Họ và tên học viên: Trần Thị Thu Hằng THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT NHIỄM KHUẨN CỦA ĐIỀU DƯỠNG TRONG THỰC HIỆN MỘT SỐ THỦ THUẬT TẠI BVYHCT TỈNH VĨNH PHÚC TRONG 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2017 Chuyên ngành
Trang 1VĨNH PHÚC TRONG 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2017
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP ĐIỀU DƯỠNG CHUYÊN KHOA CẤP I
NAM ĐỊNH - 2017
Trang 2Họ và tên học viên: Trần Thị Thu Hằng
THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT NHIỄM KHUẨN CỦA ĐIỀU DƯỠNG TRONG THỰC HIỆN MỘT SỐ THỦ THUẬT TẠI BVYHCT TỈNH
VĨNH PHÚC TRONG 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2017
Chuyên ngành: Điều dưỡng Nội người lớn
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP ĐIỀU DƯỠNG CHUYÊN KHOA CẤP I
Giảng viên hướng dẫn: TS Phạm Thị Thu Hương
NAM ĐỊNH - 2017
Trang 3MỤC LỤC
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng biểu
1.Đặt vấn đề
Mục tiêu khóa luận
2 Cơ sở lý luận và thực tiễn
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Khái quát chung về KSNK2.1.2 Một số khái niệm sử
dụng trong khóa luận
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Trên thế giới
2.2.2 Tại Việt Nam
2.2.3 Một số nội dung cập nhật trong hướng dẫn KSNK
3 Thực trạng KSNK của ĐDV trong một số thủ thuật tại BVYHCT
3.1 Thông tin chung
3.2 Các ưu, nhược điểm
3.3 Nguyên nhân của các việc đã làm được và chưa làm được
4 Đê xuất các giải pháp
4.1 Giảm thiểu KSNK của điều dưỡng trong các thủ thuật
4.2 Đảm bảo xe tiêm chuẩn
4.3 Tăng cường kiến thức vềKSNK
4.4 Đảm bảo công tác vô khuẩn trong thực hành một số thủ thuật
4.5 Giảm và tránh các thương tổn do vật sắc nhọn
5 Kết luận
5.1 Phương tiện, trang thiết bị phục vụ cho một số thủ thuật
5.2 Kiến thức, thực hành về KSNK của Điều dưỡng
5.3 Các yếu tố khác
5.4 Các giải pháp được đưa ra nhằm tăng cường KSNK
6 TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trang 4DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BKT Bơm tiêm, kim tiêm
Trang 5DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH
Hình 1: 05 thời điểm vệ sinh tay khi chăm sóc NB ( WHO: 2005)
Hình 2: Khi tiêm điều dưỡng không mang găng tay
Hình3: Xe tiêm không đảm bảo bị hoen rỉ
Hình 4: Xe tiêm sắp xếp không hợp lý
Hình 5: Hộp đựng bông gạc tẩm cồn dùng sát khuẩn vùng tiêm không đúng
Hình 6: Buồng bệnh không có vị trí vệ sinh tay bằng nước và xà phòng
Trang 7ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn bệnh viện là một trong những thách thức và mối quan tâm hàng đầu không những ở các nước đang phát triển mà còn ở hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới.Nhiễm khuẩn bệnh việnlà các nhiễm khuẩn mắc phải trong thời gian nằm viện và không hiện diện cũng như không ở giai đoạn ủ bệnh tại thời điểm nhập viện [2] Nhiễm khuẩn bệnh viện thường liên quan đến các thủ thuật xâm lấn, căn nguyên gây nhiễm khuẩn bệnh viện có thể là vi khuẩn, vi rút, nấm hoặc ký sinh trùng[8] Cùng với sự xuất hiện một số bệnh gây ra bởi những vi sinh vật kháng thuốc, hoặc bởi những tác nhân gây bệnh mới, NKBV vẫn còn là vấn đề nan giải ngay cả ở các nước tiên tiến, với tỉ lệ nhiễm khuẩn chung khá cao
Tổ chức y tế thế giới ước tính ở bất cứ thời điểm nào cũng có trên 1,4 triệu người trên thế giới mắc nhiễm khuẩn bệnh viện.Nhiễm khuẩn bệnh viện gây ra những hậu quả nặng nề, làm kéo dài thời gian điều trị, tăng chi phí cho chăm sóc sức khỏe và là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tử vong Tại Mỹ, hàng năm có khoảng 90.000 bệnh nhân tử vong do NKBV, chi phí cho chăm sóc tăng 4,5 tỷ đô
la Mỹ Tại Việt Nam, tuy chưa có được bức tranh đầy đủ về hiện trạng nhiễm khuẩn bệnh viện, song những điều tra của các bệnh viện và của Bộ Y tế cho thấy
tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện luôn dao động trong khoảng từ 3% đến 68% [3, 7, 9, 13] Một nghiên cứu tại Bệnh viện Bạch Mai cho thấy: tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ chiếm 6,7% thời gian nằm viện tăng gấp đôi và chi phí điều trị nhiễm khuẩn vết
mổ tăng 2,1 lần so với người bệnh không mắc nhiễm khuẩn vết mổ [14] Nghiên cứu của Lê Thị Anh Thư và cộng sự [31] cho thấy: chi phí điều trị cho một trường hợp nhiễm khuẩn vết mổ là 2,5 lần cao hơn chi phí cho bệnh nhân không
nhiễm khuẩn vếtmổ
Tại nước ta, vấn đề kiểm soát NKBV gần như vẫn còn ở giai đoạn đầu mới hình thành và chưa có sự đồng bộ Chưa có những công trình nghiên cứu đầy đủ về NKBV tại nước ta Do đó rất cần những nghiên cứu về NKBV trong nước, cần nắm được thực trạng của NKBV và từ đó xây dựng được những quy trình kiểm soát NKBV, cần có những nghiên cứu góp phần đánh giá tình hình NKBV, những yếu tố nguy cơ và liên quan đặc thù của NKBV, những vấn đề liên quan đến NKBV như nhận thức của nhân viên y tế về NKBV, vấn đề kháng kháng sinh, vi khuẩn gây
Trang 8bệnh Một số hướng dẫn theo mô hình của các nước đã phát triển không phù hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam nói chung, cũng như tình hình thực tế tại từng bệnh viện Vì thế nhằm giảm thiểu tình trạng nhiễm khuẩn bệnh viện nói chung và trên một số các đơn vị chăm sóc đặc biệt nói riêng, việc xây dựng quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện phù hợp với tình hình thực tế tại nước ta cần được đặt
ra Ngoài ra, việc tìm hiểu đánh giá mức độ hiểu biết nhân viên y tế về NKBV cũng rất cần thiết, để có thể xây dựng một kế hoạch huấn luyện có hiệu quả cho nhân viên về NKBV
Tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện là một trong những chỉ số quan trọng phản ánh chất lượng chuyên môn của bệnh viện, liên quan đến sự an toàn của người bệnh và nhân viên y tế, vì thế mang tính nhạy cảm về phương diện xã hội[11].Nhiều nghiên cứu đã chứng minh việc thực hiện đúng những hướng dẫn về phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện đã làm giảm rõ rệt tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện Chương trình kiểm soát NKBV tốt đưa những chuẩn mực về chất lượng chăm sóc vào trong những thực hành lâm sàng Nghiên cứu SENIC (Study on the Efficacy of Nosocomial Infection Control) thực hiện từ 1974 đến 1983 đã chứng minh kiểm soát NKBV không chỉ có hiệu quả về mặt lâm sàng mà còn có hiệu quả về kinh tế: Một chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn gồm giám sát và ứng dụng kỹ thuật có thể làm giảm được 32% NKBV hiện có Như vậy việc thực hiện đúng một chương trình kiểm soát NKBV sẽ làm giảm được khoảng 1/3 số trường hợp NKBV, giảm được 1/3 số tử vong, và tiết kiệm được 1/3 chi phí điều trị như đã nói ở trên Kiểm soát NKBV như thế có ý nghĩa thiết thực trong góp phần nâng cao chất lượng điều trị và nâng cao hiệu quả kinh tế Việc kiểm soát và dự phòng NKBV hiệu quả được xem như là một tiêu chuẩn quan trọng nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh của bệnh viện
Việc nghiên cứu về thực trạng của công tác kiểm soát nhiễm khuẩn luôn cần thiết để đánh giá chất lượng của bệnh viện Bệnh viện YHCT Vĩnh Phúc là một bệnh viện chuyên khoa hạng II có quy mô 230 giường bệnh, chức năng chính là khám bệnh, chữa bệnh bằng YHCT, kết hợp YHCT với YHHĐ Ở Vĩnh Phúc nói chung và Bệnh viện Y học cổ truyền nói riêng cũng có những nghiên cứu mang tính hệ thống đánh giá thực trạng công tác kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện tại các phòng thủ thuật đặc biệt, phòng phẫu thuật trĩ, hồi sức cấp cứu tuy nhiên, việc nghiên cứu này luôn cần phải kiểm tra và giám sát xem tổ chức tiến hành có tốt
Trang 9hay không.Hàng ngày bệnh viện có từ 250 đến 300 mũi tiêm truyền Đội ngũ điều dưỡng được đào tạo từ nhiều trường khác nhau, có trình độ chuyên môn không đồng đều: điều dưỡng có trình độ đại học là 19,2%; cao đẳng 5,2%, trung cấp 75,6% Các hoạt động của bệnh viện ngày càng phát triển không ngừng, số lượng người bệnh đến khám, điều trị và làm dịch vụ ngày càng tăng Yêu cầu đảm bảo chất lượng chăm sóc cũng như phục vụ bệnh nhân là trọng tâm và được ưu tiên Bệnh viện đã có các quy trình kỹ thuật chuẩn về kiểm sóat nhiễm khuẩn, trang bị đầy đủ về dụng cụ để thực hiện đúng về quy trình
Tuy nhiên việc tuân thủ quy trình kỹ thuật chưa cao, đặc biệt là ở các điều dưỡng mới ra trường, điều dưỡng chuyển đổi từ y sĩ YHCT Hiện nay các điều dưỡng tại bệnh viện vẫn đang làm một số thủ thuật theo thói quen không đảm bảo kiểm soát nhiễm khuẩn như vệ sinh tay thường quy, sử dụng phương tiện phòng hộ
cá nhân, sắp xếp người bệnh đảm bảo nguyên tắc phòng nhiễm khuẩn, trang thiết bị chưa đáp ứng yêu cầu, trong đó việc thực hiện quy trình các kỹ thuật chưa được đảm bảo khâu vô khuẩn đặc biệt là về mũi tiêm an toàn cho người bệnh
Vì vậy tôi làm chuyên đề này sẽ là cơ sở để bệnh viện hướng tới xây dựng chương trình can thiệp nhằm nâng cao mức độ thực hiện kiểm soát nhiễm khuẩn một số thủ thuật, góp phần tăng cường chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh và chăm sóc NB tại bệnh viện, chuyên đề này thực hiện với mục tiêu:
1 Mô tả thực trạng tuân thủ kiểm soát nhiễm khuẩn của điều dưỡng trong một số thủ thuật tại Bệnh viện Y học cổ tryền Vĩnh Phúc trong 6 tháng đầu năm 2017
2 Đề xuất một số giải pháp để nâng cao tuân thủ kiểm soát nhiễm khuẩn của điều dưỡng viên tại Bệnh viện Y học cổ truyền Vĩnh Phúc
Trang 102 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1.Khái quát chung về kiểm soát nhiễm khuẩn
Khái niệm về nhiễm khuẩn bệnh viện
Nhiễm khuẩn bệnh viện là những nhiễm khuẩn mắc phải ở bệnh viện, loại trừ những nhiễm khuẩn ở cơ sở y tế tư nhân, mà sự phòng bệnh cũng dựa trên nguyên tắc như ở bệnh viện Để giúp phân biệt NKBV với nhiễm khuẩn ở cộng đồng trong trường hợp không rõ nguồn gốc nơi bị nhiễm khuẩn hoặc trong trường hợp không xác định được thời gian ủ bệnh chúng ta coi như những nhiễm khuẩn mắc phải sau 48 giờ nhập viện là NKBV Một phần NKBV là do một số loại vi khuẩn kháng với nhiều loại kháng sinh, những loại vi khuẩn này xuất hiện trong điều kiện môi trường bệnh viện kém vệ sinh, đòi hỏi phải được điều trị để làm giảm tỷ lệ tàn tật và tỷ lệ tử vong
Lịch sử của nhiễm khuẩn bệnh viện
Trong lịch sử chống các bệnh nhiễm khuẩn nói chung và nhiễm khuẩn bệnh viện nói riêng trước tiên phải kể đến LuiPasteus, người đã có phát hiện về sự
có mặt của vi khuẩn, đặt nền móng cho môn vi sinh học đồng thời phương pháp tiệt trùng do ông đề xướng vẫn còn được ứng dụng đến ngày nay Trên cơ sở phát minh của L.Pasteus, nhà phẫu thuật Anh Josep Lisler đã nghiên cứu và kết luận nhiễm khuẩn vết mổ sau phẫu thuật cũng là do vi khuẩn Ông là ngườiđầu tiên đưa ra các nguyên tắc tiệt trùng trong phòng mổ cũng như biện pháp điều trị kiểm soát nhiễm khuẩn vết mổ và đã thu được những kết quả to lớn trong việc làm giảm nhiễm khuẩn sau phẫu thuật Sau đại chiến thế giới lần thứ II, người ta đã bắt đầu thiết kế bệnh viện với các khu điều trị riêng biệt để hạn chế việc lây lan các bệnh nhiễm khuẩn trong bệnh viện Từ khi Fleming tìm ra kháng sinh Penicilin, rất nhiều các thế hệ kháng sinh mới ra đời Với những tiến bộ đã đạt được trong lĩnh vực nghiên cứu về vi sinh vật, cơ chế truyền bệnh, vấn đề kháng sinh và các biện pháp tiệt trùng, y học đã thu được những kết quả to lớn trong việc khống chế nhiều bệnh nhiễm khuẩn nguy hiểm Tuy nhiên, việc tiêu diệt các bệnh nhiễm khuẩn nói chung và nhiễm khuẩn bệnh viện nói riêng không phải là đơn giản vì khi kháng sinh xuất hiện thì vấn đề sinh tồn của vi khuẩn không dừng lại ở
đó Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy vi khuẩn kháng lại kháng sinh ngày
Trang 11càng chiếm tỷ lệ cao và rất đa dạng Vì vậy nhiễm khuẩn bệnh viện ngày càng phức tạp kể cả ở những nước có nền kinh tế phát triển và nền y học không ngừng đổimới
Nguy cơ nhiễm khuẩn bệnh viện
- Nhiễm khuẩn bệnh viện hiện nay là một vấn đề nghiêm trọng và ngày càng có
xu hướng gia tăng Nhiễm khuẩn bệnh viện đang là một trong những mối quan tâm lớn của ngành y tế và đang được nghiên cứu ở các khía cạnh khácnhau
-Nhiễm khuẩn bệnh viện xảy ra ở khắp các nơi trên thế giới, theo WHO ước tính
ở bất kỳ thời điểm nào trên thế giới cũng có trên 1,4 triệu người trên thế giới bị
nhiễm khuẩn bệnh viện Đấu tranh chống lại các tác nhân gây nhiễm khuẩn bệnh
viện là một thách thức lớn với các nhà quản lý bệnh viện, những nhà nghiên cứu, thầy thuốc và kỹ thuật viên lâm sàng bệnhviện
- Về quy mô lâm sàng: đây là điểm dễ nhận thấy nhất, đó là tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện, tỷ lệ tử vong, các vị trí nhiễm khuẩn, các căn nguyên gây nhiễm khuẩn
và tính nhạy cảm với kháng sinh của các chủng vi khuẩn gây nhiễm khuẩn Để đi tới các biện pháp hữu hiệu nhằm khống chế nhiễm khuẩn bệnh viện, không chỉ những vấn đề trên mà cả những nguyên nhân dẫn đến nhiễm khuẩnbệnhviện,đặcbiệtlànhiễmkhuẩnsauphẫuthuậtcũngđượcquantâmnghiên cứu như: lây nhiễm trong phẫu thuật do dụng cụ y tế, do không khí ô nhiễm, do quần
áo và đồ dùng bệnh nhân, nhất là do các thủ thuật đặt catheter tĩnh mạch, đặt ổng dẫn lưu, nội khí quản
- Về hậu quả kinh tế: vấn đề này được xem xét trong nhiều năm gần đây khi mà các căn nguyên vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện ngày một kháng nhiều với các kháng sinh; việc điều trị trở nên khó khăn và tốnkém
- Nhiễm tụ cầu vàng là nhiễm khuẩn thường gặp ở các bệnh viện Theo kết quả nghiên cứu mới của các nhà khoa học thuộc trường đại học tổng hợp Northwestem (Mỹ) nhiễm khuẩn ảnh hưởng 1% bệnh nhân nằm viện kéo dài thời gian nằm viện gấp 3 lần so với bệnh nhân không bị nhiễm và có nguy cơ tử vong cao gấp 5 lần (l1,2% so với 2,3%) Nếu con số này được áp dụng trên toàn nước Mỹ thì chi phí phát sinh cho các trường hợp bị nhiễm tụ cầu vàng sẽ tới 9,5 triệu USD Các nhà khoa học khuyến cáo để giảm thiểu nguy cơ nhiễm tụ cầu vàng cần thực hiện một
Trang 12số biện pháp như: rửa tay thường xuyên đặc biệt bàn tay phẫu thuật, sử dụng kháng sinh tại chỗ và cách ly những bệnh nhân nghi ngờ [29].
2.1.2 Một số khái niệm
Chất sát khuẩn
Các chất chống vi khuẩn (ngăn ngừa nhiễm khuẩn với mô sống hoặc da) Chất này khác với chất kháng sinh sử dụng để tiêu diệt hoặc kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn một cách đặc hiệu và khác với chất khử khuẩn dụng cụ Một số loại chất sát khuẩn là chất diệt khuẩn thực sự, có khả năng tiêu diệt vi khuẩn trong khi một số loại chất sát khuẩn khác chỉ có tính năng kìm hãm, ngăn ngừa và ức chế sự phát triển của chúng.[1]
Làm sạch
Là quá trình sử dụng tác dụng cơ học để làm sạch những tác nhân nhiễm khuẩn và chất hữu cơ bám trên những dụng cụ mà không nhất thiết phải tiêu diệt được hết các tác nhân nhiễmkhuẩn
Khử nhiễm
Là bước đầu tiên xử lý hiệu quả trên những đồ vật và dụng cụ bẩn với những chất hữu cơ với mục đích làm giảm cộng đồng vi khuẩn và dễ dàng cọ rửa
về sau Khử nhiễm cũng là nhằm mục đích bảo vệ nhân viên y tế khỏi làm thao tác
xử lý dụng cụ, và nó cho phép tránh được ô nhiễm vào môitrường
Khử khuẩn
Là quá trình làm giảm thiểu số vi khuẩn gây bệnh trên dụng cụ hoặc trên
da tới mức không gây nguy hiểm tới sức khỏe, quá trình khử trùng không diệt nha bào vikhuẩn
Tiệt khuẩn
Tiêu diệt tất cả vi sinh vật sống bao gồm cả bào tử vikhuẩn
Vệ sinh tay
Việc rửa tay bằng nước và xà phòng hoặc các chất sát khuẩn Khuyến cáo và
áp dụng khi thực hiện kỹ thuật vô khuẩn [1].
Theo WHO, nhân viên y tế cần tuân thủ rửa tay ở 05 thời điểm:
1 Trước khi tiếp xúc với người bệnh
2 Trước khi làm thủ thuật vô khuẩn
3 Sau khi tiếp xúc với máu và dịch cơ thể
Trang 134 Sau khi chăm sóc người bệnh
5 Sau khi đụng chạm vào những vùng xung quanh người bệnh
Hình 1: 05 thời điểm vệ sinh tay khi chăm sóc NB ( WHO: 2005)
Dung dịch sát khuẩn tay có chứa cồn
Dịch pha chế có chứa cồn dưới dạng chất lỏng, gel hoặc kem bọt dùng để xoa/chà tay nhằm tiêu diệt hoặc làm giảm sự phát triển của vi sinh vật Các loại dung dịch này có thể chứa một hoặc nhiều loại cồn pha theo công thức được công nhận của các hãng dược phẩm
Phương tiện phòng hộ cá nhân
Phương tiện phòng hộ cá nhân bao gồm: Găng tay, khẩu trang, áo khoác phòng thí nghiệm, áo choàng, tạp dề, bao giầy, kính bảo hộ, mặt nạ Mục đích sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân là để bảo vệ nhân viên y tế, người bệnh, người nhà người bệnh khỏi bị nguy cơ phơi nhiễm và hạn chế phát tán mầm bệnh ra môi trường bên ngoài WHO không khuyến cáo sử dụng khẩu trang, găng tay, kính bảo
vệ mắt, quần áo bảo vệ trong thực hiện tiêm[19]. Các phương tiện phònghộ cá nhân này chỉ sử dụng trong trường hợp người tiêm có nguy cơ phơi nhiễm với máu, dịch tiết, chất bài tiết (trừ mồ hôi)
Kỹ thuật vô khuẩn
Là các kỹ thuật không làm phát sinh sự lan truyền của vi khuẩn trong quá trình thực hiện như: Vệ sinh tay (VST ), mang trang phục phòng hộ cá nhân, sử dụng chất khử khuẩn da, cách mở các bao gói vô khuẩn
Khái niệm về tiêm an toàn
Tiêm an toàn là mũi tiêm có sử dụng phương tiện tiêm vô khuẩn, phù hợp với mục đích, không gây hại cho người được tiêm, không gây nguy cơ phơi nhiễm cho người thực hiện tiêm, và không để lại chất thải nguy hại cho cộng đồng
Mũi tiêm không an toàn
Trang 14Mũi tiêm không an toàn có từ trong một tiêu chí thực hành không đạt trở lên bao gồm những đặc tính sau: dùng bơm tiêm, kim tiêm không vô khuẩn, tiêm không đúng thuốc theo chỉ định; không thực hiện đúng các bước của quy trình tiêm; các chất thải đặc biệt là chất thải sắc nhọn sau khi tiêm không phân loại và cô lập ngay theo quy chế quản lý chất thải của Bộ y tế[6]
Phơi nhiễm nghề nghiệp
Phơi nhiễm nghề nghiệp là sự tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết cơ thể, chất bài tiết (trừ mồ hôi) có chứa tác nhân gây bệnh trong khi nhân viên y tế thực hiện nhiệm vụ dẫn đến nguy cơ lây nhiễm bệnh[1].
Thùng đựng chất thải sắc
Còn gọi là “ Hộp đựng chất thải sắc nhọn” , hộp kháng thủng hay hộp an toàn Hộp đựng chất thải sắc nhọn được sản xuất bằng chất liệu cứng, chống thủng, chống rò rỉ được thiết kế để chứa chất thải sắc nhọn một cách an toàn trong quá trình thu gom, hủy bỏ và tiêu hủy Thùng này phải được thiết kế và quản lý theo đúng quy chế Quản lý chất thải y tế của Bộ y tế [6].
Xử lý các vật sắc nhọn sau khi tiêm
Phân loại chất thải ngay tại nguồn, cô lập ngay các vật sắc nhọn vào thùng kháng thủng đủ tiêu chuẩn, không đạy nắp kim, không uốn cong hoặc bẻ gãy kim [1].
Trang 152.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Trên thế giới
Trên thế giới, tiêm truyền được ứng dụng trong điều trị từ những năm 1920
và thịnh hành từ chiến tranh thế giới thứ II sau khi Penicilline được phát minh và đưa vào sử dụng rộng rãi WHO ước tính hằng năm tại các nước đang phát triển có khoảng 16 tỷ mũi tiêm truyền, trong đó 95% mũi tiêm vứi mục đích điều trị 3% mũi tiêm là tiêm chủng, 1% mũi tiêm với mục đích là kế hoạch hóa gia đình, 1% mũi tiêm được sử dụng trong truyền máu và các chế phẩm của máu[21]
Thực tế đã cho thấy, tiêm truyền là một thủ thuật phổ biến có vai trò rất quantrọng trong các lĩnh vực phòng bệnh và chữa bệnh Tuy nhiên, tiêm cũng gây
ra hậu quả nghiêm trọng cho cả người nhận mũi tiêm, người thực hiện mũi tiêm và cộng đồng nếu như không có những giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện mũi tiêm an toàn[1].
Theo nghiên cứu “gánh nặng bệnh tật toàn cầu do mũi tiêm nhiễm khuẩn gây
ra trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe” của Hauri và cộng sự cho thấy trung bình mỗi người nhận 3,4 mũi tiêm, trong đó 39,3% sử dụng bơm tiêm dùng lại Trong năm 2000, nhiễm khuẩn do tiêm gây ra ước tính khoảng 21 triệu ca nhiễm HBV, 2 triệu ca nhiễm HCV và 260.000 ca nhiễm HIV tương ứng chiếm tỷ lệ 32%, 40% và 5% các ca bệnh nhiễm trùng mới này cho một gánh nặng 9.177.679 DAILYS giữa năm 2000 đến năm 2030[20].
Mặc dù những hậu quả do tiêm không an toàn gây ra rất nghiêm trọng tuy nhiên, theo Trung tâm kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ và WHO có tới 80% tổn thương
do kim tiêm có thể phòng ngừa được bằng các biện pháp hết sức đơn giản như sử dụng trang thiết bị tiêm vô khuẩn và thực hiện đúng quy trình tiêm Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm soát nhiễm khuẩn (KSNK) và an toàn trong tiêm, những khó khăn của các nước thành viên và sự trách nhiệm của mình trước sự an toàn trong chăm sóc y tế, WHO đã thành lập mạng lưới tiêm an toàn toàn cầu (SIGN) vào năm 1999 Mục đích của SIGN à giảm tần số tiêm và thực hiện TAT, cải thiện chinh sách, quy trình kỹ thuật tiêm, thay đổi hành vi của người sử dụng và người cung cấp dịch vụ tiêm Các tổ chức trên cũng đã xây dựng chiến lược toàn cầu vì mũi tiêm an toàn bao gồm: (1) thay đổi hành vi của cán bộ y tế, người bệnh
và cộng đồng; (2) đảm bảo có sẵn vật tư, trang thiết bị; (3) biện pháp kiểm soát
Trang 16hành chính; (4) biện pháp kiểm soát quy trình làm việc; (5) dụng cụ bảo hộ
Với chính sách của SIGN đã tạo ra một sự thay đổi lớn trong nhận thức hành
vi của NB và cộng đồng, đặc biệt với chiến lược hỗ trợ về truyền thông, kỹ thuật và thiết bị cho các nước chậm hát triển đã dần nâng cao tỷ lệ TAT và giảm thiểu các nguy cơ và gánh nặng của tiêm không an toàn tại mỗi quốc gia và trên toàn thế giới
Trong các yếu tố gây ảnh hưởng NKBV thì bàn tay của nhân viên y tế (NVYT) là 1 mắt xích quan trọng trong dây chuyền NKBV
Tổ chức Y tế Thế giới khẳng định “Chăm sóc sạch là chăm sóc an toàn” và
“Vệ sinh tay là biện pháp đơn giản và hiệu quả nhất trong phòng ngừa NKBV” Đây
là giải pháp rẻ tiền nhất, dễ thực hiện và hiệu quả nhất Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế chỉ từ 25% đến 60% (Pittet et al.1999) Nguyên nhân của sự thiếu sự tuân thủ này được cho là nhân viên y tế không thích các loại xà phòng gây kích ứng da, thiếu nhận thức về tầm quan trọng của vệ sinh bàn tay của nhân viên y tế (NVYT), phương tiện vệ sinh tay còn thiếu,
vị trí vệ sinh tay còn chưa hợp lý Việc tuân thủ rửa tay của NVYT bị ảnh hưởng bởi nhiều vấn đề như chương trình KSNK của địa phương cũng như quốc gia, các dịch vụ chăm sóc và vấn đề từ nhân viên y tế Đã có nhiều can thiệp được thực hiện
để cải thiện sự tuân thủ rửa tay của NVYT: các nghiên cứu tập trung vào tăng cường phương tiện vệ sinh tay: tăng số lượng bồn rửa tay (Whitby và McLaws, 2004), bồn rửa tự động (Larson và cộng sự, 1991) thử nghiệm các sản phẩm mới (Traore và cộng sự, 2007) Biện pháp can thiệp giáo dục: kết hợp học tập với biểu diễn thực tế (Milward and Cooper, 2007); sử dụng áp phích (Panhotra và cộng sự,
Trang 172004), các hướng dẫn (Rummukainen và cộng sự, 2009), mô phỏng để cải tiến kỹ thuật (Widmer et al, 2007) và đào tạo trực tuyến (Lausten và cộng sự, 2009) Một giả định đã được chứng minh liên quan đến việc tuân thủ rửa tay của NVYT: hành
vi tuân thủ của NVYT sẽ được tăng cường khi chịu áp lực phản hồi từ người quản
lý, đồng nghiệp và người bệnh Các hướng can thiệp đôi khi không hiệu quả khi được thực hiện độc lập, sự phối hợp của nhiều biện pháp đem lại hiệu quả cao hơn (Gould và Drey, 2013)
Tại các nước đang phát triển, đảm bảo thực hành tiêm an toàn là một trong những thách thức lớn nhất đối với hệ thống chăm sóc sức khoẻ khi việc xử lý không
an toàn và tái sử dụng bơm kim tiêm bị ô nhiễm là phổ biến (Gyawali và cộng sự, 2013) Các biện pháp can thiệp tiêm an toàn nên kết hợp các chiến lược giáo dục, quản lý và điều tiết để có kết quả tốt hơn Cách tiếp cận tích hợp này cũng có hiệu quả về chi phí và cần được xem xét khi lên kế hoạch can thiệp Đối với các nhà quản lý thì đây là biện pháp tốn kém và thậm chí các bệnh viện hạn chế nguồn lực cũng có thể thực hiện tiêm an toàn Tạo ra một môi trường an toàn bao gồm việc hình thành một ban KSNK, đảm bảo cung cấp đầy đủ các thiết bị tiêm chất lượng và hộp đựng vật sắc nhọn với giá phù hợp, tăng cường nhận thức về tiêm an toàn, tiêm vắc xin cho người lao động bị viêm gan B và giám sát người lao động có trình độ học vấn thấp Tập huấn về thực hành tiêm an toàn cho nhà cung cấp và người xử lý chất thải nên được đưa vào kế hoạch Sự phối hợp của các ban ngành trong việc thực hiện tiêm an toàn cũng cần thiết Để can thiệp có hiệu quả và cung cấp sản phẩm với giá cả phù hợp, có thể kết hợp với các chương trình khác nhau như HIV / AIDS, chương trình tiêm chủng, kế hoạch hóa gia đình Các can thiệp cần được thực hiện đồng thời trong cộng đồng và hệ thống y tế để có kết quả tốt (Gyawali và cộng sự, 2013)
2.2.2 Tại Việt Nam
Thựchiện khyến cáo và được sự hỗ trợ kỹ thuật của WHO năm 2010, Bộ trưởng Bộ y tế Việt Nam ra quyết định số 2642/QĐ-BYT ngày 21 tháng 7 năm
2011 thành lập ban soạn thảo tài liệu hướng dẫn KSNK, trong đó có hướng dẫn TAT Ban soạn thảo gồm các thành viên có kinh nghiệm lâm sàng, giảng dạy và quản lý liên quan đến tiêm như điều dưỡng viên, Bác sĩ, dược sĩ, chuyên gia KSNK, chuyên gia khám, chữa bệnh và đại diện Hội điều dưỡng Việt Nam Tài liệu được
Trang 18biên soạn trên cơ sở tham khảo chương trình, tài liệu đào tạo TAT do Cục Quản lý khám, chữa bệnh phối hợp với Hội điều dưỡng Việt Nam xây dựng và áp dụng thí điểm tại 15 BV trong toàn quốc trong hai năm 2009 – 2010; Tham khảo kết quả rà soát các tài liệu về tiêm, vệ sinh tay, quản lý chất thải y tế và KSNK Việt Nam và các tổ chức WHO, CDC, UNDP, tài liệu hướng dẫn TAT của một số Bộ y tế các nước, các trường đào tạo điều dưỡng, các tạp chí an toàn cho người bệnh và KSNK của khu vực và của toàn thế giới[1].
Ngày 02 tháng 8 năm 2013, Cục quản lý khám, chữa bệnh, Bộ y tế cũng đã
có công văn số 671/KCB-ĐDV yêu cầu các đơn vị trực thuộc trong toàn quốc tổ chức, thực hiện nghiêm túc hướng dẫn TAT
Năm 2009, trong nghiên cứu của Phan Thị Dung và cộng sự [11] tiến hành điều tra cắt ngang bằng phiếu quan sát các chỉ số tiêm an toàn với các chỉ tiêu: loại mũi tiêm; vị trí tiêm; loại bơm kim tiêm; trên xe tiêm có hộp kháng thủng đựng VSN; hộp chống sốc đúng quy định, rửa tay/sát khuẩn tay trước và sau khi tiêm; sát khuẩn vị trí bẻ ống thuốc/nắp cao su của lọ thuốc; sát khuẩn vị trí tiêm đúng quy định; xác định đúng vị trí tiêm; dùng hai tay đậy lại nắp kim tiêm tại 12 khoa lâm sàng của bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức Kết quả báo cáo cho thấy 51% không rửa tay/sát khuẩn tay nhanh trước khi tiêm; 66,6% không sát khuẩn vị trí bẻ ống thuốc/sát khuẩn nắp cao su lọ thuốc; 3,1% sát khuẩn da vị trí tiêm không đúng kỹ thuật; 45,7% dùng 2 tay đậy lại nắp kim tiêm; 38,7% không rửa tay/sát khuẩn tay nhanh sau tiêm
Phan Văn Tường và cộng sự [15] đã tiến hành đánh giá thực hiện tiên an toàn tại BVĐK Hà Đông, Hà Nội năm 2012 trên 109 điều dưỡng đang công tác tại các khoa lâm sàng và quan sát 436 mũi tiêm được thực hiện Kết quả cho thấy: trung bình mỗi ngày cơ 1062 mũi tiêm, mỗi NB nhận 3,1 mũi tiêm, số mũi tiêm trung bình mỗi khoa là 46 mũi, số mũi tiêm tĩnh mạch chiếm tỷ lệ cao nhất (85,1%), tiêm bắp (3,6%); 37,6 % điều dưỡng bị chấn thương do VSN, nguyên nhân gây chấn thương nhiều nhất do sơ xuất chiếm 75,6%, các chấn thương do VSN trong khi tiêm phần lớn ở vị trí ngón tay (97,6%); có 82,6% điều dưỡng có kiến thức về TAT, thực hành đúng về TAT đạt 22,2%; các yếu tố liên quan đến thực hành TAT của điều dưỡng là nhóm tuổi (OR=3,1; P< 0,05) và thâm niên công tác (OR=2,8; P<0,05),
Trang 19ngoài ra còn một só yếu tố như thời điểm thực hiện mũi tiêm, đường tiêm, thứ tự thực hiện mũi tiêm cũng có liên quan đến tỷ lệ TAT (P<0,05)
Nhóm nghiên cứu cũng đưa ra một số khuyến nghị dựa trên kết quả nghiên cứu nhằm thực hiện TAT tốt hơn nữa: tăng cường công tác vô khuẩn, phòng ngừa nguy cơ lây nhiễm do tai nạn thương tích; tăng cường đào tạo nâng cao kiến thức và
kỹ 19 năng, truyền thông giáo dục nâng cao kiến thức, nhận thức và ý thức về nguy
cơ của tiêm; cần có chương trình giám sát và đánh giá TAT thường xuyên, các kết quả và thông tin liên quan phải được báo cáo lãnh đạo và phổ biến tới toàn thể nhân viên trong bệnh viện; tăng cường kiểm tra giám sát và các chế tài thưởng phạt, khen thưởng, tiến hành các nghiên cứu đánh giá về TAT; nội dung đào tạo/tập huấn về TAT cần chú trọng các nguyên tắc vô khuẩn, vệ sinh tay trước khi tiêm, vô khuẩn khi lấy thuốc và vô khuẩn kim tiêm, tăng cường các kỹ năng giao tiếp, ứng xử với người bệnh
Trong các nghiên cứu trên, dù được tiến hành tại các bệnh viện thuộc tuyến Trung Ương, tuyến Tỉnh hay tuyến Huyện nhưng kết quả cũng đều đưa ra một số các bước trong quy trình, một số yếu tố làm mất an toàn trong khi thực hiện mũi tiêm như: số mũi tiêm trung bình trong ngày mà một ĐDV phải thực hiện là rất lớn; không sát khuẩn tay nhanh trước khi thực hiện tiêm; sát khuẩn da vùng tiêm không đúng; dùng hai tay đậy nắp kim tiêm; kim tiêm không đảm bảo vô khuẩn đến lúc tiêm;
2.2.3 Một số nội dung cập nhật trong hướng dẫn KSNK đặc biệt trong thực hiện về tiêm an toàn
Bảo đảm đầy đủ các phương tiện, dụng cụ, thuốc cho các kỹ thuật tiêm truyền
Cung cấp đầy đủ phương tiện tiêm như: Bơm tiêm vô khuẩn, sử dụng một lần, đảm bảo đủ kích cỡ, yêu cầu chuyên môn và lưu ý an toàn cho người tiêm, cộng đồng
Trang bị đủ các phương tiện vệ sinh tay như: Lắp đặt đủ các bồn rửa tay ở buồng bệnh, buồng thủ thuật Cung cấp đủ nước và xà phòng, khăn lau tay sạch cho mỗi lần rửa tay hoặc dung dịch sát khuẩn tay nhanh có chứa cồn treo hoặc đặt sẵn trên các xe tiêm