình là Albrecht và Brünings ông mô tả trường hợp ung thư khí quản đầu tiên điều trị thành công bằng phương pháp xạ trị trong (endoluminal brachyradiotherapy)
Chevalier Jackson được coi là người có công lớn trong ngành nội soi phế quản, được mệnh danh là “cha đẻ của ngành soi phế-thực quản của Hoa Kỳ” Năm 1890, ông đã chế tạo ống nội soi thực quản đầu tiên, đánh dấu bước tiến quan trọng trong lĩnh vực này.
Năm 1904, ông đã sản xuất ống nội soi phế quản cứng đầu tiên tại Hoa
Vào năm 1907, Kỳ và Pillings đã giới thiệu bộ dụng cụ nội soi nhỏ gọn, dễ dàng mang theo Jackson thiết kế ống soi phế quản với một bóng đèn điện nhỏ ở đầu xa và đường ống hút phụ để loại bỏ dịch tiết trong quá trình soi Sự phát triển này đã mở ra một trang mới trong lịch sử y học, cho phép bác sĩ quan sát trực tiếp bên trong khí quản và phế quản của bệnh nhân Ông cũng xuất bản cuốn sách giáo khoa đầu tiên về "soi phế quản và thực quản", trong đó hệ thống hóa các kiến thức mới nhất về quản lý chất lượng nội soi, bao gồm phân tích và ngăn ngừa biến chứng, thiết kế phòng soi phế quản, sắp xếp dụng cụ và bố trí nhân viên.
Năm 1956, Friedel giới thiệu ống soi phế quản cứng với thiết kế đặc biệt cho thông khí phổi, được cải tiến bởi Brandt vào năm 1963 Năm 1961, Huzly xuất bản atlas hình ảnh nội soi phế quản, trong khi hai công ty Storz và Wolf đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kỹ thuật mới và sản xuất dụng cụ nội soi như ống quan sát xa Hopkins và máy thu hình Vào cuối những năm 1880, Baron Friedrich Leopold von Schrütter phát triển ống dẫn ánh sáng lạnh bằng Plexiglass Năm 1965, K Storz Andersen thực hiện phương pháp sinh thiết phổi xuyên phế quản qua nội soi bằng ống soi cứng và cải tiến nó với thạch anh Năm 1967, Sanders giới thiệu thông khí tia cho soi phế quản ống cứng Hiện nay, ống soi mềm đã dần thay thế ống soi cứng trong chẩn đoán bệnh lý phế quản, đặc biệt là ở những phế quản nhỏ và trong các phương pháp rửa phế quản-phế nang, sinh thiết xuyên thành phế quản để chẩn đoán và điều trị các bệnh lý phổi.
Phương pháp nội soi phế quản với ống soi mềm lần đầu tiên được thực hiện tại Việt Nam vào năm 1974 tại trung tâm Lao và bệnh phổi Phạm Ngọc Thạch, nhằm chẩn đoán các bệnh lý nội phế quản Đến năm 1976, kỹ thuật này được áp dụng tại khoa Tai Mũi Họng của Quân Y Viện 108.
Sau năm 1975, do thiếu kinh phí và phương tiện, ống soi mềm không còn được sử dụng và chủ yếu dùng ống soi cứng để chẩn đoán bệnh lý hô hấp Gần đây, ống soi mềm đã được trang bị lại, chủ yếu tại các bệnh viện lớn ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Việc thiếu hụt dụng cụ đồng bộ và các phương tiện cần thiết đã dẫn đến việc chỉ áp dụng những phương pháp chẩn đoán đơn giản như sinh thiết nội phế quản và hút đàm tìm vi khuẩn Điều này cho thấy chưa khai thác triệt để tiềm năng của ống soi mềm trong chẩn đoán và điều trị các bệnh lý hô hấp.
Trong những năm gần đây, tại Tp Hồ Chí Minh và Hà Nội, các bác sĩ nội soi đã áp dụng nhiều kỹ thuật tiên tiến để chẩn đoán và điều trị bệnh, bao gồm sinh thiết xuyên phế quản, rửa phế quản phế nang, và điều trị gắp dị vật qua ống soi mềm Ngoài ra, họ còn thực hiện các biện pháp điều trị cho bệnh nhân gặp tình trạng xẹp phổi cấp tính sau phẫu thuật hoặc hôn mê.
* Định nghĩa soi phế quản
Soi phế quản là sự thăm khám lâm sàng và điều trị bệnh của hệ thống khí – phế quản – phổi bằng phương pháp sử dụng ống soi phế quản
Mục đích của nội soi phế quản ống mềm
Nội soi phế quản ống mềm là phương pháp quan trọng giúp bác sĩ xác định tổn thương lành tính hay ác tính trong lòng phế quản Qua việc lấy bệnh phẩm để chẩn đoán tế bào học và mô bệnh học, phương pháp này còn cho phép thực hiện các xét nghiệm vi sinh học và miễn dịch học thông qua hút dịch phế quản và rửa phế nang Điều này hỗ trợ chẩn đoán nguyên nhân các bệnh nhiễm khuẩn phế quản phổi cũng như các bệnh lý miễn dịch và tự miễn của phổi.
Phát hiện các tổn thương: chấn thương khí phế quản, các lỗ rò khí phế quản, đánh giá các tổn thương do bỏng, do hít
Nội soi phế quản ống mềm giúp khai thông đường thở, điều trị xẹp phổi do tắc đờm
Gắp dị vật đường thở
Xác định nguyên nhân vị trí chảy máu ở phế quản phổi.
Chỉ định và chống chỉ định của nội soi phế quản ống mềm
Chỉ định của NSPQ ống mềm bao gồm chỉ định trong chẩn đoán và điều trị
1.3.1.1 Chỉ định NSPQ chẩn đoán [3]
- Xẹp phổi không rõ nguyên nhân
- Ho kéo dài không rõ nguyên nhân
- Tràn dịch màng phổi chưa rõ nguyên nhân
- Đánh giá bệnh nhân sau phẫu thuật phổi
- Xác định vị trí ống thông oxy xuyên thành khí quản
- Thắt hẹp khí phế quản
- Nói khàn, liệt dây thanh âm
- Hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên
- Tràn khí màng phổi kéo dài
1.3.1.2 Chỉ định NSPQ điều trị [3]
- Hút, rửa khí phế quản
- Loại bỏ các tổ chức ác tính hoặc lành tính gây tắc nghẽn phế quản
- Rửa phế quản phế nang
- Hút dẫn lưu ổ áp xe
- Tiêm thuốc trực tiếp vào tổn thương
- Duy trì đường thở (chèn ép phế quản vùng chảy máu)
Nội soi phế quản là một thủ thuật an toàn với chỉ bốn chống chỉ định theo hướng dẫn của hội lồng ngực Mỹ Ba trong số đó là những chống chỉ định chung cho mọi can thiệp y khoa, bao gồm bệnh nhân không đồng ý, người thực hiện thiếu kinh nghiệm và không đủ dụng cụ Chống chỉ định thứ tư là việc không cung cấp đủ oxy trong quá trình thực hiện thủ thuật.
- Chống chỉ định tương đối:
Rối loạn nhịp tim nặng
Tình trạng tim không ổn định
Thể trạng dễ chảy máu (nếu dự kiến phải sinh thiết)
1.3.3 Các biến chứng và nguy cơ có thể xảy ra
Nội soi phế quản là một thủ thuật an toàn cho sức khỏe bệnh nhân, nhưng trong một số trường hợp, có thể xảy ra nguy cơ liên quan đến thuốc và thủ thuật.
- Co thắt đường dẫn khí gây khó thở, ngạt thở
- Loạn nhịp tim, rối loạn tuần hoàn
- Nội soi ống cứng có thể làm tổn thương đường hô hấp gây chảy máu, làm rách dây thanh dẫn đến khản tiếng
- Nội soi ống mềm có thể gây chảy máu do quá trình sinh thiết lấy mẫu
- Rất hiếm trường hợp gây tràn khí màng phổi, co thắt thanh quản
- Bệnh nhân có khối u đường hô hấp có thể gây khó thở, phù nề niêm mạc đường hô hấp
- Một số trường hợp gây viêm phổi.
Các bước tiến hành nội soi phế quản ống mềm
Trước khi thực hiện soi phế quản, bệnh nhân sẽ được giải thích rõ ràng về lợi ích, sự cần thiết và tính an toàn của thủ thuật Bác sĩ sẽ động viên để giúp bệnh nhân cảm thấy yên tâm và hợp tác, từ đó đảm bảo rằng quá trình thực hiện diễn ra an toàn và thuận lợi.
Làm các xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết khác
Dung dịch lidocain 1-2% Ống soi phế quản sợi mềm
Các ống thông, kẹp lấy dị vật, bàn chải để lấy bệnh phẩm, kìm sinh thiết, các kìm chọc hút còn hoạt động tốt
Dây dẫn, bình đựng bệnh phẩm, bơm tiêm và dung dịch NaCl 0,9% là những vật dụng cần thiết trong y tế Hộp dụng cụ cấp cứu bao gồm bóng ambu, nội khí quản, bộ mở khí quản cùng với adrenalin 1mg, morphin 1mg/1ml, transamin 250mg/5ml và solu medrol 40mg, đảm bảo sẵn sàng cho các tình huống khẩn cấp.
Hệ thống oxy, máy theo dõi, máy hút, chạc ba
Găng tay, kính, khẩu trang
- Tiến hành soi phế quản:
Bệnh nhân được đặt nằm ngửa và ống soi được đưa qua mũi hoặc miệng nếu lỗ mũi hẹp Sử dụng lidocain 2% để gây tê bổ sung từ nắp thanh môn tới các phế quản thông qua ống soi Quá trình này nhằm kiểm tra toàn bộ khí quản, carina, phế quản và cựa phế quản để phát hiện các tổn thương.
Chăm sóc của điều dưỡng cho người bệnh nội soi phế quản
Can thiệp chăm sóc của điều dưỡng cho bệnh nhân nội soi phế quản diễn ra liên tục trong toàn bộ quá trình, bao gồm việc chuẩn bị bệnh nhân trước khi soi, hỗ trợ bác sĩ trong quá trình soi và theo dõi, chăm sóc bệnh nhân sau khi thực hiện nội soi phế quản.
Hiện tại, chưa có quy trình điều dưỡng cụ thể cho việc chăm sóc bệnh nhân nội soi phế quản ống mềm tại khoa Nội tổng hợp của Bệnh viện đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc Để thực hiện chăm sóc người bệnh nội soi phế quản, bệnh viện áp dụng kết hợp nhiều quy trình điều dưỡng, bao gồm quy trình chuẩn bị bệnh nhân cho các xét nghiệm cận lâm sàng, quy trình chăm sóc trước, trong và sau thủ thuật, cùng với hướng dẫn công tác điều dưỡng chăm sóc bệnh nhân theo Thông tư 07/2011/TT-BYT.
Công tác chăm sóc cho người bệnh nội soi phế quản tại khoa Nội tổng hợp Bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc gồm các nội dung sau:
- Ngày trước nội soi phế quản:
Chuẩn bị người bệnh bằng cách thực hiện đầy đủ các xét nghiệm lâm sàng cần thiết và giải thích, động viên họ về thủ thuật NSPQ Đồng thời, cần theo dõi các dấu hiệu sinh tồn để đảm bảo an toàn trong quá trình thực hiện.
+ Hướng dẫn người bệnh nhịn ăn tối thiểu 08 giờ trước thời điểm dự kiến NSPQ
+ Thực hiện y lệnh thuốc, thuốc an thần (nếu có)
- Chuẩn bị nội soi phế quản
+ Kiểm tra lại các kết quả xét nghiệm cận lâm sàng đã làm
+ Động viện tinh thần người bệnh trước khi soi, theo dõi dấu hiệu sinh tồn
+ Hướng dẫn người bệnh / người nhà người bệnh ký giấy cam đoan NSPQ
+ Kiểm tra xem người bệnh đã nhin ăn theo quy định
+ Chuẩn bị dụng cụ NSPQ
- Trong khi thực hiện nội soi phế quản
+ Theo dõi dấu hiệu sinh tồn qua Monitor
+ Thực hiện quy trình kỹ thuật
+ Động viên tinh thần bệnh nhân
- Sau khi nội soi phế quản: Tiếp tục theo dõi người bệnh trong 24 giờ
+ Theo dõi dấu hiệu sinh tồn
+ Hưỡng dẫn người bệnh tiếp tục nhịn ăn, nhin uống tối thiểu 02 giờ sau NSPQ và chỉ được ăn uống khi nhân viên y tế cho phép
+ Theo dõi các biến chứng có thể xẩy ra như các vị trí đau, triệu chứng ho, khó thở, buồn nôn, chảy máu, vật vã…
Cơ sở thực tiễn
Qua một số nghiên cứu kết quả nội soi phế quản ống mềm ta thấy NSPQ có những tai biến sau:
Nội soi phế quản là một thủ thuật chẩn đoán an toàn, nhưng có thể gây ra một số tai biến như chảy máu mũi (3,03%), đờm có máu (2,02%), và nôn (19,36%), tuy nhiên các triệu chứng này thường nhẹ và tự khỏi nhanh chóng Ống nội soi mềm giúp giảm đau và khó chịu cho bệnh nhân, mặc dù họ có thể cảm thấy muốn ho do phản xạ tự nhiên Trước khi thực hiện, bệnh nhân được sử dụng thuốc dãn cơ và lidocain gây tê tại chỗ để giảm cảm giác khó chịu Cần chú ý đến dấu hiệu co thắt thanh quản (5,39%) và theo dõi tình trạng sức khỏe tổng quát như thở oxy, mạch, huyết áp Không ghi nhận trường hợp dị ứng lidocain, tràn màng phổi, khản tiếng, sốt hay tử vong sau thủ thuật, với tỷ lệ tử vong khoảng 1/10.000 – 1/20.000 Một số bệnh nhân không hợp tác do lo sợ.
Trên thực tế chưa có nghiên cứu cụ thể về công chăm sóc NB NSPQ ở Việt Nam.
MÔ TẢ VẦN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT
Đặc điểm khoa Nội tổng hợp và quá trình triển khai kỹ thuật NSPQ
Khoa Nội tổng hợp tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc là một trong 23 khoa lâm sàng, hiện có 17 cán bộ, bao gồm 5 bác sĩ và 12 điều dưỡng, với 46 giường bệnh Khoa có nhiệm vụ tiếp nhận và điều trị các bệnh nhân nội khoa tổng hợp, bao gồm các bệnh lý hô hấp và các bệnh lý nội khoa khác có liên quan.
Kể từ cuối năm 2016, Khoa Nội tổng hợp của Bệnh viện đã cử các kíp đi đào tạo chuyên sâu về Nội soi phế quản và được đầu tư trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác này.
Nội soi khí quản là một kỹ thuật mới được áp dụng, tuy nhiên, do nguồn nhân lực còn hạn chế và quá trình đào tạo chưa đầy đủ, nên từ cuối năm 2016 đến 2017, việc triển khai kỹ thuật này gặp nhiều khó khăn, dẫn đến chỉ định nội soi phế quản chưa được mở rộng.
Từ năm 2018, khoa Nội tổng hợp đã đào tạo và thực hành thành thạo 02 kíp nội soi phế quản, cho phép thực hiện nội soi phế quản hàng tháng cho từ 70 đến 80 bệnh nhân có chỉ định Trong số đó, khoảng 15 đến 20 bệnh nhân được điều trị tại khoa.
Kỹ thuật nội soi khí quản đã được triển khai tại Khoa Nội tổng hợp Bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc từ cuối năm 2016 và thực hiện thường xuyên từ năm 2018 Tuy nhiên, hiện chưa có quy trình chăm sóc điều dưỡng riêng biệt cho bệnh nhân nội soi khí quản Hiện tại, Khoa Nội tổng hợp đang áp dụng kết hợp hai quy trình kỹ thuật điều dưỡng: quy trình chuẩn bị cho bệnh nhân làm xét nghiệm cận lâm sàng và quy trình chăm sóc bệnh nhân trước, trong và sau phẫu thuật.
Việc thiếu quy trình chăm sóc điều dưỡng chuyên biệt cho bệnh nhân nội soi phế quản đã dẫn đến nhiều hạn chế trong quá trình chăm sóc Điều này có thể khiến một số nội dung quan trọng bị bỏ sót hoặc thực hiện không đạt yêu cầu, ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ y tế.
Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
2.2.1 Đặc điểm về nhân lực điều dưỡng khoa Nội tổng hợp
Khoa Nội tổng hợp tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc có 12 điều dưỡng, tất cả đều là nữ giới Trong số đó, có 6 điều dưỡng trình độ đại học và 6 điều dưỡng trình độ cao đẳng Độ tuổi của các điều dưỡng dao động từ 32 đến 44 tuổi, trong đó có 8 điều dưỡng trong độ tuổi từ 32 đến 39 và 4 điều dưỡng trong độ tuổi từ 40 đến 44.
Thâm niên công tác, tất cả điều dưỡng có thâm niên công tác từ trên 10 năm đến 17 năm công tác
2.2.2 Đặc điểm chung của người bệnh (32 người bệnh)
Bảng 2.1 Đặc điểm về giới
Giới Số lượng Tỷ lệ
Nhận xét: Người bệnh là nam cao, chiếm 65,6%
Bảng 2.2 Đặc điểm về tuổi
Tuổi Số lượng Tỷ lệ
Nhận xét: Người bệnh nhỏ tuổi nhất là 33 tuổi, người bệnh lớn tuổi nhất là 80 tuổi
Đối tượng bệnh nhân chủ yếu nằm trong độ tuổi từ 40 đến 79, với tỷ lệ cao nhất thuộc nhóm từ 50 đến 59 tuổi, chiếm 37,4% (12 người) Nhóm tuổi từ 60 đến 69 tuổi đứng thứ hai với 15,6% (8 người bệnh).
Bảng 2.3 Đặc điểm nghề nghiệp của người bệnh
Nghề nghiệp Số lượng Tỷ lệ
Nhận xét: Nghề nghiệp chủ yếu của người bệnh là nông dân chiếm 75,1% còn lại là các nghề khác
Bảng 2.4 Đặc điểm phân bố về địa dư Địa dư Số lượng Tỷ lệ
Thực trạng công tác chăm sóc của điều dưỡng cho người bệnh nội soi phế quản
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã quan sát công tác chăm sóc của điều dưỡng đối với 32 bệnh nhân được nội soi phế quản tại khoa Nội tổng hợp trong hai tháng 06 và 07 năm nay, đồng thời tham khảo hồ sơ bệnh án của các bệnh nhân này.
Năm 2020, chúng tôi nhận thấy rằng công tác chăm sóc của điều dưỡng đối với bệnh nhân nội soi phế quản tại khoa Nôi tổng hợp đã đạt được nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế cần được cải thiện.
2.3.1 Công tác chăm sóc của điều dưỡng cho người bệnh ngày trước khi NSPQ
Bảng 2.5 Theo dõi chỉ số sinh tồn của người bệnh ngày trước NSPQ
Chỉ số sinh tồn Thực hiện Đạt tỷ lệ
Nhận xét: 100% Người bệnh được điều dưỡng theo dõi các chỉ số sinh tồn trong ngày trước khi NSPQ
Bảng 2.6 Hướng dẫn, tư vấn cho người bệnh/ người nhà người bệnh
Nội dung tư vấn và hướng dẫn thực hiện đạt tỷ lệ cao trong việc giải thích thủ thuật và động viên người bệnh, với 56,2% đạt yêu cầu Đồng thời, hướng dẫn người bệnh nhịn ăn trước khi thực hiện NSPQ tối thiểu 06 tiếng đạt 100%.
Nhận xét: - Tỷ lệ người bệnh / người nhà người bệnh được điều dưỡng giải thích về thủ thuật NSPQ dự kiến thực hiện còn hạn chế chỉ chiếm 56,2%
- 100% người bệnh được điều dưỡng hướng dẫn nhịn ăn theo quy đinh trước khi NSPQ
Bảng 2.7 Thực hiện y lệnh thuốc, các xét nghiệm cận lâm sàng
Nội dung thực hiện y lệnh Thực hiện Đạt tỷ lệ
Thực hiện các y lệnh, xét nghiệm cận lâm sàng 32 100%
Nhận xét: 100% người bệnh được điều dưỡng thực hiện các y lệnh thuốc và làm đầy đủ các xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết trước khi NSPQ
2.3.2 Công tác chăm sóc của điều dưỡng cho người bệnh trước khi NSPQ
Bảng 2.8 Chuẩn bị người bệnh, hồ sơ bệnh án trước khi NSPQ
Trong quá trình chăm sóc điều dưỡng, các hoạt động đã được thực hiện với tỷ lệ đạt 100% bao gồm kiểm tra lại các xét nghiệm cận lâm sàng, kiểm tra việc tuân thủ nhịn ăn trước khi thực hiện NSPQ, và lấy chỉ số sinh tồn như mạch, huyết áp, nhịp thở, nhiệt độ Tuy nhiên, việc giải thích về thủ thuật NSPQ và động viên người bệnh chỉ đạt 9,3%, trong khi hướng dẫn người bệnh hoặc người nhà ký cam đoan NSPQ chỉ đạt 6,2%.
Nhận xét: - 100% người bệnh được điều dưỡng theo dõi các chỉ số sinh tồn trước khi NSPQ
- 100% hồ sơ bệnh án của người bệnh trước khi NSPQ được kiểm tra các kết quả xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết đã thực hiện trước khi NSPQ
- Việc kiểm tra lại người bệnh về tuân thủ nhin ăn trước NSPQ thực hiện tốt đạt 100%
- Hầu như điều dưỡng không giải thích và động viên người bệnh trước NSPQ
- Việc hướng dẫn người bệnh/ người nhà người bệnh ký giấy cam đoan thực hiện thủ thuật NSPQ rất ít chỉ chiếm 6,2 %
2.3.3 Chuẩn bị dụng cụ NSPQ
Việc chuẩn bị đầy đủ dụng cụ cho kỹ thuật NSPQ, cùng với các thiết bị cần thiết như lọ đựng bệnh phẩm sinh thiết, là rất quan trọng và cần thực hiện trước mỗi lần tiến hành NSPQ.
Trước khi thực hiện kỹ thuật NSPQ các dụng cụ đều được kiểm tra lại về khả năng hoạt động của trang thiết bị
2.3.4 Công tác chăm sóc của điều dưỡng cho người bệnh trong khi NSPQ
Bảng 2.9 Chăm người bệnh khi NSPQ
Nội dung chăm sóc điều dưỡng Thực hiện Đạt tỷ lệ Động viên tinh thần người bệnh 32 100%
Phụ giúp bác sỹ làm thủ thuật thành thạo đúng quy trình kỹ thuật… 32 100%
Theo dõi chỉ số sinh tồn (mạch, H.A, nhịp thở, SpO2) 32 100%
Nhận xét: Điều dưỡng phụ giúp bác sỹ, thực hiện các quy trình kỹ thuật trong phòng nội soi thực hiện tốt
2.3.5 Công tác chăm sóc của điều dưỡng cho người bệnh sau NSPQ
Bảng 2.10 Theo dõi các chỉ số sinh tồn người bệnh sau NSPQ
Chỉ số sinh tồn Thực hiện Đạt tỷ lệ
Nhận xét: 100 người bệnh được điều dưỡng theo dõi các chỉ số sinh tồn trong 24 giờ đầu sau khi NSPQ
Bảng 2.11 Hướng dẫn, tư vấn cho người bệnh sau khi NSPQ
Nội dung tư vấn, hướng dẫn Thực hiện Đạt tỷ lệ
Không ăn trong 02 giờ sau NSPQ 32 100%
Không uống trong 02 giờ sau NSPQ 32 100%
Nghỉ nghơi tại phòng bệnh trong 02 giờ đầu sau NSPQ 32 100%
Nhận xét: Tỷ lệ người bệnh được điều dưỡng tư vấn nghỉ nghơi, tiếp tục nhịn ăn uống trong 02 giờ đầu sau khi NSPQ thực hiện tốt đạt 100%
Bảng 2.12 Giám sát của điều dưỡng với người bệnh sau NSPQ
Nội dung giám sát Thực hiện Đạt tỷ lệ
Không ăn trong 02 giờ sau NSPQ 32 100%
Không uống trong 02 giờ sau NSPQ 32 100%
Nghỉ nghơi tại phòng bệnh trong 02 giờ đầu sau NSPQ 32 100%
Nhận xét: Công tác giám sá của điều dưỡng với người bệnh trong việc tuân thủ các hưỡng dẫn sau NSPQ trong 02 giờ đầu rất tốt
Bảng 2.13 Theo dõi, đánh giá các vị trí đau, các triệu chứng bất thường có thể có sau NSPQ
Thời gian theo dõi, đánh giá Thực hiện Đạt tỷ lệ
Trong 02 giờ sau khi NSPQ 32 100%
Từ 02 giờ - 12 giờ sau khi NSPQ 6 18,7%
Từ 12 giờ- 24 giờ sau khi NSPQ 5 15,6%
Tất cả bệnh nhân đều được theo dõi và đánh giá các vị trí đau, cũng như theo dõi các triệu chứng bất thường khác ngay sau khi thực hiện NSPQ và trong 2 giờ đầu sau đó.
Rất ít bệnh nhân được theo dõi và đánh giá các vị trí đau cũng như các triệu chứng bất thường khác có thể xuất hiện sau khi thực hiện NSPQ trong khoảng thời gian từ 2 đến 12 giờ.
12 giờ - 24 giờ, tỷ lệ bệnh nhân được theo dõi lần lượt là 18,7% và 15,6%
BÀN LUẬN
Những việc điều dưỡng đã làm được, hiệu quả trong công tác chăm sóc bệnh nhân nội soi phế quản
3.1.1 Về công tác điều dưỡng trong theo dõi dấu hiệu sinh tồn cho người bệnh
Trong khảo sát, 32 người bệnh đã được theo dõi chặt chẽ và ghi nhận đầy đủ dấu hiệu sinh tồn từ giai đoạn chuẩn bị cho nội soi phế quản (NSPQ) cho đến khi hoàn tất quá trình theo dõi sau thủ thuật.
Theo các bảng 2.5, 2.8, 2.9, 2.10, tất cả 32 bệnh nhân đều được theo dõi và ghi nhận đầy đủ dấu hiệu sinh tồn tại các thời điểm quy định Kết quả này phản ánh sự hiệu quả trong công tác thực hành điều dưỡng, đặc biệt tại phòng nội soi phế quản, nơi được trang bị Monitor theo dõi liên tục Nhờ vậy, việc theo dõi dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân trong quá trình nội soi phế quản trở nên thuận lợi hơn, điều dưỡng chỉ cần quan sát qua màn hình Monitor.
3.1.2 Về công tác chăm sóc người bệnh, chuẩn bị dụng cụ, hồ sơ bệnh án trước NSPQ
Trước khi thực hiện NSPQ, tất cả người bệnh đều được chuẩn bị kỹ lưỡng với đầy đủ các xét nghiệm cận lâm sàng, và các kết quả này được kiểm tra lại 100% người bệnh được hướng dẫn nhịn ăn và kiểm tra việc tuân thủ quy định này trước khi tiến hành NSPQ Ngoài ra, việc thực hiện các y lệnh thuốc cũng được đảm bảo đầy đủ.
Dụng cụ NSPQ được chuẩn bị đầy đủ và kiểm tra khả năng hoạt động trước mỗi ca NSPQ
Kết quả đạt được nhờ vào việc thực hành điều dưỡng hiệu quả với bệnh nhân trước khi tiến hành thủ thuật Điều dưỡng đã chuẩn bị đầy đủ dụng cụ NSPQ và được đào tạo bài bản, thực hành tốt trong quy trình chăm sóc.
3.1.3 Công tác chăm sóc của điều dưỡng cho người bệnh trong khi NSPQ
Trong khi phụ giúp bác sỹ thự hiện kỹ thuật NSPQ điều dưỡng thực hiện rất tốt các công việc của mình
Theo bảng 2.6, công tác chăm sóc của điều dưỡng trong quá trình nội soi phế quản đạt hiệu quả cao, với 100% bệnh nhân được động viên tinh thần Điều này thể hiện sự chuyên nghiệp và kỹ năng thành thạo của đội ngũ điều dưỡng.
Trong quá trình hỗ trợ bác sĩ thực hiện nội soi cho 32 bệnh nhân, điều dưỡng đã thể hiện kỹ năng thành thạo trong việc thực hiện quy trình hỗ trợ bác sĩ.
Phòng nội soi phế quản được trang bị hệ thống Monitor đồng bộ, giúp theo dõi bệnh nhân hiệu quả trong quá trình thực hiện thủ thuật, tạo điều kiện thuận lợi cho điều dưỡng trong công tác chăm sóc bệnh nhân.
Phòng nội soi phế quản đạt được những kết quả khả quan nhờ vào sự hỗ trợ của hai điều dưỡng có trình độ chuyên môn cao, ý thức làm việc tốt và được đào tạo bài bản tại bệnh viện Bạch Mai và Viện phổi Trung Ương Họ thay phiên nhau làm việc để đảm bảo quy trình nội soi diễn ra hiệu quả.
3.1.4 Công tác chăm sóc của điều dưỡng cho người bệnh sau NSPQ
Trong 02 giờ công tác chăm sóc của điều dưỡng cho người bệnh được thực hiện tốt
Sau khi thực hiện NSPQ, tất cả bệnh nhân được hướng dẫn tiếp tục nhịn ăn và uống trong 2 giờ đầu Đội ngũ điều dưỡng sẽ giám sát để đảm bảo bệnh nhân tuân thủ đúng theo hướng dẫn này.
Người bệnh sau NSPQ trong 02 giờ đầu sau soi được theo dõi các triệu chứng bất thường có thể xẩy ra
Có được kết quả trên là do điều dưỡng của khoa thực hiện nghiêm túc quy trình kỹ thuật chăm sóc người bệnh sau khi làm thủ thuật.
Những hạn chế trong công tác chăm cho người bệnh nội soi phế quản
3.2.1 Hạn chế trong hướng dẫn, tư vấn cho người bệnh/ người nhà người bệnh trước NSPQ
Theo bảng 2.6, chỉ có 56,2% người bệnh được điều dưỡng giải thích về kỹ thuật NSPQ trước khi thực hiện Khảo sát của chúng tôi chỉ ra rằng tỷ lệ này thấp do một số nguyên nhân nhất định.
Khoa điều dưỡng hiện chỉ có 12 điều dưỡng, trong đó hàng ngày có 2 điều dưỡng nghỉ trực, 1 điều dưỡng làm việc tại phòng khám và phòng nội soi, cùng với điều dưỡng hành chính Số lượng bệnh nhân trong khoa luôn đông, thường xuyên vượt quá 45 người, trong khi kế hoạch chỉ có 45 giường bệnh Tình trạng quá tải công việc khiến thời gian điều dưỡng dành cho bệnh nhân bị hạn chế.
Chỉ có 02 trong số 12 điều dưỡng được đào tạo cơ bản về kỹ thuật thực hành trong phòng nội soi, khiến cho hầu hết cán bộ còn lại có kiến thức hạn chế về nội soi, gây khó khăn trong việc tư vấn cho bệnh nhân.
- Điều dưỡng còn phụ thuộc vào sự giải thích của bác sỹ, chưa chủ động trong việc giải thích cho người bệnh trong phạm vi lĩnh vực của mình
- Do chưa có quy trình cụ thể giành riêng cho điều dưỡng chăm sóc người bệnh NSPQ
3.2.2 Hạn chế trong công tác chuẩn bị người bệnh, hồ sơ bệnh án trước khi NSPQ
Qua bảng 2.8 chúng ta thấy công tác chăm sóc người bệnh trước NSPQ còn nhiều thiếu sót như:
- Trước khi NSPQ điều dưỡng chuẩn bị người bệnh cũng rất ít giải thích về thủ thật NSPQ chuẩn bị thực hiện, tỷ lệ giải thích chỉ đạt 9,3%
Khi người bệnh hoặc người nhà ký giấy cam đoan trước khi thực hiện thủ thuật, điều dưỡng thường không cung cấp hướng dẫn mà chỉ có bác sĩ thực hiện việc giải thích và yêu cầu ký tên.
Nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế trong công tác chăm sóc bệnh nhân NSPQ bao gồm tình trạng quá tải công việc, thiếu hụt nhân lực điều dưỡng, và kiến thức hạn chế của điều dưỡng về NSPQ do chưa được đào tạo đầy đủ Bên cạnh đó, việc chưa có quy trình cụ thể dành riêng cho điều dưỡng chăm sóc bệnh nhân NSPQ cũng khiến họ không rõ ràng về các nhiệm vụ cụ thể cần thực hiện.
3.2.3 Hạn chế trong theo dõi đánh giá tình trạng người bệnh sau NSPQ
Theo bảng 2.13, hầu hết người bệnh chỉ được theo dõi và đánh giá các vị trí đau cũng như diễn biến bất thường trong 2 giờ đầu sau khi NSPQ Tuy nhiên, tỷ lệ người bệnh được theo dõi trong khoảng thời gian từ 2 đến 12 giờ và từ 12 đến 24 giờ là rất thấp, lần lượt chỉ đạt 18,7% và 15,6%.
Nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế trong công tác điều dưỡng là do quá tải công việc và thiếu hụt nhân lực chăm sóc bệnh nhân Bên cạnh đó, việc chưa có quy trình cụ thể dành riêng cho điều dưỡng chăm sóc người bệnh NSPQ khiến cho nhân viên điều dưỡng không nắm rõ các nhiệm vụ cụ thể cần thực hiện.
Gải pháp khắc phục những hạn chế
3.3.1 Xây dựng quy trình điều dưỡng
Về thực tiện chưa có quy trình điều dưỡng: chăm sóc người bệnh nội soi phế quản
Dựa trên các quy trình điều dưỡng hiện có như chuẩn bị bệnh nhân cho xét nghiệm cận lâm sàng, chuẩn bị bệnh nhân trước phẫu thuật, và chăm sóc bệnh nhân sau phẫu thuật, tôi đề xuất xây dựng quy trình chăm sóc bệnh nhân nội soi phế quản Tôi kiến nghị phòng Điều dưỡng xem xét và nghiệm thu quy trình này, nhằm đảm bảo điều dưỡng chăm sóc người bệnh nội soi phế quản được phê duyệt thông qua hội đồng khoa học của bệnh viện.
3.2.2 Đào tạo nguồn nhân lực
Do hiện tại chỉ có 02 điều dưỡng được đạo tạo về NSPQ
Do đặc thù công việc hiện tại nhân lực điều dưỡng còn thiếu nên không thể cùng lúc cử nhiều điều dưỡng đi đào tạo tập trung
Đề nghị bệnh viện tổ chức lớp học tại chỗ cho điều dưỡng khoa Nội tổng hợp và các khoa liên quan, mời giảng viên tuyến trên về đào tạo Ngoài ra, cần mở các lớp đào tạo trực tuyến về chăm sóc bệnh nhân nội soi phế quản với sự tham gia của các chuyên gia trong lĩnh vực này.
3.2.3 Bổ xung nhân lực điều dưỡng
Tổ chức tập huấn bổ sung kiến thức về nội soi phế quản cho điều dưỡng tại khoa Nội tổng hợp và các khoa có bệnh nhân thường xuyên, nhằm nâng cao kỹ năng chuyên môn Do thiếu hụt nhân lực tại khoa, đề nghị Phòng đào tạo phối hợp tổ chức các lớp đào tạo tại chỗ và đào tạo trực tuyến để đáp ứng nhu cầu.
Đề nghị lãnh đạo bệnh viện bổ sung nhân lực điều dưỡng cho khoa, ưu tiên tuyển dụng những cá nhân có kinh nghiệm trong chăm sóc và liên quan đến nội soi phế quản, hoặc luân chuyển nhân lực từ các khoa khác có dư thừa.