1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Sinh kế của người chil ở khu dự trữ sinh quyển lang biang, tỉnh lâm đồng truyền thống và biến đổi

192 12 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 192
Dung lượng 2,75 MB

Cấu trúc

  • Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 8 (15)
  • Biang 23 (0)
  • Chương 2 SINH KẾ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI CHIL 35 (42)
  • Chương 3 SINH KẾ CỦA NGƯỜI CHIL HIỆN NAY 58 (65)
  • Chương 4 XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SINH KẾ NGƯỜI CHIL 108 (115)

Nội dung

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 8

1 1 1 Những nghiên cứu về hoạt động sinh kế nói chung

1 1 1 1 Những nghiên cứu của các học giả nước ngoài

Sinh kế là phương thức quan trọng giúp con người tồn tại và phát triển trong môi trường cụ thể Việc lựa chọn sinh kế phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội và môi trường sinh thái là rất cần thiết Juliam Steward (1902-19720) trong Lý thuyết sinh thái văn hóa đã nhấn mạnh mối quan hệ mật thiết giữa môi trường sống và văn hóa con người Ông nghiên cứu sự tương tác giữa con người, môi trường, kỹ thuật, cấu trúc xã hội và cách tổ chức công việc Cụ thể, ông quan tâm đến ảnh hưởng của nguồn tài nguyên đến cuộc sống tự cung tự cấp của cộng đồng, kỹ thuật và tổ chức lao động trong việc khai thác nguồn tài nguyên, cũng như tác động của các yếu tố này đến các khía cạnh khác của văn hóa.

Trên thế giới, vấn đề sinh kế đã thu hút sự chú ý của nhiều học giả từ sớm, với những nghiên cứu tiêu biểu như “Chúng tôi ăn rừng”, “Trồng trọt của những người tiền Đông Dương ở cao nguyên miền Trung Việt Nam”, và “Lễ nghi thức nông nghiệp của người Rơ ngao” Các công trình này chủ yếu tập trung vào sự xuất hiện và kỹ thuật canh tác nông nghiệp, mô tả giống cây và các nghi lễ liên quan Tuy nhiên, các nghiên cứu này chưa đi sâu vào phân tích và so sánh để làm rõ sự phát triển, thay đổi và các yếu tố tác động đến sản xuất nông nghiệp của các dân tộc qua từng giai đoạn.

Trong công trình “Nhân học một quan điểm về tình trạng nhân sinh”, Emily

A Schultz-Robert H Lavenda (do Phan Ngọc Chiến, Hồ Liên Biện dịch) đã đề cập đến các thuật ngữ "phương thức mưu sinh" và "phương cách sinh tồn" Tác giả nhấn mạnh rằng "sinh tồn" ám chỉ việc đáp ứng những nhu cầu vật chất thiết yếu nhất của con người, bao gồm thực phẩm, quần áo và chỗ ở Tuy nhiên, nghiên cứu này chủ yếu mang tính mô tả về sinh kế mà chưa đi sâu phân tích để khám phá những phát kiến mới.

Từ những năm 1980, khái niệm "sinh kế" đã được các học giả quốc tế sử dụng trong nghiên cứu phát triển nông thôn và giảm nghèo, thay cho cụm từ "phương thức mưu sinh" hay "phương thức sinh tồn" F Ellis nhấn mạnh rằng một sinh kế cần hội tụ đủ năm nguồn vốn: tự nhiên, vật chất, con người, tài chính và xã hội Ông cũng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế, cơ hội sinh kế và việc cải thiện tình trạng nghèo đói của người dân.

Năm 1998, Cơ quan Phát triển Quốc tế Vương quốc Anh (DFID) đã giới thiệu khái niệm sinh kế và khung sinh kế bền vững, trở thành mô hình chính cho chính sách giảm nghèo của tổ chức Sau đó, nhiều tổ chức và cá nhân trên toàn thế giới đã áp dụng khuôn mẫu và khung phân tích của DFID làm tiêu chuẩn cho nghiên cứu của họ.

Trong thời gian gần đây, vấn đề sinh kế ngày càng được chú trọng trong các dự án phát triển bền vững Nhà nghiên cứu Koos Neefies đặc biệt nhấn mạnh mối liên hệ giữa đói nghèo và biến đổi môi trường Ông cho rằng việc xây dựng chiến lược và chính sách sinh kế hiệu quả có thể giúp giải quyết nguyên nhân gây ra suy thoái môi trường và đói nghèo Do đó, ông đã phân tích sâu sắc về các chiến lược và chính sách, đồng thời đề xuất những giải pháp khả thi để giải quyết các vấn đề liên quan đến môi trường và đói nghèo.

Kasi Eswarappa tập trung vào cách mà con người sử dụng các nguồn vốn trong hoạt động sinh kế, khác với nghiên cứu của Koos Neefies.

Sinh kế là một vấn đề quan trọng được nhiều học giả quốc tế nghiên cứu từ sớm, mặc dù có những cách tiếp cận khác nhau.

Nghiên cứu về hoạt động sinh kế tại Việt Nam đã có từ sớm, chủ yếu do các học giả nước ngoài thực hiện, phục vụ cho mục đích công việc như truyền đạo hay quản lý hành chính Những học giả này đã sống lâu dài cùng các cộng đồng dân tộc thiểu số, từ đó tìm hiểu phong tục, tập quán và văn hóa của họ Họ đã dành nhiều thời gian để quan sát và mô tả chi tiết các khía cạnh đời sống của các dân tộc này Mặc dù có thể sử dụng ngôn ngữ của các dân tộc, nhưng các nghiên cứu ban đầu chủ yếu chỉ dừng lại ở việc mô tả kỹ thuật canh tác, giống cây và các nghi lễ, mà chưa đi sâu vào phân tích sự phát triển và các yếu tố tác động đến sản xuất nông nghiệp trong lịch sử Những công trình tiêu biểu như [14], [16], [55] tuy còn sơ khai nhưng là nguồn tài liệu quý giá cho các học giả trong nước tham khảo khi nghiên cứu về sinh kế của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.

Sau năm 1975, các học giả trong nước đã có điều kiện nghiên cứu sâu sắc về đời sống của các dân tộc thiểu số, đặc biệt là ở Tây Nguyên, trong bối cảnh các chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước Nghiên cứu chủ yếu tập trung vào sinh kế của các dân tộc thiểu số thông qua hoạt động sản xuất nông nghiệp, săn bắn, hái lượm và các nghề thủ công, xem đây là phần thiết yếu trong đời sống của họ Một số công trình còn chuyên sâu vào từng khía cạnh sản xuất nông nghiệp, như loạt bài viết về nương rẫy và ruộng nước của dân tộc Ba Na và các dân tộc Tây Nguyên, được đăng trên Tạp chí Dân tộc học.

[32], [33], [34], [35], Trong công trình nghiên cứu Các Dân tộc ít người ở Việt

Người Cơ Ho, đặc biệt ở các tỉnh phía Nam, chủ yếu sinh sống bằng nông nghiệp, với phương thức canh tác du canh theo chu kỳ Họ trồng trọt trên những mảnh rừng trong vài năm, sau đó để đất nghỉ ngơi cho cây rừng phát triển trước khi quay lại canh tác Mặc dù các nhóm dân tộc ít người ở Lâm Đồng cũng dựa vào nghề trồng trọt, nhưng do điều kiện địa lý và địa hình khác nhau, mỗi nhóm có những phương thức canh tác riêng Trồng trọt được coi là hoạt động sản xuất truyền thống chủ yếu của người Cơ Ho.

Trong nghiên cứu về tập quán hoạt động kinh tế của các dân tộc thiểu số ở Đông Bắc Việt Nam, Trần Bình đã mô tả một cách sinh động và chi tiết về hoạt động sinh kế của các dân tộc tại khu vực Tây Bắc và Đông Bắc Từ đó, tác giả khẳng định rằng nông nghiệp là nguồn sinh kế chủ yếu của các dân tộc trong vùng này.

Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề sinh kế, đặc biệt là của các dân tộc thiểu số, đã thu hút sự chú ý từ các nhà nghiên cứu Gần đây, cách tiếp cận vấn đề sinh kế đã có sự đổi mới, với việc áp dụng phương pháp liên ngành để phân tích đa chiều các yếu tố tác động đến sự biến đổi sinh kế Nghiên cứu cho thấy các chính sách, giao lưu văn hóa, yếu tố tôn giáo và môi trường sống là những nguyên nhân chính dẫn đến sự thay đổi này Các công trình nghiên cứu như của Tạ Hữu Dực, Phạm Thị Thu Hà và Ngô Thị Phương Lan đã chỉ ra rằng sự thay đổi sinh kế hiện nay diễn ra theo chiều hướng tích cực, phản ánh sự thích ứng và phát triển của các cộng đồng dân tộc thiểu số trong bối cảnh hiện đại.

Nguyễn Đăng Hiệp đã nghiên cứu về sinh kế của người Mạ tại vườn Quốc gia Cát Tiên, trong khi Huỳnh Ngọc Thu phân tích hoạt động kinh tế của các tộc người thiểu số ở Đông Nam Bộ, nhấn mạnh sự kết hợp giữa truyền thống và biến đổi Nguyễn Văn Sửu cũng đóng góp với công trình nghiên cứu khung sinh kế bền vững, cung cấp cái nhìn toàn diện về phát triển và giảm nghèo Những nghiên cứu này góp phần quan trọng vào việc hiểu rõ hơn về sinh kế và phát triển bền vững trong cộng đồng người dân tộc thiểu số.

Văn Sửu đ đƣợc nhiều NCS sử dụng làm khung phân tích chính trong luận án

Tổng quan các công trình nghiên cứu từ sau năm 1975 cho thấy sự đa dạng và phong phú trong nghiên cứu về sinh kế của các học giả trong nước Các nghiên cứu ngày càng đi sâu vào phân tích từng vấn đề cụ thể, từ đó đưa ra định hướng và giải pháp giúp các nhà hoạch định chính sách có cái nhìn bao quát và khách quan Đây là nguồn tư liệu quý giá, cung cấp cái nhìn đa chiều cho luận án trong việc tiếp cận và nghiên cứu vấn đề.

1 1 2 Những nghiên cứu về sinh kế của người Chil

Ngày đăng: 01/04/2022, 21:49

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w