1. Trang chủ
  2. » Cao đẳng - Đại học

Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong tố tụng dân sự (luận văn thạc sỹ luật)

75 58 3

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 75
Dung lượng 12,48 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. ĐIỀU KIỆN CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ Ở GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 1.1. Sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự (13)
    • 1.1.1. Xác định nội hàm của “sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự” (13)
    • 1.1.2. Thực tiễn xác định “sự tự nguỵện của các đương sự” và kiến nghị hoàn thiện (15)
    • 1.2. Nội dung thỏa thuận của các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội (18)
      • 1.2.1. Nội dung thỏa thuận của các đương sự không vi phạm điều cấm của luật (18)
      • 1.2.2. Nội dung thỏa thuận của các đương sự không trái đạo đức xã hội (22)
    • 1.3. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác (26)
      • 1.3.1. Xác định nội hàm “sự thỏa thuận của các đương sự làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác” (26)
      • 1.3.2. Thực tiễn xác định “sự thỏa thuận của các đương sự làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác” và kiến nghị hoàn thiện (26)
  • CHƯƠNG 2. THỦ TỤC CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ Ở GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 2.1. Lập biên bản hòa giải thành khi các đương sự thỏa thuận về nội dung giải quyết tranh chấp (30)
    • 2.1.1. Trình tự lập biên bản hòa giải thành (30)
    • 2.1.2. Bất cập khi áp dụng quy định lập biên bản hòa giải thành trong trường hợp có đương sự vắng mặt và kiến nghị hoàn thiện (31)
    • 2.2.1. Điều kiện ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự (35)
    • 2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về thời hạn ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và kiến nghị hoàn thiện (37)
    • 2.3. Hiệu lực của Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự (39)
      • 2.3.1. Quy định pháp luật về hiệu lực của Quyết định công nhận sự thủa thuận của các đương sự (39)
      • 2.3.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về quyền kháng nghị tái thẩm đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và kiến nghị hoàn thiện (41)
  • PHỤ LỤC (48)

Nội dung

Trong bối cảnh hiện nay Bộ luật tố tụng dân sự nói chung và những quy định về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong tố tụng dân sự đặc biệt là trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đã

ĐIỀU KIỆN CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ Ở GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 1.1 Sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự

Xác định nội hàm của “sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự”

Điều 5 BLTTDS năm 2015 quy định: “Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội”

Theo khoản 2 Điều 205 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nguyên tắc hòa giải yêu cầu các đương sự phải tôn trọng sự tự nguyện trong thỏa thuận, cấm việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa để buộc các bên tham gia thỏa thuận trái với ý chí của họ.

Khi tranh chấp xảy ra, việc giải quyết phụ thuộc vào ý chí của các đương sự, cho phép họ tự thỏa thuận hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền can thiệp Cơ chế này tăng cường quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp cho các bên liên quan Việc công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự được coi là phương thức tối ưu nhất, bảo đảm quyền quyết định và tự định đoạt của họ.

Trong quan hệ dân sự, các bên có quyền và nghĩa vụ bình đẳng, tự do quyết định theo ý chí của mình mà không bị can thiệp hay ràng buộc từ bên ngoài Tuy nhiên, mỗi bên chỉ có thể định đoạt những vấn đề thuộc quyền hạn của mình, không được quyền quyết định thay cho người khác Việc lừa dối, đe dọa hay uy hiếp sự tự nguyện trong thỏa thuận của người khác là hành vi xâm phạm quyền tự do cá nhân.

Pháp luật yêu cầu Tòa án thực hiện hòa giải và công nhận thỏa thuận của các bên dựa trên sự tự nguyện thực sự của họ.

Sự tự nguyện trong giải quyết tranh chấp dân sự được thể hiện qua ba nội dung chính: (i) sự tham gia tự nguyện vào hòa giải; (ii) việc thỏa thuận nội dung giải quyết vụ án một cách tự nguyện; và (iii) tòa án cần tôn trọng và ghi nhận các thỏa thuận hoàn toàn tự nguyện của các bên liên quan.

Hòa giải tự nguyện dựa trên nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, cho phép họ tự do thể hiện ý chí trong việc lựa chọn các hành vi tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp Đương sự có quyền quyết định về quyền lợi của mình trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, trong khi trách nhiệm của Tòa án là đảm bảo cho họ thực hiện quyền tự định đoạt này trong tố tụng dân sự.

Hòa giải không chỉ là trách nhiệm của Tòa án mà còn là quyền của đương sự, cho phép họ quyết định tham gia hay không Nếu bị đơn không có mặt sau hai lần triệu tập hợp lệ mà không đưa ra lý do chính đáng, họ sẽ bị coi là từ chối hòa giải Trong trường hợp này, Tòa án không được ép buộc bị đơn tham gia hòa giải, mà sẽ lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung, theo quy định tại khoản 1 Điều 207 BLTTDS năm 2015.

Trong quá trình hòa giải, các bên tranh chấp có thể thảo luận và thống nhất phương án giải quyết Tuy nhiên, nếu thỏa thuận được đưa ra do áp lực từ hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa, khiến bên tranh chấp phải lựa chọn để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của mình, thì thỏa thuận đó không được coi là tự nguyện.

Tòa án cần tôn trọng và ghi nhận các thỏa thuận tự nguyện của các bên trong việc giải quyết tranh chấp dân sự, đồng thời bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân Trong tố tụng dân sự, Tòa án có trách nhiệm đảm bảo quyền tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các đương sự.

Trong quá trình hòa giải tranh chấp, Thẩm phán cần tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của các đương sự mà không tiết lộ đường lối xét xử Thẩm phán chỉ được phân tích các quy định pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên để hỗ trợ họ tự nguyện hòa giải Quyết định về cách giải quyết vụ án thuộc về Hội đồng xét xử dựa trên pháp luật và chứng cứ, trong khi nội dung hòa giải phải do các đương sự tự quyết định Tòa án chỉ đảm bảo thủ tục cho phiên hòa giải và hướng dẫn các bên trong việc thỏa thuận.

Tòa án không can thiệp vào nội dung thỏa thuận giữa các đương sự, mà chỉ ghi nhận thỏa thuận đó bằng một văn bản có giá trị pháp lý Quyết định công nhận thỏa thuận của Tòa án chỉ được ban hành dựa trên những nội dung và vấn đề mà các đương sự đã tự nguyện đồng ý sau khi thảo luận, thương lượng và cân nhắc kỹ lưỡng.

Thực tiễn xác định “sự tự nguỵện của các đương sự” và kiến nghị hoàn thiện

Mặc dù pháp luật tố tụng hiện hành đã quy định rõ rằng việc hòa giải giữa các bên phải dựa trên sự tự nguyện, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần được giải quyết để đảm bảo tính hiệu quả và công bằng trong quá trình này.

Theo Đặng Quang Huy (2018) trong luận văn Thạc sĩ Luật học, thực tiễn xét xử cho thấy Tòa án đôi khi công nhận sự thỏa thuận của các đương sự mà không dựa trên sự tự nguyện, điều này dẫn đến vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đã ký hợp đồng tín dụng với ông Nguyễn Mạnh Thường và bà Nguyễn Thị Tuyết, cho vay 150.000.000 đồng trong thời hạn 24 tháng, với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình bị đơn Do bị đơn không trả được nợ, ngân hàng đã khởi kiện ra Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu để giải quyết.

Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã ban hành Quyết định số 36/2011/QĐST-KDTM vào ngày 27/4/2011 để công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong việc giải quyết toàn bộ vụ án Quyết định này ghi nhận thỏa thuận trả nợ giữa các bên liên quan.

Quyết định công nhận sự thỏa thuận đã bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, dẫn đến việc Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hủy bỏ quyết định này Học viên nhận định rằng HĐXXGĐT đã căn cứ vào việc các đương sự không thực sự tự nguyện trong thỏa thuận giải quyết vụ án, có sự ép buộc từ các bên liên quan, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều

Theo Điều 205 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án phải tôn trọng sự tự nguyện của các bên trong việc hòa giải và công nhận thỏa thuận của họ, không được ép buộc các bên thỏa thuận trái với ý chí của họ, nhằm hủy Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.

Từ đây có một số vấn đề đặt ra như sau:

Tiêu chí xác định tính ép buộc trong hòa giải hiện chưa được quy định rõ ràng trong pháp luật, đặc biệt khi các bên tham gia đã có mặt và tự thỏa thuận về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án.

Chứng minh sự ép buộc của đương sự trong quá trình hòa giải và tự thỏa thuận giải quyết vụ án tại Tòa án là rất khó khăn, đặc biệt khi biên bản hòa giải thành đều có chữ ký xác nhận của các bên liên quan.

2 Quyết định giám đốc thẩm số 65/2014/KDTM-GĐT ngày 25/12/2014 của Tòa án nhân dân tối cao về việc

Trong tranh chấp hợp đồng tín dụng, việc ghi âm và ghi hình trong phiên hòa giải không được phép nếu chưa có sự đồng ý của Tòa án, gây khó khăn trong việc chứng minh Tòa án cấp sơ thẩm công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của hộ gia đình ngay cả khi chỉ có người đại diện ký kết Tuy nhiên, cấp giám đốc thẩm lại yêu cầu hợp đồng phải có sự thống nhất từ tất cả các thành viên có quyền sử dụng đất chung của hộ.

Bà Tuyết đã khiếu nại sau khi Tòa án ban hành quyết định, cho rằng mình bị ép buộc ký vào biên bản hòa giải mà không có sự tự nguyện khi tham gia thỏa thuận.

Quan điểm của Tòa án cấp giám đốc thẩm: Khi giải quyết vụ án, TAND tỉnh

Bà Rịa - Vũng Tàu đã không tiến hành lấy lời khai từ các bên liên quan để xác định quyền sử dụng đất hợp pháp, nguồn gốc đất đai, và những người hưởng quyền lợi tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Thường Đồng thời, cũng cần làm rõ việc bà Tuyết không đồng ý ký hợp đồng thế chấp để vay tiền, cũng như việc bà cho rằng mình bị ép ký vào biên bản hòa giải Do đó, quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự này cần được tuyên hủy.

Theo quy định hiện hành, việc thế chấp quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình phải được thực hiện qua người đại diện và có sự đồng thuận của tất cả các thành viên có năng lực hành vi dân sự Chủ hộ, người đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phải là người tham gia ký kết hợp đồng, đảm bảo tính minh bạch và bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba Việc cấp giám đốc hủy án cấp sơ thẩm do vi phạm nội dung là hoàn toàn đúng và phù hợp với pháp luật.

Khi tham gia hòa giải tại Tòa án, sự tự nguyện của các bên là điều kiện tiên quyết; nếu có sự ép buộc, sẽ vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và có thể dẫn đến việc hủy quyết định công nhận thỏa thuận Tuy nhiên, cần xác định rõ tiêu chí nào để đánh giá việc không tự nguyện tham gia thỏa thuận, nhất là khi quyết định công nhận đã được ban hành đúng pháp luật và phù hợp với tình tiết tại thời điểm đó Có trường hợp, mặc dù các đương sự đã tự nguyện thỏa thuận và được Tòa án ghi nhận, nhưng sau đó lại cho rằng mình bị ép buộc, điều này có thể nhằm gây bất lợi cho bên khác trong vụ án.

Vấn đề này rất cần sự hướng dẫn từ TANDTC, nhằm xác định rằng trong trường hợp các đương sự tự nguyện thỏa thuận trong phiên hòa giải và không có khiếu nại nào về nội dung hòa giải, sau khi hết thời hạn hòa giải, Tòa án sẽ công nhận sự thỏa thuận đó Điều này sẽ đảm bảo rằng các đương sự đã thực sự tự nguyện đồng ý với nhau, đồng thời ngăn chặn việc lợi dụng sự tự nguyện để gây khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án và áp dụng pháp luật một cách thống nhất trong thực tiễn xét xử.

Học viên kiến nghị TANDTC cần ban hành văn bản hướng dẫn thi hành điểm a khoản 2 Điều 205 BLTTDS năm 2015 Cụ thể, tại phiên hòa giải, Thẩm phán chủ trì cần phổ biến nguyên tắc hòa giải cho các bên Nếu các đương sự đạt được thỏa thuận, trước khi ký biên bản hòa giải, Thẩm phán yêu cầu họ thể hiện ý chí tự nguyện thỏa thuận Trong trường hợp không có thay đổi nào từ các đương sự trước khi ký, họ phải tự ghi nhận sự tự nguyện của mình.

Nội dung thỏa thuận của các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội

1.2.1 Nội dung thỏa thuận của các đương sự không vi phạm điều cấm của luật 1.2.1.1 Quy định pháp luật Điều 123 BLDS năm 2015 quy định: “Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”

Theo khoản 2 Điều 205 BLTTDS năm 2015, trong quá trình hòa giải, Tòa án cần tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự Nội dung thỏa thuận phải đảm bảo không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội Đây là hai trong ba điều kiện quan trọng để giao dịch dân sự có hiệu lực theo quy định tại Điều 205.

Theo quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015, hòa giải là quá trình mà các đương sự tự thỏa thuận và thực hiện Do đó, việc các bên thống nhất giải quyết vụ án tương tự như giao dịch dân sự theo luật dân sự.

Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự phải tuân thủ quy định của pháp luật, nghĩa là họ không được phép thỏa thuận về những vấn đề mà pháp luật cấm Điều này có nghĩa là các bên chỉ có thể thỏa thuận về những nội dung mà luật cho phép, tránh vi phạm các điều khoản cấm của pháp luật.

Mọi thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật đều không được thừa nhận và không có giá trị pháp lý Dù pháp luật tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của cá nhân và tổ chức, nhưng nếu thỏa thuận đó trái với quy định pháp luật hoặc đạo đức xã hội, thì sẽ xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, người thứ ba và cộng đồng Do đó, nội dung thỏa thuận vi phạm sẽ không được pháp luật bảo vệ và thừa nhận.

Giao dịch vi phạm luật hoặc đạo đức xã hội sẽ bị coi là vô hiệu ngay từ khi được ký kết, và các bên không thể thỏa thuận để hợp pháp hóa hành vi trái pháp luật của mình Ví dụ, các vụ kiện liên quan đến tài sản vay bằng Đôla Mỹ hoặc tiền nợ từ việc sinh con thuê đều thuộc trường hợp này Tuy nhiên, trong thực tiễn, nhiều giao dịch dân sự vi phạm luật do nguyên nhân khách quan, vì vậy Tòa án cần xem xét thận trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan Khi giải quyết các vụ án này, Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu và xử lý hậu quả theo quy định của pháp luật.

1.2.1.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật và kiến nghị hoàn thiện

Theo Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015, giao dịch dân sự sẽ bị coi là vô hiệu nếu có mục đích hoặc nội dung vi phạm các điều cấm của luật hoặc trái với đạo đức xã hội Điều cấm của luật được định nghĩa là những quy định không cho phép chủ thể thực hiện các hành vi nhất định Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn về nội dung này trong thực tiễn, vẫn còn nhiều quy định chưa được làm rõ.

Theo khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 và Điều 117 Luật Nhà ở năm 2014, các quyền của người sử dụng đất và quyền giao dịch về nhà ở được liệt kê nhưng không rõ ràng về việc cấm hay cho phép các giao dịch khác như cầm cố Hiện tại, một số Tòa án cho rằng cầm cố nhà và quyền sử dụng đất là vi phạm pháp luật, dẫn đến việc tuyên hủy giao dịch và hoàn trả tài sản Ngược lại, một số Tòa án khác lại cho rằng do luật không cấm rõ ràng, nên có thể áp dụng các quy định pháp luật tương tự để giải quyết vấn đề này.

Ngày 04-4-2012, giữa ông P, bà Đ (“Nguyên đơn”) và ông N, bà T (“Bị đơn”) có xác lập hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất với diện tích 4,5 công đất ruộng, thời hạn cố đất là 03 năm với số tiền là 100.000.000 đồng Quá trình thực hiện hợp đồng nguyên đơn đã giao đủ tiền nhưng bị đơn không giao đất nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang hủy hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất trên đồng thời yêu cầu bị đơn trả lại tiền cố đất cùng tiền lãi

Hội đồng xét xử sơ thẩm đã đối chiếu các quy định pháp luật liên quan, bao gồm Điều 117, 119, 122, 123, 309, 310 của Bộ luật Dân sự năm 2015, Điểm b khoản 1 Điều 688, cùng với Điều 106 và Điều 166 của Luật Đất đai năm 2003, để đưa ra quan điểm và quyết định phù hợp với các quy định hiện hành.

Năm 2013, hợp đồng cầm cố tài sản (quyền sử dụng đất) đã bị xác định là vi phạm điều cấm của pháp luật, dẫn đến việc tuyên xử vô hiệu Đồng thời, căn cứ vào Điều 131 của Bộ luật Dân sự năm 2015, các hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu này được giải quyết.

Vụ án nêu ra vấn đề về tiêu chí xác định điều cấm của luật hiện hành chưa được quy định cụ thể Điều luật chỉ liệt kê một số trường hợp, gây ra thắc mắc liệu những trường hợp không được liệt kê có được coi là vi phạm điều cấm hay không Ngoài ra, vụ án cũng đã thu hút nhiều quan điểm khác nhau.

Tòa án đã tuyên hủy giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất, điều này được coi là đúng đắn vì người sử dụng đất chỉ có quyền thực hiện các giao dịch trong phạm vi quy định pháp luật.

Theo Lý Văn Toán (2017) trong luận văn Thạc sĩ tại Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, những vụ án dân sự không thể hòa giải hoặc không được hòa giải đã được phân tích kỹ lưỡng Tài liệu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các trường hợp mà hòa giải không thể thực hiện, từ đó nêu bật tầm quan trọng của việc áp dụng các phương pháp giải quyết tranh chấp hiệu quả trong lĩnh vực pháp luật.

Bản án số 122/2020/DS-ST ngày 19-8-2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, liên quan đến tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất, đã chỉ ra rằng pháp luật quy định rõ ràng quyền của người sử dụng đất bao gồm chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, tặng cho, thế chấp và góp vốn quyền sử dụng đất Tuy nhiên, quyền cầm cố quyền sử dụng đất không được đề cập, do đó, nếu người sử dụng đất thực hiện giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất sẽ vi phạm quy định pháp luật, dẫn đến việc giao dịch này bị coi là vô hiệu.

Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác

1.3.1 Xác định nội hàm “sự thỏa thuận của các đương sự làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác”

Theo Điều 209 BLTTDS năm 2015, nếu trong vụ án có nhiều đương sự và một số đương sự vắng mặt, nhưng những đương sự có mặt đồng ý tiến hành phiên họp mà không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự vắng mặt, Thẩm phán có quyền tiếp tục phiên họp với các đương sự có mặt.

Theo khoản 3 Điều 212 BLTTDS năm 2015, nếu các đương sự có mặt thỏa thuận về việc giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 210, thì thỏa thuận này chỉ có giá trị đối với những người có mặt Thỏa thuận sẽ được Thẩm phán công nhận, miễn là không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các đương sự vắng mặt.

Việc công nhận thỏa thuận của đương sự không chỉ ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của đương sự vắng mặt mà còn có thể tác động đến quyền lợi hợp pháp của các chủ thể khác "Chủ thể khác" không chỉ bao gồm các đương sự khác trong vụ án mà còn là những cá nhân liên quan đến nội dung thỏa thuận mà các đương sự đã đạt được Điều này có nghĩa là những chủ thể này có thể không biết về thỏa thuận trong quá trình hòa giải và không thể thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình Pháp luật tố tụng hiện hành quy định rõ rằng khi Tòa án tiến hành hòa giải và công nhận sự thỏa thuận, không được làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người khác.

1.3.2 Thực tiễn xác định “sự thỏa thuận của các đương sự làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác” và kiến nghị hoàn thiện

Trong nhiều trường hợp, Tòa án đã ban hành quyết định giải quyết vụ án dân sự mà không xem xét kỹ lưỡng các tình tiết liên quan, dẫn đến việc ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự vắng mặt hoặc các chủ thể khác không phải là đương sự Một ví dụ điển hình là các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình, trong đó các thành viên trong hộ không được Tòa án mời tham gia tố tụng Vấn đề này cần được xem xét kỹ càng để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của tất cả các bên liên quan.

Ngân hàng đã ký hợp đồng tín dụng với bà Lê Thúy H, cho bà vay 2.800.000.000 đồng với thời hạn 120 tháng, tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đã được ông Nguyễn Mạnh Q chuyển nhượng cho bà H Do bà H không thể trả nợ, ngân hàng đã khởi kiện ra Tòa án nhân dân quận B, thành phố Hà Nội để yêu cầu giải quyết.

Tòa án nhân dân quận B, thành phố Hà Nội đã ra Quyết định số 09/2016/QĐST-DS vào ngày 09/6/2016, công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự trong việc giải quyết toàn bộ vụ án, ghi nhận thỏa thuận trả nợ giữa các bên.

Quyết định công nhận sự thỏa thuận đã bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Hội đồng xét xử giám đốc thẩm (HĐXXGĐT) đã tiến hành hủy bỏ Quyết định này.

Hội đồng xét xử giám đốc thẩm đã dựa vào kết quả xác minh tại UBND phường C, cho thấy ông Q đã qua đời trước thời điểm hợp đồng tặng cho bà H được xác lập Do đó, hợp đồng này cùng với hợp đồng thế chấp tài sản giữa bà H và ông Q không có giá trị pháp lý.

H và Ngân hàng đã bị vô hiệu hóa do không đưa các đồng thừa kế của ông Q tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Do đó, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm đã bị hủy để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đồng thừa kế này.

Theo quan điểm của học viên, kết quả xác minh của UBND phường C cho thấy ông Q đã qua đời trước khi hợp đồng tặng cho bà H được lập Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa tiến hành xác minh đầy đủ về nguồn gốc đất thế chấp, dẫn đến việc không đưa các đồng thừa kế của ông Q tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Việc này đã khiến Tòa án vội vàng tổ chức phiên hòa giải, dẫn đến quyết định công nhận không đầy đủ.

9 Nguyễn Thị Hạnh, Vũ Thị Hương (2017), “Bình luận các sai sót từ việc hòa giải thành một vụ án dân sự”,

Tạp chí nghề luật (03), tr 21

Quyết định giám đốc thẩm số 12/2018/DS-GĐT ngày 15/03/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội liên quan đến "tranh chấp hợp đồng tín dụng" đã chỉ ra rằng sự thỏa thuận giữa các đương sự ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đồng thừa kế của ông Q Do đó, việc Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hủy quyết định là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật.

Vụ án thực tiễn cho thấy Tòa án đã công nhận thỏa thuận giữa các đương sự, nhưng điều này có thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba Do đó, cần có hướng dẫn rõ ràng về nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm quyền lợi của các đương sự cũng như lợi ích của các chủ thể khác, bao gồm cả những người vắng mặt trong vụ án hoặc những người không tham gia vụ án.

Học viên kiến nghị nghiên cứu và bổ sung khoản 3 Điều 205 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để đảm bảo rằng nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không được xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người khác và lợi ích của Nhà nước.

Trong chương 1, học viên đã phân tích các điều kiện công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, đồng thời chỉ ra những bất cập trong việc áp dụng thực tiễn Qua nghiên cứu quy định pháp luật và thực tiễn xét xử để giải quyết tranh chấp tại Tòa án, có thể rút ra một số kết luận quan trọng về hiệu quả và tính khả thi của các quy định hiện hành.

THỦ TỤC CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ Ở GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ 2.1 Lập biên bản hòa giải thành khi các đương sự thỏa thuận về nội dung giải quyết tranh chấp

Trình tự lập biên bản hòa giải thành

Theo khoản 5 Điều 211 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nếu các đương sự đạt được thỏa thuận trong vụ án dân sự, Tòa án sẽ lập biên bản hòa giải thành và gửi ngay biên bản này cho các bên tham gia hòa giải.

Biên bản hoà giải thành là tài liệu ghi lại quá trình hoà giải thành công trong vụ án dân sự Văn bản này được Toà án lập khi các bên liên quan đạt được thỏa thuận về các vấn đề cần giải quyết, và nó là cơ sở quan trọng để Toà án công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Theo quy định tại Điều 210 và Điều 211 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, trình tự Tòa án lập biên bản hòa giải thành bao gồm các bước sau: (i) Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; (ii) Biên bản hòa giải; và (iii) Biên bản hòa giải thành.

Sau khi kết thúc phiên hòa giải, việc gửi biên bản hòa giải thành cho đương sự vắng mặt đang gây ra nhiều tranh cãi trong thực tiễn xét xử Một số ý kiến cho rằng không cần thiết phải gửi biên bản này cho các đương sự tham gia hòa giải, trong khi đó, nhiều quan điểm khác lại cho rằng cần phải gửi ngay lập tức Do đó, cần có nghiên cứu sâu hơn để hoàn thiện quy trình này trong thời gian tới.

Việc thỏa thuận giữa các đương sự phải dựa trên cơ sở thương lượng tự nguyện, trung thực, hợp tác và thiện chí, đồng thời phù hợp với lợi ích của các bên mà không vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội Thỏa thuận này là đặc trưng cơ bản của hòa giải, thể hiện quyền tự định đoạt của các đương sự trong việc giải quyết tranh chấp, và là điểm khác biệt quan trọng giữa hòa giải và xét xử Trong trường hợp vụ án dân sự hòa giải thành, Tòa án sẽ căn cứ theo Điều 212 BLTTDS.

2015 để ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Bất cập khi áp dụng quy định lập biên bản hòa giải thành trong trường hợp có đương sự vắng mặt và kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành quy định rõ ràng về việc lập biên bản hòa giải thành khi các đương sự đạt được thỏa thuận giải quyết vụ án Tuy nhiên, trong thực tiễn, vẫn tồn tại nhiều ý kiến trái chiều liên quan đến việc lập biên bản hòa giải thành khi một số đương sự có quyền lợi nghĩa vụ vắng mặt, dẫn đến sự không thống nhất trong áp dụng pháp luật, đặc biệt trong các vụ án ly hôn.

Chị Nguyễn Thị Thắm đã khởi kiện xin ly hôn với anh Dương Quốc Phong Trong đơn khởi kiện, chị Thắm xác nhận rằng vợ chồng có ba khoản nợ chung, bao gồm nợ tại Ngân hàng TMCP Quân Đội, bà Nguyễn Thị Cúc Lâm và bà Lê Thị Nhàn Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, các vấn đề liên quan đến nợ chung cần được làm rõ.

11 Biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành ngày 02/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố

Trong vụ án ngân hàng tại tỉnh Cà Mau, các bị cáo đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn không có mặt và không gửi văn bản ý kiến đến Tòa án Đặc biệt, bà Lâm và bà Nhàn đã xin vắng mặt trong quá trình hòa giải và xét xử, đồng thời không yêu cầu đòi nợ trong vụ án này.

Tại phiên hòa giải ngày 02/4/2021, các bên đã tự thỏa thuận về việc giải quyết vụ án, dẫn đến việc Tòa án lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành Mặc dù vậy, vụ án vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.

Theo quan điểm đầu tiên, Tòa án cần gửi biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành, cũng như biên bản hòa giải trong vụ án, đến các đương sự vắng mặt.

Theo quy định tại Điều 212 BLTTDS năm 2015, Thẩm phán chỉ được công nhận thỏa thuận giữa các đương sự khi có sự đồng ý bằng văn bản của đương sự vắng mặt Điều này đảm bảo quyền và nghĩa vụ bình đẳng giữa các đương sự, vì Tòa án cần gửi biên bản hòa giải thành cho cả đương sự có mặt và vắng mặt Hơn nữa, cả hai bên đều có quyền thay đổi ý kiến trong vòng bảy ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành Do đó, việc Tòa án gửi biên bản hòa giải thành và biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn cho đương sự vắng mặt là cần thiết để đảm bảo sự công bằng trong quá trình giải quyết vụ án.

Theo quan điểm thứ hai, Tòa án không cần phải gửi biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn, biên bản hòa giải thành và biên bản hòa giải cho các đương sự vắng mặt trong vụ án.

Cơ sở luận giải dựa vào khoản 5 Điều 211 BLTTDS năm 2015, quy định rằng biên bản hòa giải thành chỉ được gửi cho các đương sự tham gia hòa giải, tức là những người có mặt tại phiên hòa giải Việc gửi biên bản cho đương sự vắng mặt là không cần thiết, vì thỏa thuận của họ không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ Đối với đương sự vắng mặt, Tòa án có thể áp dụng tinh thần quy định tại khoản 3 Điều 17 Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP, yêu cầu Tòa án lấy ý kiến bằng văn bản của đương sự vắng mặt nếu nội dung hòa giải khác với ý chí của họ đã thể hiện trước đó Nếu đương sự đồng ý với kết quả hòa giải, ngày nhận ý kiến sẽ được xác định là ngày các đương sự đạt được thỏa thuận trong vụ án.

Theo quy định, Tòa án chỉ lấy ý kiến của đương sự vắng mặt khi có sự khác biệt giữa ý kiến của họ và thỏa thuận của đương sự có mặt Nếu đương sự vắng mặt đồng ý bằng văn bản với thỏa thuận của đương sự có mặt, Tòa án sẽ lập biên bản hòa giải thành Ngược lại, nếu thỏa thuận của đương sự có mặt phù hợp với ý kiến của đương sự vắng mặt, Tòa án không cần lấy ý kiến từ đương sự vắng mặt và không phải gửi biên bản hòa giải thành cho họ.

Tòa án cần gửi biên bản hòa giải thành cho đương sự, vì theo quy định pháp luật, đương sự có quyền nhận các văn bản tố tụng khi tham gia vào quá trình tố tụng.

Quan điểm này nhấn mạnh rằng đương sự vắng mặt khi nhận biên bản hòa giải thành có quyền biết liệu quyền lợi của mình có bị xâm phạm hay không Theo Điều 70 BLTTDS năm 2015, các đương sự trong vụ án có quyền và nghĩa vụ ngang nhau, đồng thời có quyền nhận thông báo hợp lệ để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình Do đó, Tòa án cần gửi biên bản hòa giải thành cho đương sự vắng mặt để họ có cơ hội thay đổi ý kiến về vấn đề này.

Rất tiếc, không tìm thấy trang này.

Tòa án cần gửi Biên bản hòa giải thành cho cả đương sự có mặt và vắng mặt tại phiên hòa giải để đảm bảo sự công bằng trong quá trình xét xử Việc này không chỉ bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan mà còn thể hiện tính minh bạch và công bằng của hệ thống tư pháp.

Học viên đồng ý rằng biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành cần được gửi cho đương sự vắng mặt trong quá trình hòa giải Việc này giúp họ nắm bắt nội dung thỏa thuận giữa các đương sự có mặt, từ đó xác định xem thỏa thuận đó có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình hay không, cũng như so sánh với ý kiến đã gửi cho Tòa án trước đó Hơn nữa, sau khi nhận được thông tin về kết quả hòa giải, đương sự vắng mặt có thể thay đổi ý kiến ban đầu nếu không đồng ý với nội dung thỏa thuận đã được đạt thành.

Để bảo đảm quyền lợi của đương sự vắng mặt và giải quyết vụ án một cách toàn diện, Tòa án cần gửi biên bản cho đương sự này trước khi ra quyết định cuối cùng Tuy nhiên, quy định về thời gian gửi biên bản hòa giải thành cho đương sự vắng mặt vẫn chưa được quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, dẫn đến sự thiếu đồng nhất trong thực tiễn giải quyết vụ án ở các địa phương.

Từ đây có một số vấn đề đặt ra như sau:

Điều kiện ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự

2.2.1 Điều kiện ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự

Theo Điều 212 BLTTDS năm 2015, việc ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong tố tụng dân sự phải được thực hiện trong thời hạn cụ thể Cụ thể, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, nếu sau bảy ngày kể từ khi lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về thỏa thuận, thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công có trách nhiệm ra quyết định công nhận sự thỏa thuận đó.

Trong vấn đề này, cần phân biệt hai khái niệm quan trọng: Thứ nhất, thời hạn lập Biên bản hòa giải thành, diễn ra ngay tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải Các bên tham gia có quyền xem biên bản ngay sau khi phiên họp kết thúc; nếu các đương sự đạt được thỏa thuận, Tòa án sẽ lập biên bản hòa giải thành và gửi cho các bên liên quan Thứ hai, thời hạn ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Tòa án chỉ công nhận sự thỏa thuận của đương sự khi có sự đồng thuận rõ ràng giữa các bên liên quan, bao gồm việc giải quyết toàn bộ vụ án và thỏa thuận phải được tất cả đương sự có mặt trong phiên hòa giải thông qua Nếu có đương sự vắng mặt, thỏa thuận không được ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của họ; trong trường hợp có ảnh hưởng, cần có sự đồng ý bằng văn bản từ các đương sự này Khi đáp ứng đủ các điều kiện trên, Tòa án mới tiến hành công nhận sự thỏa thuận.

Thẩm phán sẽ công nhận sự thỏa thuận của các đương sự khi họ đạt được thỏa thuận giải quyết toàn bộ vụ án.

3 Trong trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 210 của Bộ luật này mà các đương sự có mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt Trường hợp thỏa thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản”

Theo học viên, có thể ghi nhận lại quy định về việc đương sự thỏa thuận

Theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 21 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP, thẩm phán chỉ có thể ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự nếu họ đạt được sự thống nhất về việc giải quyết toàn bộ vụ án, bao gồm các quan hệ pháp luật, yêu cầu của các bên và án phí Nếu các đương sự đồng ý về nội dung vụ án nhưng không thống nhất về trách nhiệm hoặc mức án phí, Toà án sẽ không công nhận sự thoả thuận này và sẽ tiến hành mở phiên toà để xét xử vụ án.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 147 và khoản 5 Điều 148 Bộ luật Dân sự năm 2015, khi xác định thời hạn bằng ngày, tuần, tháng hoặc năm, ngày đầu tiên của thời hạn sẽ không được tính, mà thời hạn sẽ bắt đầu từ ngày tiếp theo Nếu ngày cuối cùng của thời hạn rơi vào ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn sẽ kết thúc vào ngày làm việc tiếp theo sau ngày nghỉ đó.

Kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành, nếu không có đương sự nào thay đổi ý kiến, Thẩm phán sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự Mặc dù việc này có thể vi phạm thời hạn ra quyết định, nhưng không được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

14 Tòa án nhân dân tối cao (2018), Giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ (số 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018),

Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về thời hạn ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và kiến nghị hoàn thiện

Mặc dù pháp luật đã quy định rõ ràng, nhưng trong thực tiễn áp dụng vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau Nhiều ý kiến cho rằng cần bỏ thời hạn bảy ngày sau khi hòa giải thành, vì thực tế cho thấy nhiều vụ hòa giải tại Tòa án gặp khó khăn do mâu thuẫn nghiêm trọng, xung đột lợi ích lớn, liên quan đến nhiều người và chịu tác động từ nhiều phía.

Thẩm phán thành công khi thuyết phục các bên đạt được thỏa thuận và ký biên bản hòa giải, mang lại lợi ích cho tất cả và tránh được xét xử tốn kém Tuy nhiên, nhiều trường hợp trong vòng bảy ngày, các đương sự lại thay đổi ý kiến, dẫn đến việc hòa giải không còn giá trị và vụ án phải tiếp tục ra tòa Học viên sẽ trình bày một vụ án cụ thể để làm rõ vấn đề này.

Vào năm 2018, bà Nguyên và ông Nguyên đã vay 51.000.000đ từ bà Ên với lãi suất thỏa thuận và trả lãi hàng tháng Tuy nhiên, do bà Ên không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, nguyên đơn đã quyết định khởi kiện bà Ên ra Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang để thu hồi khoản nợ này.

Vào ngày 06/8/2019, tại biên bản hòa giải, các đương sự đã thống nhất giải quyết toàn bộ vụ án Ngày 14/8/2019, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang đã ban hành Quyết định số 45/2019/QĐST-DS, công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự về việc trả nợ.

Vấn đề pháp lý trong vụ án này liên quan đến thời gian ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, có nên rút ngắn hơn không Nhiều ý kiến đề xuất xem xét lại Điều 212 BLTTDS năm 2015, quy định rằng sau 7 ngày từ ngày lập biên bản hòa giải thành, nếu không có ai thay đổi ý kiến, Thẩm phán sẽ ra quyết định công nhận hòa giải Ngược lại, một số ý kiến khác cho rằng cần giữ nguyên quy định này để tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự.

Vào ngày 14 tháng 8 năm 2019, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang đã ban hành Quyết định số 45/2019/QĐ-DS, công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự trong vụ tranh chấp hợp đồng vay tài sản Quyết định này thể hiện sự giải quyết hiệu quả các mâu thuẫn liên quan đến hợp đồng vay, góp phần bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.

Quan điểm thứ nhất cho rằng nên giữ nguyên thời hạn bảy ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành Thời gian này cho phép các bên có thời gian suy nghĩ chín chắn và cân nhắc thỏa thuận của mình, đồng thời tạo cơ hội sửa chữa những sai lầm nếu có Sau thời hạn này, kết quả hòa giải sẽ đảm bảo sự thỏa mãn cho cả hai bên, dẫn đến hiệu quả tốt hơn Hơn nữa, việc duy trì thời hạn bảy ngày cũng hợp lý vì đã trở thành nguyên tắc chung trong Tòa án, giúp các bên hiểu rõ hơn và tạo thuận lợi cho cả Tòa án lẫn đương sự.

Biên bản hòa giải thành có hiệu lực thi hành ngay sau khi được ký kết, vì các bên đã cân nhắc kỹ lưỡng dưới sự phân tích và thuyết phục của Thẩm phán Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp sau khi hòa giải, các bên có thể bị ảnh hưởng bởi ý kiến từ người xung quanh, dẫn đến việc thay đổi quyết định Trong khi đó, pháp luật Nhật Bản không cho phép thay đổi thỏa thuận đã ký Tương tự, trong các vụ án kinh tế, khi trọng tài viên hòa giải và các bên đã ký vào biên bản, thỏa thuận sẽ có hiệu lực ngay lập tức, bởi các bên đã nhận thức rõ ràng về nghĩa vụ của mình.

Học viên đồng ý với quan điểm thứ hai, cho rằng cần quy định thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay khi họ đạt được thỏa thuận và ký biên bản hòa giải thành Điều này nhằm đảm bảo quyền bình đẳng giữa các bên và tính tự quyết trong thỏa thuận.

Hòa giải tại các Tòa án gặp nhiều thách thức do mâu thuẫn sâu sắc và xung đột lợi ích giữa các bên Khi Thẩm phán thành công trong việc thuyết phục các bên đạt được thỏa thuận và ký biên bản hòa giải, đó là một thành tựu mang lại lợi ích cho tất cả, giúp tránh được chi phí xét xử và kéo dài mâu thuẫn Tuy nhiên, nhiều trường hợp trong vòng 7 ngày, các đương sự lại thay đổi ý kiến, khiến kết quả hòa giải không còn giá trị và vụ án phải được xét xử lại, do đó cần quy định rõ ràng về sự thỏa thuận của các bên.

Theo bài viết của Cao Thị Thanh Loan trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, các đương sự trong biên bản hòa giải thành sẽ có hiệu lực pháp luật ngay lập tức, mà không cần phải chờ hết thời hạn 7 ngày như quy định hiện tại.

Để hoàn thiện khoản 1 Điều 212 BLTTDS năm 2015, TANDTC cần hướng dẫn rõ ràng về việc khi các đương sự đạt được thỏa thuận giải quyết vụ án, Thẩm phán sẽ lập biên bản hòa giải thành, ghi đầy đủ các thỏa thuận của các bên và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận đó Quyết định này sẽ có hiệu lực pháp luật ngay lập tức, nhằm thúc đẩy việc giải quyết vụ án nhanh chóng và thể hiện trách nhiệm của các bên tham gia hòa giải.

Học viên kiến nghị TANDTC ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Điều 212 BLTTDS năm 2015, quy định rằng nếu các đương sự đạt được thỏa thuận giải quyết toàn bộ vụ án một cách tự nguyện, không bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm pháp luật, Thẩm phán sẽ lập biên bản hòa giải thành và ghi nhận các thỏa thuận Quyết định công nhận sự thỏa thuận này sẽ có hiệu lực pháp luật ngay lập tức Đối với đương sự ở nước ngoài và vắng mặt, thời hạn lấy ý kiến sẽ thực hiện theo thủ tục ủy thác tư pháp, và Tòa án sẽ công nhận sự thỏa thuận khi nhận được ý kiến đồng ý bằng văn bản, trừ trường hợp không thể thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp hoặc không có kết quả.

Hiệu lực của Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự

2.3.1 Quy định pháp luật về hiệu lực của Quyết định công nhận sự thủa thuận của các đương sự

Theo Điều 213 BLTTDS năm 2015, Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay khi ban hành và không bị kháng cáo Quy định này dựa trên sự tự nguyện và bình đẳng của các đương sự Đồng thời, với cơ chế giám sát theo pháp luật về thủ tục tố tụng dân sự, Quyết định này đảm bảo hai yếu tố cốt lõi: tự nguyện và không vi phạm điều cấm của luật và đạo đức xã hội Do đó, khi các đương sự đã đạt được thỏa thuận và Tòa án công nhận, quyết định này sẽ có hiệu lực pháp luật ngay lập tức và bắt buộc thực hiện đối với các bên.

Học viên đồng ý rằng các thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại Tòa án thực chất là giao dịch dân sự thông thường Quyết định công nhận thỏa thuận của Tòa không chỉ mang tính công chứng mà còn có tính cưỡng chế thi hành nếu các bên không tự nguyện thực hiện Tuy nhiên, không phải mọi Quyết định công nhận đều có hiệu lực pháp lý vĩnh viễn; nếu có chứng cứ cho thấy thỏa thuận trước đó bị thực hiện do nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, hoặc nếu có tình tiết mới xuất hiện, thì Quyết định công nhận của Tòa có thể được xem xét lại thông qua thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

Khi các bên đương sự đạt được sự đồng thuận và thống nhất về phương pháp giải quyết vụ án dân sự một cách tự nguyện, bình đẳng, mà không vi phạm các điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội, thì căn cứ theo khoản 1 Điều

Theo quy định tại Điều 213 BLTTDS năm 2015, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay khi được ban hành và không bị kháng cáo hay kháng nghị Điều này được lý giải bởi vì trong quá trình giải quyết, các bên đã có sự trao đổi và hiểu biết về ý định cũng như thiện chí của nhau Trước khi Tòa án ra quyết định, các bên có thời gian bảy ngày để suy nghĩ và cân nhắc lại các cam kết đã thống nhất Hơn nữa, cơ chế giám sát của đại diện các bên liên quan cũng được thực hiện một cách tỉ mỉ trong suốt quá trình này.

Việc công nhận thỏa thuận của đương sự có hiệu lực ngay theo quy định là hợp lý, nhưng không đảm bảo rằng mọi quyết định công nhận đều chính xác Để tránh sai sót hoặc vi phạm trong quá trình xem xét thỏa thuận, cần tuân thủ khoản 2 Điều 213.

Tòa án nhân dân tối cao (1996) đã đề cập đến một số vấn đề quan trọng liên quan đến cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải cách hệ thống pháp luật để đáp ứng nhu cầu thực tiễn và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân.

Theo quy định tại BLTTDS năm 2015, quyết định này chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đã được thực hiện do nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép, hoặc vi phạm các điều cấm của pháp luật và trái với đạo đức xã hội.

Theo khoản 2 Điều 213 BLTTDS năm 2015, Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, không đề cập đến thủ tục tái thẩm Điều này đặt ra vấn đề lý luận cần nghiên cứu phù hợp với Điều 351 BLTTDS năm 2015, quy định rằng tái thẩm là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị do có tình tiết mới có thể thay đổi nội dung bản án Quyết định công nhận sự thỏa thuận cũng là một quyết định có hiệu lực pháp luật, nhưng hiện có hai quy định khác nhau mâu thuẫn nhau Do đó, cần có nghiên cứu để thống nhất pháp luật và thực tiễn xét xử.

2.3.2 Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về quyền kháng nghị tái thẩm đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và kiến nghị hoàn thiện

Mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 đã quy định về hiệu lực của Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, nhưng trong thực tiễn áp dụng pháp luật vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau Điều này dẫn đến sự không thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật, đặc biệt là do sự mâu thuẫn giữa khoản 2 Điều 213 và Điều 351 của BLTTDS năm 2015.

Khoản 2 Điều 213 BLTTDS năm 2015 không quy định việc xem xét lại quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự theo thủ tục tái thẩm, mặc dù quyết định này được xem là “quyết định đã có hiệu lực.”

Giữa khoản 2 Điều 213 và Điều 351 của BLTTDS năm 2015 tồn tại mâu thuẫn, gây ra sự không thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật Nếu hiểu theo khoản 2 Điều 213, quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự không được kháng nghị theo thủ tục tái thẩm Ngược lại, theo Điều 351, quyết định này lại có thể bị kháng nghị, dẫn đến sự khó khăn trong việc thực thi pháp luật.

Trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Thùy Linh (2018) về sự công nhận thỏa thuận của các đương sự trong tố tụng dân sự tại Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn, tác giả đã chỉ ra rằng quyết định của Tòa án có thể bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, do đã có hiệu lực pháp luật Để minh chứng cho quan điểm này, học viên đã đưa ra một vụ án cụ thể làm ví dụ.

Bà Viên Thị Thanh L đã cho vợ chồng bà Nguyễn Thị Ngọc O và ông Nguyễn Quốc H vay 3.000.000.000 đồng trong thời hạn 01 tuần, kèm theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản khác làm tài sản đảm bảo Do vợ chồng bị đơn không trả được nợ, bà L đã khởi kiện họ ra Tòa án nhân dân huyện NP, tỉnh NT để yêu cầu giải quyết.

Tòa án đã ban hành Quyết định số 14/2017/QĐST-DS vào ngày 27/6/2017, công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự về việc giải quyết toàn bộ vụ án và ghi nhận thỏa thuận trả nợ giữa các bên.

Ngày đăng: 01/04/2022, 21:31

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w