CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN…
Cơ sở lý luận
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tiêu chảy cấp là tình trạng trẻ em đi ngoài nhiều hơn 3 lần trong 24 giờ với phân lỏng, nhiều nước hoặc phân sống Bệnh tiêu chảy cấp tính này thường kéo dài không quá 14 ngày.
Đợt tiêu chảy được định nghĩa là giai đoạn bắt đầu khi trẻ đi tiêu chảy hơn 3 lần trong 24 giờ và kéo dài cho đến ngày cuối cùng trẻ còn tiêu chảy trên 3 lần Sau đó, nếu trẻ đi ngoài phân trở lại bình thường trong ít nhất 2 ngày, tình trạng được coi là ổn định Tuy nhiên, nếu sau 2 ngày trẻ tiếp tục đi tiêu chảy hơn 3 lần mỗi ngày, cần phải đánh giá lại tình trạng mất nước và ghi nhận là một đợt tiêu chảy mới.
Các tác nhân gây bệnh TCC thường lây lan qua đường phân - miệng Phân của trẻ mắc bệnh có thể làm nhiễm bẩn thực phẩm hoặc nước uống Trẻ em có nguy cơ mắc TCC khi tiêu thụ thực phẩm hoặc nước bị ô nhiễm, hoặc khi tiếp xúc trực tiếp với nguồn lây nhiễm.
- Rotavirus: Thường là nguyên nhân gây tiêu chảy ở trẻ em dưới 24 tháng tuổi
- Các virus khác có khả năng gây tiêu chảy: Adenovirus, Enterovirus, Norwalkvirus
- Coli đường ruột Escherichia Coli ( E.Coli) có 5 tuýp gây bệnh
+ Coli sinh độc tố ruột Esterotoxigenic E.Coli (E.T.E.C)
+ Coli bám dính Enteroadherent E Coli (E.A.E.C)
+ Coli gây bệnh Entero pathogenic E Coli (E.P.E.C)
+ Coli xâm nhập Enteroinvasive E Coli (E.I.E.C)
+ Coli gây chảy máu ruột Enterohemorrhagic E Coli (E.H.E.C)
Trong 5 loại trên, Coli sinh độc tố ruột (ETEC) là tác nhân quan trọng gây tiêu chảy cấp, phân toé nước ở người lớn và trẻ em ở các nước đang phát triển
ETEC không xâm nhập vào niêm mạc ruột mà gây tiêu chảy thông qua các độc tố, bao gồm độc tố không chịu nhiệt LT (heat labile toxin) và độc tố chịu nhiệt ST (heat stable toxin), với cơ chế tương tự như bệnh tả.
- Trực khuẩn lỵ (Shigella): Gây hội chứng lỵ phân máu
- Campylobacter jejuni: Gây bệnh ở trẻ nhỏ, tiêu chảy phân nước hoặc phân máu
- Vi khuẩn tả Vibrio cholerae: Gây tiêu chảy xuất huyết bằng độc tố tả, mất nước và mất điện giải nặng ở cả trẻ em và người lớn
- Entamoeba histolytica: Entamoeba hystolytica xâm nhập vào liên bào đại tràng hay hồi tràng, gây nên các ổ áp xe nhỏ, rồi loét, làm tăng tiết chất nhày lẫn máu
- Giardia lamblia: Là đơn bào bám dính lên liên bào ruột non, làm teo các nhung mao ruột, dẫn đến giảm hấp thu, gây ra ỉa chảy
Cryptosporidium là một tác nhân gây tiêu chảy phổ biến, đặc biệt ở trẻ nhỏ và những bệnh nhân có hệ miễn dịch suy giảm Loại ký sinh trùng này bám vào niêm mạc ruột non, dẫn đến teo nhung mao ruột, gây ra tình trạng tiêu chảy nặng và kéo dài Ngoài ra, Cryptosporidium cũng ảnh hưởng đến nhiều loại gia súc, làm tăng nguy cơ lây lan bệnh.
Nấm Candida albicans là nguyên nhân phổ biến gây bệnh tiêu chảy, thường sống ký sinh trong ống tiêu hóa mà không gây bệnh tự nhiên Tuy nhiên, khi gặp điều kiện thuận lợi như việc sử dụng thuốc kháng sinh kéo dài, nấm này có thể phát triển mạnh mẽ và dẫn đến tình trạng tiêu chảy.
Khoảng 20% trong tổng số các nguyên nhân gây tiêu chảy
* Các yếu tố nguy cơ
Các yếu tố vật chủ làm tăng tính cảm thụ với bệnh tiêu chảy [2]
- Tuổi: Trẻ dưới 24 tháng tuổi hay bị tiêu chảy, đặc biệt là trẻ ở độ tuổi 6 - 11 tháng (trẻ trong giai đoạn ăn sam)
- Tình trạng suy dinh dưỡng: Trẻ suy dinh dưỡng dễ mắc bệnh tiêu chảy và bệnh lại thường nặng, dễ gây tử vong
- Tình trạng suy giảm miễn dịch: Trẻ bị bệnh sởi, bị AIDS thường tăng tính cảm thụ đối với bệnh tiêu chảy
- Cơ địa: Trẻ đẻ non, đẻ yếu
- Tiêu chảy do virus thường xảy ra vào mùa đông
- Tiêu chảy do vi khuẩn thường xảy ra vào mùa hè
Những tập quán làm tăng nguy cơ tiêu chảy [3]
- Trẻ không được bú mẹ, ăn nhân tạo không đúng phương pháp
- Cho trẻ bú bình, vì bình và vú cao su rất khó rửa sạch
- Ăn sam sớm, thức ăn để lâu
- Sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm
- Chế độ vệ sinh cá nhân, vệ sinh ăn uống kém
Các nhiễm khuẩn ngoài ruột cũng có thể gây ỉa chảy:
- Viêm tai giữa, viêm tai xương chũm
- Nhiễm trùng đường tiết niệu
Tình trạng lạm dụng kháng sinh
Lạm dụng kháng sinh ở trẻ em, đặc biệt là các loại kháng sinh đường uống, có thể tiêu diệt vi khuẩn có lợi trong cơ thể, dẫn đến tình trạng ỉa chảy do rối loạn khuẩn.
1.1.3 Hậu quả của tiêu chảy
Giảm hấp thu và tăng bài tiết nước cùng với natri tại ruột dẫn đến tình trạng phân lỏng, gây mất nước và natri trong cơ thể.
Ngay sau lần tiêu chảy đầu tiên, cơ thể đã bắt đầu mất nước Triệu chứng mất nước lâm sàng chỉ xuất hiện khi mất 5% trọng lượng cơ thể Nếu trẻ tiêu chảy mất tới 10% trọng lượng, có thể xảy ra sốc do giảm khối lượng tuần hoàn, và mất hơn 10% trọng lượng cơ thể sẽ dẫn đến nguy cơ tử vong cao.
Mất kali và bicarbonat do sự đào thải qua phân dẫn đến giảm kali máu và toan hoá máu Khi kali trong máu giảm, cơ thể sẽ gặp phải tình trạng giảm trương lực cơ, từ nhẹ như liệt ruột cơ năng gây chướng bụng, đến nặng hơn là nhược cơ toàn thân, loạn nhịp tim và có thể dẫn đến tử vong.
Để phòng ngừa tử vong do tiêu chảy ở trẻ em, biện pháp hiệu quả nhất là ngăn chặn tình trạng mất nước nghiêm trọng Cần bổ sung nước và điện giải cho trẻ ngay từ khi bắt đầu có triệu chứng tiêu chảy.
1.1.4 Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng [1]
Tiêu chảy là tình trạng tiêu hóa đột ngột, biểu hiện bằng việc đi tiêu nhiều lần với phân lỏng, có thể kèm theo nhầy, máu và mùi khó chịu Trong một số trường hợp, phân có thể tự chảy ra do cơ co thắt hậu môn bị liệt.
Nôn thường xảy ra trước khi trẻ có triệu chứng ỉa lỏng, có thể bắt đầu từ vài giờ đến vài chục giờ Tình trạng nôn có thể diễn ra liên tục hoặc chỉ xảy ra một vài lần trong ngày, dẫn đến việc trẻ bị mất nước, cũng như mất H+ và Cl Nguyên nhân chính gây ra tình trạng này thường là do Rotavirus hoặc tụ cầu.
Biếng ăn: Biếng ăn thường xuất hiện sớm ngay sau khi trẻ bị tiêu chảy Trẻ thường từ chối các thức ăn thông thường, chỉ thích uống nước
Trẻ em thường tỉnh táo, nhưng khi mất nước, có thể trở nên quấy khóc hoặc thậm chí li bì, hôn mê trong trường hợp mất nước nặng dẫn đến sốc giảm khối lượng tuần hoàn Khi quan sát trẻ uống nước, nếu có dấu hiệu mất nước, trẻ sẽ uống một cách háo hức; ngược lại, nếu không cho uống, trẻ sẽ khóc Trong tình trạng mất nước nặng, trẻ có thể uống kém hoặc không uống được.
Mắt: Nhìn xem có trũng không? Hỏi người mẹ có khác khi bình thường ? Nước mắt khi trẻ khóc xem có nước mắt không?
Cơ sở thực tiễn: Các nghiên cứu trong và ngoài nước
Các nghiên cứu trong và ngoài nước:
Tiêu chảy là một vấn đề sức khỏe nghiêm trọng toàn cầu, đặc biệt ảnh hưởng đến trẻ em Giảm tỷ lệ mắc và tử vong do tiêu chảy ở trẻ em là ưu tiên hàng đầu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) Kể từ năm 1978, WHO đã triển khai chương trình phòng chống và quản lý bệnh tiêu chảy, nhằm giảm thiểu tác động của bệnh này Trong đó, kiến thức và hiểu biết của các bà mẹ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe trẻ nhỏ.
Nghiên cứu của Datta V tại Ấn Độ cho thấy 68% bà mẹ hiểu đúng định nghĩa về tiêu chảy, tuy nhiên chỉ có 5,3% nhận thức được rằng tiêu chảy có thể dẫn đến mất nước Đáng chú ý, 60% bà mẹ đã thực hành bù nước qua liệu pháp bù nước bằng đường miệng (ORT).
Nghiên cứu của Manijieh Khalili chỉ ra rằng 64,3% bà mẹ có kiến thức tốt về tiêu chảy ở trẻ nhỏ, nhưng chỉ có 3,7% thực hiện chế độ ăn đúng và chỉ 2,3% thực hành tốt các biện pháp phòng ngừa.
Nghiên cứu của Famara Sillah về kiến thức, thái độ và thực hành bù nước đường uống cho trẻ tiêu chảy dưới 5 tuổi cho thấy rằng các bà mẹ có trình độ học vấn cao hơn có kiến thức tốt hơn về bệnh tiêu chảy Tuy nhiên, tỷ lệ sử dụng dung dịch bù nước đường uống trong thực tế chỉ đạt 4% Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra mối liên hệ giữa độ tuổi của mẹ, tình trạng kinh tế và xã hội với thực hành chăm sóc trẻ bị tiêu chảy.
Nghiên cứu của Kudlova năm 2010 về "Quản lý tại nhà đối với tiêu chảy cấp ở trẻ em Czech" đã chỉ ra rằng tỷ lệ các bà mẹ có kiến thức về dung dịch bù nước orezol (ORS) và việc sử dụng ORS trong giai đoạn cuối của bệnh rất thấp Kết quả này cho thấy mối liên hệ rõ ràng giữa trình độ học vấn của các bà mẹ và khả năng áp dụng kiến thức về ORS trong việc điều trị tiêu chảy cấp cho trẻ.
Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện tại bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn từ tháng 11/2012 đến tháng 5/2013 nhằm mô tả đặc điểm dịch tễ học của các ca bệnh tiêu chảy cấp do Rotavirus ở trẻ em dưới 24 tháng tuổi Kết quả cho thấy có 273 trẻ bị tiêu chảy cấp, trong đó 97 ca do Rotavirus, chiếm 35,5% Tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở trẻ nam (60,8%) so với trẻ nữ (39,2%).
Một nghiên cứu tại khoa Nhi bệnh viện đa khoa Xanh Pôn cho thấy trong số 121 trẻ nhập viện vì tiêu chảy cấp, tỷ lệ trẻ nam mắc bệnh cao hơn trẻ nữ, với 69,4% và 30,6% Độ tuổi thường gặp nhất là từ 6-12 tháng, chiếm 63,6% Việc nhận thức và chăm sóc đúng cách của các bà mẹ khi trẻ bị ốm có ảnh hưởng lớn đến kết quả điều trị Một nghiên cứu tại bệnh viện Đa khoa Đăk Lăk cho thấy tỷ lệ bà mẹ có kiến thức, thái độ và hành vi đúng về bệnh tiêu chảy lần lượt là 34,4%; 96,3% và 35,4%.
Nghiên cứu của Trịnh Ngọc Hân cho thấy tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi mắc bệnh tiêu chảy ở các tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ là khá cao, với mức trung bình dao động từ 15,8% đến 22,2% Điều này nhấn mạnh sự cần thiết phải nâng cao kiến thức và thực hành của các bà mẹ trong việc phòng chống tiêu chảy cho trẻ em.
Nghiên cứu của Phan Thị Cẩm Hằng và Nguyễn Văn Bàng tại khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai năm 2007 cho thấy rằng 58,8% các bà mẹ có kiến thức về tác dụng của dung dịch ORS, trong khi 41,2% biết đến hai loại gói ORS có sẵn tại các hiệu thuốc Tuy nhiên, 72,9% các bà mẹ không nắm rõ thành phần của gói ORS, và chỉ 21,2% biết được lượng dịch ORS cần cho trẻ khi bị tiêu chảy.
Theo khảo sát, 57,6% các bà mẹ hiểu đúng về loại dịch thay thế ORS, nhưng 65,9% lại không biết cách cho trẻ ăn thêm khi trẻ bị tiêu chảy cấp Mặc dù 69,4% các bà mẹ dự trữ sẵn ORS tại nhà, 88,2% cho rằng ORS có lợi cho sức khỏe của con và 94,1% sẵn sàng sử dụng ORS nếu con họ bị tiêu chảy cấp lần sau.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Như Mai năm 2006 về kiến thức và thực hành của các bà mẹ có con bị tiêu chảy cấp tại khoa Tiêu hóa bệnh viện Nhi Trung ương cho thấy rằng mặc dù 93% bà mẹ có kiến thức về cách pha ORS, nhưng chỉ có 54,5% thực hành pha ORS đúng cách Ngoài ra, tỷ lệ bà mẹ biết cách cho trẻ uống đúng ORS cũng đạt tỷ lệ cao.
Một nghiên cứu của Đỗ Thị Kim Chi năm 2013 tại bệnh viện Bạch Mai đã khảo sát kiến thức về bệnh TCC ở 53 bà mẹ có con từ 6 tháng đến 5 tuổi đang điều trị Kết quả cho thấy chỉ có 18,9% bà mẹ hiểu đúng về định nghĩa bệnh TCC.
Nghiên cứu của Tống Văn Hạnh (2014) khảo sát kiến thức và đánh giá hiệu quả can thiệp kỹ năng thực hành cho 86 bà mẹ có con bị TCC Kết quả cho thấy chỉ 8,1% bà mẹ biết về bệnh TCC, trong khi 18,6% hiểu đúng hậu quả của bệnh này.
Nghiên cứu của Lê Thanh Nguyên cho thấy rằng 83,3% các bà mẹ nhận biết dấu hiệu trẻ bị tiêu chảy nhiều hơn bình thường, trong khi 72% nhận thấy sự thay đổi tính chất phân lỏng toàn nước Chỉ 16,4% bà mẹ nhận biết dấu hiệu phân nhầy máu, và chỉ 10% hiểu đúng định nghĩa về tiêu chảy Đáng chú ý, 72,2% bà mẹ cung cấp bữa ăn giàu dinh dưỡng cho trẻ bị tiêu chảy.
Nghiên cứu của Nguyễn Viết Sơn về tình trạng dinh dưỡng của trẻ em và kiến thức, thực hành của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi bị tiêu chảy điều trị nội trú tại Bệnh viện Sản nhi Vĩnh Phúc cho thấy rằng 65,9% bà mẹ nhận biết biểu hiện đi ngoài phân lỏng hơn 3 lần/ngày, trong khi 34,9% biết về biểu hiện đi ngoài phân lẫn nước Ngoài ra, 78,6% bà mẹ biết cách cho trẻ uống dung dịch ORS, 66,8% thực hành cho trẻ uống ORS tại nhà khi bị tiêu chảy cấp, 71,4% thực hành cho trẻ uống kháng sinh tại nhà và 53,1% cho trẻ ăn kiêng trong trường hợp này.
MÔ TẢ CÁC VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT
Thông tin chung về bệnh viện đa khoa Xanh Pôn và khoa nhi Tiêu hóa
Bệnh viện đa khoa Xanh Pôn là một bệnh viện đa khoa tuyến cuối trực thuộc
Sở Y tế Hà Nội được thành lập vào ngày 26 tháng 08 năm 1970, và hiện nay Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn đã trở thành bệnh viện hạng 1 của thành phố với hơn 600 giường bệnh và 45 khoa phòng, cùng đội ngũ hơn 1000 cán bộ nhân viên Bệnh viện chuyên sâu với 7 chuyên khoa đầu ngành bao gồm Ngoại, Nhi, Gây mê Hồi sức, Xét nghiệm, Chẩn đoán Hình ảnh, Điều dưỡng, và Phẫu thuật tạo hình Hàng năm, Bệnh viện tiếp nhận khoảng 600 nghìn lượt khám và điều trị nội trú cho 45 nghìn bệnh nhân, bao gồm cả bệnh nhân nặng từ các bệnh viện tuyến dưới và bệnh nhân ngoại tỉnh Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn nổi bật với các kỹ thuật ngoại khoa và gây mê tiên tiến, như phẫu thuật tạo hình, che phủ vạt da, nối chuyển các ngón, phẫu thuật nội soi khớp gối và khớp vai, cùng phẫu thuật thần kinh sử dụng hệ thống vi tính dẫn đường, nhiều trong số đó đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Khoa Nhi Tiêu hóa, thành lập năm 1985 với đội ngũ 24 nhân viên bao gồm 9 bác sĩ và 14 điều dưỡng, đã không ngừng phát triển về cơ cấu tổ chức, năng lực chuyên môn và cơ sở vật chất Đây là một chuyên khoa sâu, trở thành địa chỉ khám chữa bệnh đáng tin cậy cho các bệnh nhi tại Hà Nội Trong quá trình phát triển, khoa đã tiếp nhận và điều trị nhiều bệnh nhân nặng, luôn hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch, với tỷ lệ bệnh nhân được chữa khỏi ngày càng cao, tỷ lệ tử vong thấp và tỷ lệ chuyển tuyến giảm.
Khoa nhi Tiêu hóa đã thực hiện tư vấn giáo dục sức khỏe cho gia đình bệnh nhân theo chỉ đạo của bệnh viện và phòng Điều dưỡng, tuy nhiên chưa đánh giá được hiệu quả của hoạt động này Dựa trên sự tư vấn của bác sĩ và khoa dinh dưỡng, khoa đã xây dựng các bài tư vấn và tổ chức định kỳ hàng tháng với sự tham gia của gia đình bệnh nhân, điều dưỡng và bác sĩ điều trị Buổi tư vấn diễn ra tại phòng hành chính, nơi bác sĩ trực tiếp giải thích các câu hỏi liên quan đến bệnh lý cho gia đình Điều dưỡng trưởng và điều dưỡng viên cũng thường xuyên tư vấn, hướng dẫn gia đình về cách chăm sóc, dùng thuốc và chế độ ăn cho trẻ Ngoài ra, khoa còn có bảng tin cung cấp thông tin về cách chăm sóc và theo dõi trẻ mắc các bệnh thông thường như tiêu chảy, sốt cao, tay chân miệng.
Mặc dù có những lợi thế về cơ sở vật chất, nhân lực và trang thiết bị, nhưng thực tế vẫn tồn tại nhiều khó khăn và thách thức cần phải vượt qua.
Công tác tư vấn và giáo dục sức khỏe (GDSK) cho bệnh nhân của bác sĩ và điều dưỡng trong khoa chưa đạt hiệu quả cao Nguyên nhân chủ yếu là do vào những thời điểm nhất định, khoa gặp tình trạng quá tải, ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ chăm sóc và tư vấn cho người bệnh.
+ Điều dưỡng thực hiện giáo dục sức khỏe về trình độ chưa đồng đều, khả năng truyền đạt còn chưa thuyết phục
+ Trình độ của gia đình người bệnh khác nhau dẫn đến nhận thức khác nhau
Hình thức tư vấn giáo dục sức khỏe (GDSK) hiện tại vẫn mang tính một chiều và chủ yếu là hình thức, thiếu thời gian cho việc thảo luận và hướng dẫn cụ thể cho từng cá nhân Điều này dẫn đến việc chưa được đánh giá đúng mức về chất lượng của giáo dục sức khỏe.
Thời gian, địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trong 3 tháng (từ ngày 01 tháng 3/2021 đến ngày 30 tháng 5 năm 2021)
Khoa nhi Tiêu hóa, bệnh viện đa khoa Xanh Pôn
Đối tượng nghiên cứu
Bà mẹ có con từ 2 tháng - 59 tháng được chẩn đoán xác định tiêu chảy cấp đang điều trị tại khoa nhi Tiêu hóa
+ Tiêu chảy phân lỏng hoặc tóe nước ≥ 3 lần trong 24 giờ
+ Thời gian mắc tiêu chảy kéo dài ≤ 14 ngày
+ Có người trực tiếp chăm sóc trẻ là bà mẹ
+ Các bà mẹ đồng ý tham gia nghiên cứu
+ Phỏng vấn ngay khi trẻ nhập khoa
+ Trẻ mắc các bệnh kèm theo như tim bẩm sinh, bệnh lý ngoại khoa…
+ Bà mẹ không trực tiếp nuôi con
+ Bà mẹ không có khả năng giao tiếp
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang một loạt ca bệnh
2.4.2 Số lượng đối tượng nghiên cứu
2.4.3 Phương pháp thu thập số liệu
Thu thập số liệu theo phiếu phỏng vấn đã được thiết kế sẵn phù hợp với mục tiêu nghiên cứu.
Kết quả khảo sát
2.5.1 Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
- Tuổi của các bà mẹ:
Bảng 2.1 Phân bố theo nhóm tuổi của bà mẹ Đặc điểm của các bà mẹ trong nghiên cứu Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Nhóm tuổi của bà mẹ
Nơi cư trú Thành thị 21 70
Nhận xét: Từ bảng 2.1 ta thấy:
- Có 3,3% bà mẹ dưới 20 tuổi, có 56,7% bà mẹ thuộc nhóm tuổi 20 - < 35 tuổi và có 40% bà mẹ ≥ 35 tuổi
- Về nơi cư trú, đa số các bà mẹ sống ở thành thị chiếm 70% các bà mẹ tham gia phỏng vấn và có 30% các bà mẹ sống ở nông thôn
Tiểu học và THCS THPT Trung cấp, CĐ, ĐH, trên ĐH
Biểu đồ 2.1: Phân bố trình độ học vấn của bà mẹ
Theo biểu đồ 2.1, phần lớn các bà mẹ tham gia phỏng vấn có trình độ học vấn từ trung cấp trở lên, chiếm 73,3% Trong khi đó, tỷ lệ các bà mẹ có trình độ trung học phổ thông là 16,7% và các bà mẹ có trình độ trung học cơ sở chỉ chiếm 10%.
Làm ruộng Buôn bán Nội trợ Cán bộ, viên chức Công nhân
Biểu đồ 2.2: Phân bố nghề nghiệp của bà mẹ
Theo biểu đồ 2.2, tỷ lệ các bà mẹ làm cán bộ/viên chức chiếm 40% với 12 người, trong khi đó, các bà mẹ làm nông nghiệp chỉ chiếm 10% (3 người) Số lượng bà mẹ làm công nhân là 2 người, chiếm 6,7%, và 9 bà mẹ làm nghề buôn bán, chiếm 30% Cuối cùng, có 4 bà mẹ làm nội trợ, chiếm 13,3%.
Bảng 2.2 Số lần mắc tiêu chảy của trẻ
Số lần mắc tiêu chảy của trẻ Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Nhận xét: theo bảng 2.2 ta thấy có 60% bà mẹ có con mắc bệnh tiêu chảy từ
2.5.2 Thực trạng nhận thức của bà mẹ về bệnh tiêu chảy cấp
Bệnh tiêu chảy cấp được định nghĩa qua tần số đi ngoài phân lỏng, với 5 trường hợp ghi nhận, chiếm 16,7% Ngoài ra, tình trạng đi ngoài phân lỏng kéo dài nhiều ngày mà không thể kiểm soát cũng là một yếu tố quan trọng trong việc xác định bệnh.
2 6,7 Đi ngoài phân lỏng nhiều nước hoặc phân sống trên 3 lần trong ngày
Theo bảng 2.3, có 76,6% bà mẹ (23 người) hiểu đúng về định nghĩa bệnh tiêu chảy, trong khi chỉ có 23,4% (7 người) có kiến thức chưa đúng về vấn đề này.
Bảng 2.4: Kiến thức của bà mẹ về nguyên nhân gây nên bệnh tiêu chảy cấp Nguyên nhân gây nên bệnh tiêu chảy cấp Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Không nuôi con bằng sữa mẹ 3 10
Cho trẻ bú bình 5 16,7 Ăn thức ăn không đảm bảo vệ sinh 29 96,7
Sử dụng nguồn nước không đảm bảo vệ sinh 30 100
Không rửa tay thường xuyên 23 76,7
Xử lí phân không hợp vệ sinh 5 16,6
Không cho trẻ tiêm chủng đầy đủ 5 16,6
Theo bảng 2.4, nguyên nhân chính gây bệnh tiêu chảy cấp ở trẻ em mà các bà mẹ nhận thức rõ nhất là do ăn uống không đảm bảo vệ sinh (96,7%) và sử dụng nguồn nước không an toàn (100%) Bên cạnh đó, việc không rửa tay thường xuyên cũng là một yếu tố quan trọng, với tỷ lệ nhận thức đạt 76,7% Các nguyên nhân khác ít được các bà mẹ biết đến.
Vật vã, kích thích hoặc li bì Mắt trũng, khóc không có nước mắt Nếp véo da mất chậm Khát uống háo hức hoặc không uống được
Biểu đồ 2.3: Kiến thức của bà mẹ về dấu hiệu mất nước của trẻ bị tiêu chảy cấp
Biểu đồ 2.3 cho thấy, phần lớn các bà mẹ nhận diện dấu hiệu mất nước ở trẻ bị tiêu chảy cấp chủ yếu qua cảm giác khát nước (90%) và tình trạng vật vã, kích thích hoặc li bì (60%) Trong khi đó, những dấu hiệu mất nước chính như nếp véo da mất chậm lại không được các bà mẹ biết đến, và chỉ có 30% nhận ra dấu hiệu mắt trũng, khóc không có nước mắt.
Bảng 2.5: Kiến thức của bà mẹ về dấu hiệu nặng cần đưa trẻ đến cơ sở y tế
Dấu hiệu nặng Tần số (n) Tỷ lệ (%) Ỉa nhiều lần, phân nhiều nước 30 100
Sốt hoặc sốt cao hơn, li bì 25 83,3 Ỉa nhân nhày máu, mũi 17 56,7
Nôn nhiều lần 26 86,6 Ăn kém, bỏ bú, không chịu ăn 23 76,6
Theo bảng 2.5, 100% các bà mẹ cho rằng trẻ ỉa nhiều lần, phân nhiều nước là dấu hiệu cần đưa trẻ đến cơ sở y tế Đối với trẻ nôn nhiều, có 86,6% bà mẹ nhận thấy cần đưa trẻ đi khám Khi trẻ sốt hoặc sốt cao, li bì, 83,3% bà mẹ cũng cho rằng nên đưa trẻ đến cơ sở y tế Ngoài ra, 76,6% bà mẹ cho rằng cần đưa trẻ đi khám khi trẻ ăn kém, bỏ bú hoặc không chịu ăn Đặc biệt, 57,7% bà mẹ cho rằng trẻ ỉa phân nhày máu cũng cần được đưa đến cơ sở y tế, trong khi chỉ có 30% bà mẹ nghĩ rằng khi trẻ khát nhiều hơn thì cần phải đến cơ sở y tế.
Bảng 2.6: Kiến thức của bà mẹ về chế độ ăn của trẻ bị tiêu chảy cấp Chế độ ăn của trẻ bị tiêu chảy cấp Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Cho trẻ ăn như thường ngày 8 26,7
Cho trẻ ăn ít hơn thường ngày 2 6.6
Cho trẻ ăn nhiều hơn thường ngày 3 10 Ăn kiêng 8 26,7 Ăn theo nhu cầu của trẻ 9 30
Theo bảng 2.6, chỉ có 10% bà mẹ phỏng vấn nhận thức đúng rằng cần cho trẻ ăn nhiều hơn khi bị tiêu chảy Trong khi đó, 30% bà mẹ cho rằng nên ăn theo nhu cầu của trẻ, 26,7% chọn phương pháp ăn kiêng, 26,7% tiếp tục cho trẻ ăn như thường ngày, và 6,6% cho trẻ ăn ít hơn bình thường.
Bù nước và điện giải
Biểu đồ 2.4 Kiến thức của bà mẹ về tác dụng của dung dịch Oresol
Theo biểu đồ 2.4, đa số các bà mẹ (93,4%) hiểu đúng tác dụng của dung dịch Oresol là bù nước và điện giải Trong khi đó, chỉ có 3,3% bà mẹ cho rằng Oresol có tác dụng làm ngừng tiêu chảy, và 3,3% còn lại không biết tác dụng của dung dịch này.
Bảng 2.7 Kiến thức về nước pha và cách pha dung dịch Oresol
Nội dung Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Nước đun sôi để nguội 30 100
Nước khoáng và các loại nước khác 0 0
Chia nhỏ gói ra để pha nhiều lần 0 0
Theo bảng 2.7, tất cả 100% các bà mẹ đều nắm rõ loại nước phù hợp để pha Oresol, đó là nước đun sôi để nguội Ngoài ra, 100% các bà mẹ cũng hiểu đúng cách pha Oresol, là pha toàn bộ gói.
Bảng 2.8: Kiến thức về cách uống và cách xử trí khi trẻ bị nôn do uống Oresol
Nội dung Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Trẻ < 2 tuổi cho uống từng thìa nhỏ, 1-2 phút uống
1 thìa, trẻ lớn uống từng ngụm bằng cốc hoặc bằng bát
Cách xử trí khi trẻ nôn
Ngừng cho trẻ uống lần đó và cho uống tiếp vào lần sau
Ngừng cho trẻ uống 5-10 phút sau đó cho uống lại với tốc độ chậm hơn
Không cho trẻ uống nữa vì Oresol chỉ làm cho trẻ nôn nhiều hơn
Nhận xét: Qua bảng 2.8 trên ta thấy:
Theo nghiên cứu, 86,7% bà mẹ có kiến thức đúng về cách cho trẻ dưới 2 tuổi uống dung dịch Oresol Họ cho rằng nên cho trẻ uống từng thìa nhỏ, với khoảng thời gian 1-2 phút giữa mỗi lần uống.
Mặc dù 1 thìa Oresol được khuyến nghị cho trẻ lớn uống từng ngụm bằng cốc hoặc bát, vẫn có 13,3% bà mẹ hiểu sai cách cho trẻ uống dung dịch này bằng bình sữa.
Khi trẻ uống Oresol và bị nôn, 73,3% bà mẹ hiểu rằng cần ngừng cho trẻ uống trong 5-10 phút trước khi tiếp tục với tốc độ chậm hơn Tuy nhiên, 23,4% bà mẹ lại cho rằng nên ngừng uống hoàn toàn và đợi đến lần sau, trong khi 3,3% bà mẹ nghĩ rằng không nên cho trẻ uống nữa vì Oresol có thể làm trẻ nôn nhiều hơn.
Bảng 2.9 Kiến thức về vệ sinh sau mỗi lần trẻ đi ngoài
Kiến thức về vệ sinh sau mỗi lần trẻ đi ngoài Tần số (n) Tỷ lệ (%) Thay bỉm cho trẻ
Thay sau mỗi lần đi ngoài 27 90
Thay sau mấy lần đi ngoài khi bỉm đầy 2 6,7
Rửa bằng nước sạch và lau khô bằng khăn 26 86,7
Lau cho trẻ bằng khăn ướt 4 13,3
Lau cho trẻ bằng giấy vệ sinh 0 0
Nhận xét: Qua bảng 2.9 ta thấy :
Theo khảo sát, 100% các bà mẹ sử dụng bỉm cho trẻ trong giai đoạn tiêu chảy Đáng chú ý, 90% các bà mẹ thay bỉm ngay sau mỗi lần trẻ đi ngoài, trong khi 6,7% chỉ thay bỉm khi bỉm đã đầy sau vài lần đi ngoài Ngoài ra, có 3,3% các bà mẹ thay bỉm cho trẻ theo định kỳ 2 giờ một lần.
Theo khảo sát, 86,7% bà mẹ có kiến thức đúng về vệ sinh sau khi trẻ đi ngoài, cụ thể là rửa bằng nước sạch và lau khô bằng khăn Ngược lại, 13,3% bà mẹ vẫn cho rằng chỉ cần lau cho trẻ bằng khăn ướt.