Cơ sở lý luận
1.1.1 Khái niệm, phân loại ĐQN
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Đột quỵ não (ĐQN) được định nghĩa là sự xuất hiện đột ngột các thiếu sót chức năng thần kinh, thường có tính chất khu trú hơn là lan tỏa, kéo dài trên 24 giờ hoặc dẫn đến tử vong trong vòng 24 giờ Việc khám xét để loại trừ nguyên nhân gây chấn thương là cần thiết trong quá trình chẩn đoán.
Đột quỵ não (ĐQN) được phân loại thành hai loại chính: thể nhồi máu và thể xuất huyết ĐQN thể nhồi máu xảy ra khi có sự thiếu hụt máu cung cấp cho não do tắc nghẽn mạch máu, dẫn đến giảm lưu lượng tuần hoàn ở vùng não phía sau chỗ tắc Nguyên nhân tắc nghẽn có thể là cục máu đông hình thành tại các mạch máu xơ vữa trong não (đột quỵ nhồi máu não thuyên tắc) hoặc cục máu đông di chuyển từ các vị trí khác trong cơ thể đến các động mạch trong não (đột quỵ nhồi máu não huyết tắc) Trong khi đó, ĐQN thể xuất huyết não xảy ra khi mạch máu trong não bị vỡ, khiến máu thoát ra ngoài và gây ra chảy máu trong não hoặc chảy máu dưới nhện.
(70%) NMN thuyên tắc NMN NMN huyết tắc NMN ổ khuyết
NMN chưa rõ nguyên nhân
Chảy máu trong não Chảy máu dưới nhện
1.1.2 Các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo ĐQN
1.1.2.1 Các yếu tố nguy cơ ĐQN
Đái tháo đường type 2 (ĐQN) có nhiều nguyên nhân khác nhau, được phân thành hai nhóm chính: nhóm không thể thay đổi và nhóm có thể thay đổi Các yếu tố nguy cơ không thể thay đổi bao gồm di truyền và tuổi tác, trong khi nhóm có thể thay đổi liên quan đến lối sống như chế độ ăn uống, hoạt động thể chất và cân nặng.
Nhóm yếu tố nguy cơ không thể thay đổi bao gồm tuổi, giới tính, chủng tộc và yếu tố di truyền Trong khi đó, các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi bao gồm tăng huyết áp, hút thuốc lá, chế độ ăn uống không lành mạnh, béo phì, thiếu hoạt động thể chất, tiêu thụ rượu, rối loạn chuyển hóa lipid, bệnh tim mạch, đái tháo đường và căng thẳng.
Tăng huyết áp (THA) là một yếu tố nguy cơ chính gây ra đột quỵ, thiếu máu não và chảy máu não ở cả nam và nữ, không phân biệt độ tuổi Khoảng 50-70% bệnh nhân mắc đột quỵ não (ĐQN) có tiền sử bị THA THA kéo dài làm tổn hại đến thành mạch, khiến chúng trở nên mỏng manh, hẹp và dễ bị tổn thương Sự thu hẹp của mạch máu gia tăng nguy cơ tắc nghẽn do cục máu đông, chiếm khoảng 65% tổng số trường hợp ĐQN.
Nguy cơ đột quỵ não (ĐQN) ở người mắc tăng huyết áp (THA) cao gấp 5 lần so với người bình thường Đối với những người dưới 80 tuổi, THA làm tăng nguy cơ mắc ĐQN từ 2-4 lần Nếu chỉ số huyết áp được kiểm soát tốt, nguy cơ đột quỵ có thể giảm tới 40% Nghiên cứu cho thấy nguy cơ mắc ĐQN tăng gấp 2 lần khi huyết áp tâm trương tăng từ 5-7 mmHg hoặc huyết áp tâm thu tăng từ 10-20 mmHg.
1.1.2.2 Dấu hiệu cảnh báo ĐQN
Dấu hiệu cảnh báo ĐQN kinh điển gồm 5 dấu hiệu sau:
(1) Đột ngột cảm thấy tê bì hoặc yếu mắt, tay, chân, đặc biệt là một bên của cơ thể;
(2) Đột ngột mất trí nhớ, nói ngọng hoặc có vấn đề trong giao tiếp;
(3) Có vấn đề về thị giác: mờ mắt, nhìn đôi, giảm hoặc mất thị lực;
(5) Đau đầu không rõ nguyên nhân [19]
1.1.3 Xử trí ban đầu khi gặp người bị ĐQN ĐQN là một cấp cứu nội khoa, cần được chuyển đến bệnh viện càng sớm càng tốt vì trong những giờ đầu tiên bệnh nhân có thể tử vong do nhiều diễn biến nguy hiểm của bệnh Đối với người bị ĐQN, thời gian là vàng Xử trí tốt nhất là gọi xe cấp cứu và chuyển bệnh nhân đến viện càng sớm càng tốt Để xác định xem bệnh nhân đúng đang có một cơn ĐQN tại cộng đồng mà không có các trang thiết bị kiểm tra bên cạnh thì cần thực hiện theo qui tắc FAST (mặt – nói – tay – nhanh)
(1) Mặt (khi đột ngột thấy bệnh nhân bị lệch nửa mặt, méo miệng): yêu cầu bệnh nhân cười xem mặt có bị lệch về một bên không
Khi bệnh nhân đột ngột cảm thấy tê bì, yếu hoặc liệt một bên tay, chân hoặc một bên cơ thể, cần yêu cầu họ giơ hai tay và giữ nguyên trong một phút Quan sát xem bên tay nào có dấu hiệu yếu, liệt sẽ rơi hoặc hạ thấp xuống.
Khi phát hiện bệnh nhân không thể nói hoặc không hiểu lời nói của người khác, hãy yêu cầu họ nói một vài câu đơn giản để kiểm tra khả năng giao tiếp Điều này giúp đánh giá mức độ rõ ràng và lưu loát trong lời nói của bệnh nhân.
(4) Nhanh chóng đưa bệnh nhân đến bệnh viện, đặc biệt trong trường hợp bệnh nhân đã bị hôn mê
Trong khi chờ xe cấp cứu, chúng ta có thể thực hiện một số bước sơ cứu quan trọng để hỗ trợ bệnh nhân, bao gồm việc giữ bệnh nhân ở tư thế an toàn để tránh ngã, đặt họ nằm ở nơi thoáng mát và nghiêng đầu về bên không bị liệt Cần phải làm sạch đờm dãi để tránh tắc nghẽn đường hô hấp và thực hiện hô hấp nhân tạo nếu bệnh nhân ngừng thở Tuyệt đối không tự ý dùng thuốc hạ huyết áp hay bất kỳ loại thuốc nào khác Thời gian rất quan trọng, vì vậy hãy nhanh chóng đưa bệnh nhân đến bệnh viện để cứu sống các phần não bị tổn thương hoặc đang bị chèn ép.
Hàng năm, trên thế giới có khoảng 3 triệu phụ nữ và 2,5 triệu nam giới chết vì ĐQN chiếm 10% tất cả các trường hợp tử vong [12]
Hậu quả của đột quỵ não (ĐQN) xuất hiện ngay từ giai đoạn đầu, bao gồm các triệu chứng như liệt, rối loạn ngôn ngữ và giao tiếp (nói ngọng, không thể nói), suy giảm trí nhớ và giảm thị lực Những hội chứng này tác động trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của bệnh nhân.
Teasall và các đồng nghiệp đã chỉ ra rằng, ngoài những hội chứng đã nêu, những thay đổi về tính tình, khả năng không thể trở lại công việc và không thể hỗ trợ gia đình là những hậu quả nghiêm trọng của ĐQN đối với bệnh nhân dưới 60 tuổi.
Khoảng 40% bệnh nhân đột quỵ não (ĐQN) phải đối mặt với di chứng vừa và nặng, trong khi 80% bệnh nhân bị liệt nhẹ và vừa có khả năng phục hồi chức năng nếu được tập luyện thường xuyên Chỉ có 10% bệnh nhân ĐQN không bị liệt và có thể tự lập trong cuộc sống sau cơn đột quỵ Đối với 10% bệnh nhân còn lại, họ cần phải ở lại các trung tâm phục hồi chức năng do di chứng liệt nặng nề, không đủ khả năng sinh hoạt tự chủ, và mọi hoạt động của họ đều cần có sự hỗ trợ từ người khác.
Sau khi trải qua đột quỵ não (ĐQN), bệnh nhân có thể gặp phải nhiều di chứng như loét, cứng khớp, viêm phổi và viêm đường tiết niệu Những tình trạng này cần được chăm sóc và quản lý tốt để nâng cao chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Chi phí y tế cho điều trị giai đoạn cấp và phục hồi cho bệnh nhân ĐQN rất cao, với thống kê cho thấy chi phí này ở Anh lên tới 1 tỉ Bảng mỗi năm, ở châu Âu là 19,6 tỉ Euro và ở Mỹ đạt 51 tỉ USD hàng năm.
1.1.5 Thông tin, số liệu về tình hình ĐQN trên thế giới và ở Việt Nam
Hàng năm trên thế giới có khoảng 15 triệu người mắc ĐQN Trong năm
Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Các nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến kiến thức của bệnh nhân THA về các dấu hiệu cảnh báo và yếu tố nguy cơ mắc ĐQN Ở trong và ngoài nước có nhiều tác giả nghiên cứu về kiến thức của bệnh nhân THA về các dấu hiệu cảnh báo và yếu tố nguy cơ mắc ĐQN, cụ thể như sau:
Theo nghiên cứu của Elizabeth B Lynch, 65% bệnh nhân không nhận ra các yếu tố nguy cơ của bệnh Đái tháo đường type 2, trong khi chỉ khoảng 35% bệnh nhân nhận định rằng thừa cân và béo phì là những yếu tố nguy cơ liên quan đến căn bệnh này.
Laura J Morgan đã tiến hành nghiên cứu với 139 đối tượng, trong đó 90% nhận thức rằng não là cơ quan chính bị tổn thương khi mắc ĐQN Hơn nữa, 96% cho rằng ĐQN xảy ra đột ngột và cần được điều trị kịp thời Đặc biệt, 78% mong muốn có thêm thông tin về bệnh ĐQN.
Sung S Yoon đã thực hiện phỏng vấn 822 đối tượng qua điện thoại và phát hiện rằng yếu tố nguy cơ phổ biến nhất mà đối tượng biết đến là hút thuốc lá (39,4%) và stress (33,7%) Đối với dấu hiệu báo trước, vấn đề về thị giác như nhìn đôi, giảm hoặc mất thị lực được nhận biết nhiều nhất (24,1%) Kết quả cho thấy 76,2% đối tượng liệt kê đúng một yếu tố nguy cơ và 49,8% có khả năng liệt kê đúng từ một dấu hiệu cảnh báo trở lên.
Nguyễn Văn Triệu và cộng sự (2007) thực hiện nghiên cứu về kiến thức của
Tại Hải Dương, 1056 người được khảo sát, trong đó 67% cho rằng não là cơ quan bị tổn thương trong ĐQN Các triệu chứng chính của ĐQN được ghi nhận bao gồm yếu liệt nửa người (71.4%), dị cảm (41.2%) và khó nói (58.8%).
Cuốn sách "Clinical Hypertension and Vascular Diseases" của William B White, xuất bản năm 2017 bởi Humana Press và được dịch bởi Phạm Ngọc Minh, chia thành ba phần chính Phần I làm rõ mối liên hệ giữa huyết áp cao (THA) và đột quỵ, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiểm soát huyết áp để dự phòng đột quỵ lần đầu Phần II khám phá cơ chế của THA và mối quan hệ của nó với đột quỵ, cùng với sinh lý bệnh và các cơ chế có thể dẫn đến đột quỵ do THA Cuối cùng, phần III tập trung vào điều trị THA trong trường hợp đột quỵ lần đầu, quản lý sau đột quỵ cấp và các biện pháp phòng ngừa tái phát.
Luận án của Đặng Hoàng Anh năm 2009 nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của rối loạn tâm thần ở bệnh nhân ĐQN có THA, bao gồm khái niệm và cơ chế bệnh sinh của ĐQN, phân loại và biến chứng của THA, cũng như các yếu tố nguy cơ liên quan Nghiên cứu làm rõ đặc điểm rối loạn tâm thần thực tổn ở bệnh nhân ĐQN có THA và phân tích khả năng phục hồi chức năng tâm thần sau ĐQN cùng các yếu tố ảnh hưởng Ngoài ra, luận án còn xem xét mối liên hệ giữa ĐQN và các rối loạn tâm thần như rối loạn nhận thức, trí nhớ, cảm xúc, tri giác, cũng như ảnh hưởng của tổn thương thần kinh đến chất lượng cuộc sống sau một năm bị ĐQN.
Theo bài viết trên trang Million Hearts năm 2019, mỗi năm có khoảng 1,5 triệu ca đau tim và đột quỵ xảy ra tại Hoa Kỳ Nguy cơ mắc bệnh đột quỵ và đau tim có liên quan đến tăng huyết áp, một tình trạng có thể phòng ngừa và kiểm soát thông qua lối sống lành mạnh Giải pháp này có thể áp dụng cho tất cả bệnh nhân tăng huyết áp tại Việt Nam và trên toàn thế giới, tuy nhiên, tính khả thi của giải pháp phụ thuộc nhiều vào sự tự giác của người bệnh.
Bài viết trên trang Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Đồng Nai năm 2020 nhấn mạnh rằng tăng huyết áp (THA) là nguyên nhân chính gây ra đột quỵ não (ĐQN), với nguy cơ tăng cao khi huyết áp tăng Để phòng ngừa ĐQN ở bệnh nhân THA, cần kiểm soát huyết áp bằng cách tuân thủ chỉ dẫn của bác sĩ, khám sức khỏe định kỳ 6 tháng/lần, và thực hiện liệu pháp thay đổi lối sống Người bệnh cũng nên tránh bị lạnh và giữ tâm lý thoải mái khi thời tiết thay đổi Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều bệnh nhân không duy trì uống thuốc đều đặn sau khi thấy huyết áp hạ, và việc khám định kỳ cũng khó thực hiện do thói quen chỉ đi khám khi bệnh đã nặng Việc thay đổi lối sống cần thời gian và sự nỗ lực cá nhân, không phải ai cũng có thể thực hiện.
1.2.2 Chỉ ra kết quả đạt được, vấn đề tồn tại, vấn đề báo cáo chuyên đề tập trung giải quyết
Tính đến năm 2021, THA và ĐQN đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu từ nhiều học giả Các công trình nghiên cứu này tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, mang lại những kết quả quan trọng về lý luận và thực tiễn của THA và ĐQN Tóm lại, những nghiên cứu này đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong việc làm rõ các vấn đề liên quan đến hai lĩnh vực này.
Một là, các nhà khoa học đã đưa ra khái niệm THA, ĐQN Chỉ ra các yếu tố nguy cơ mắc ĐQN
Hai là, các tác giả sử dụng các luận cứ khoa học vào quá trình khảo sát, đánh giá thực trạng THA, ĐQN
Các tác giả đã đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm cải thiện tình trạng tăng huyết áp (THA) và đột quỵ não (ĐQN) Mặc dù có nhiều nghiên cứu về THA và ĐQN, nhưng chưa có công trình nào đi sâu vào việc tìm hiểu kiến thức về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo ĐQN ở bệnh nhân THA tại Đơn vị Khám theo yêu cầu Viện Tim Mạch – Bệnh viện Bạch Mai Điều này tạo ra một khoảng trống, đồng thời mở ra cơ hội cho việc xây dựng hướng tiếp cận và nghiên cứu mới cho đề tài này.
Chuyên đề tập trung giải quyết một số nội dung sau:
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về kiến thức của bệnh nhân tăng huyết áp (THA) là rất quan trọng, đặc biệt trong việc nhận biết các dấu hiệu cảnh báo và yếu tố nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường type 2 (ĐQN) Việc nâng cao nhận thức này không chỉ giúp bệnh nhân phòng ngừa hiệu quả mà còn cải thiện chất lượng quản lý sức khỏe của họ.
Năm 2021, tại Đơn vị Khám theo yêu cầu Viện Tim mạch – Bệnh viện Bạch Mai, nghiên cứu đã mô tả thực trạng và xác định các yếu tố liên quan đến kiến thức của bệnh nhân tăng huyết áp (THA) về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo của đột quỵ não (ĐQN) Kết quả cho thấy mức độ nhận thức của người bệnh về các yếu tố này còn hạn chế, điều này ảnh hưởng đến khả năng phòng ngừa và phát hiện sớm ĐQN.
Bài viết này đề cập đến việc thảo luận và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao nhận thức về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo của đột quỵ não (ĐQN) cho bệnh nhân tăng huyết áp (THA) khi đến khám tại Đơn vị Khám theo yêu cầu của Viện Tim mạch – Bệnh viện Bạch Mai Việc tăng cường kiến thức này sẽ giúp bệnh nhân nhận diện sớm các triệu chứng và nguy cơ, từ đó có biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
1.2.3 Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan đến vấn đề cần giải quyết
Luật khám bệnh, chữa bệnh 2009;
Quyết định số 5331/QĐ-BYT ngày 23 tháng 12 năm 2020 về việc ban hành tài liệu chuyên môn hướng dẫn chẩn đoán và xử trí ĐQN;
Quyết định số 3192/QĐ-BYT ngày 31 tháng 08 năm 2010 về việc ban hành hướng dẫn chẩn đoán và điều trị THA;
Quyết định 2033/QĐ-BYT ngày 28 tháng 03 năm 2018 đã phê duyệt Kế hoạch quốc gia Truyền thông vận động nhằm giảm muối trong khẩu phần ăn, với mục tiêu phòng chống tăng huyết áp, đột quỵ và các bệnh không lây nhiễm khác trong giai đoạn 2018-2025, do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành.
Giới thiệu sơ lược về Đơn vị Khám theo yêu cầu Viện Tim mạch
Để đáp ứng nhu cầu khám và tư vấn về bệnh tim mạch ngày càng tăng của người dân, Đơn vị Khám theo yêu cầu thuộc Viện Tim mạch – Bệnh viện Bạch Mai đã được thành lập vào ngày 11 tháng 11 năm 2011.
Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị – nhân lực
Cơ sở hạ tầng của Đơn vị được đầu tư khang trang, đồng bộ và thân thiện, với trang thiết bị y tế hiện đại hàng đầu phục vụ thăm khám bệnh tim mạch Các thiết bị bao gồm máy siêu âm Doppler tim màu 3D, máy siêu âm mạch máu, hệ thống gắng sức, thảm chạy, cùng với Holter điện tâm đồ và Holter huyết áp 24 giờ.
Đơn vị hiện có 70 cán bộ viên chức và người lao động, bao gồm nhiều giáo sư, tiến sĩ và thạc sĩ chuyên sâu trong các lĩnh vực như lâm sàng tim mạch, siêu âm tim và mạch máu, điện tâm đồ, thăm dò điện sinh lý học, can thiệp tim mạch, cũng như dự phòng thấp tim và các bệnh tim do thấp Đây là đội ngũ hàng đầu tại Việt Nam trong lĩnh vực y tế này.
Để thuận tiện cho việc tiếp đón bệnh nhân và giúp họ chủ động hơn về thời gian, người dân có thể liên hệ và đặt lịch khám trước qua số tổng đài 043.629.1268.
Khi đến khám tại Viện Tim Mạch, người dân sẽ được đội ngũ nhân viên tiếp đón thân thiện và nhiệt tình Nhân viên sẽ hướng dẫn rõ ràng quy trình khám chữa bệnh và giải đáp mọi thắc mắc của bệnh nhân liên quan đến các bệnh tim mạch.
Người dân sẽ được nghỉ ngơi tại khu vực chờ giữa khuôn viên của Đơn vị Khám theo yêu cầu, nơi được trang bị hệ thống điều hòa không khí, giúp giảm bớt sự vất vả cho bệnh nhân và người thân trong thời gian chờ đợi kết quả xét nghiệm và kết luận từ bác sĩ.
Đơn vị đã đạt được nhiều thành tựu trong khám chữa bệnh, với trung bình khoảng 55.000 lượt bệnh nhân mỗi năm đến khám và theo dõi các bệnh tim mạch Đặc biệt, đơn vị đã triển khai thành công kỹ thuật siêu âm tim 3D và tham gia đào tạo cho các bác sĩ tại các bệnh viện khu vực phía Bắc về siêu âm tim, siêu âm mạch máu và điện tâm đồ.
Đơn vị Khám theo yêu cầu Viện Tim mạch đã nhiều lần nhận Giấy khen từ Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai nhờ những thành tích xuất sắc trong công tác khám và tư vấn các bệnh lý về Tim mạch.
Thực trạng kiến thức và một số yếu tố liên quan đến kiến thức về các yếu tố
Để đánh giá kiến thức của bệnh nhân tăng huyết áp (THA) về nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ não, một nghiên cứu đã được thực hiện với 151 bệnh nhân đến khám tại Đơn vị Khám theo yêu cầu Viện Tim mạch – Bệnh viện Bạch Mai trong Quý 3 năm 2021 Nghiên cứu này nhằm cung cấp cái nhìn khách quan về nhận thức của người bệnh đối với các yếu tố liên quan đến đột quỵ.
2.2.1 Đối tượng và phương pháp
- Đối tượng: Người bệnh THA đã được quản lý ngoại trú đến khám tại Đơn vị Khám theo yêu cầu Viện Tim mạch – Bệnh viện Bạch Mai
Tiêu chuẩn lựa chọn cho nghiên cứu bao gồm: (1) Người bệnh tăng huyết áp (THA) từ 18 tuổi trở lên, đã được quản lý và điều trị THA trong ít nhất 3 tháng (2) Người bệnh có khả năng trả lời và đồng ý tham gia phỏng vấn.
Tiêu chuẩn loại trừ bao gồm những người mắc các bệnh lý phối hợp hoặc đã trải qua các biến chứng nghiêm trọng như tiền sử đột quỵ não, suy tim nặng, đau thắt ngực không ổn định, nhồi máu cơ tim gần đây, các rối loạn tâm thần, cũng như những bệnh nhân cao tuổi, bị lú lẫn hoặc không có khả năng giao tiếp.
Trong Quý 3 năm 2021, nghiên cứu được thực hiện tại Đơn vị Khám theo yêu cầu Viện Tim mạch - Bệnh viện Bạch Mai với 151 bệnh nhân đáp ứng tiêu chuẩn tham gia.
Phương pháp nghiên cứu được thực hiện thông qua thiết kế mô tả cắt ngang, sử dụng phiếu phỏng vấn đã được chuẩn bị sẵn nhằm đánh giá kiến thức của bệnh nhân tăng huyết áp (THA) về các yếu tố nguy cơ gây đột quỵ và các dấu hiệu cảnh báo đột quỵ não (ĐQN) Dữ liệu thu thập được sẽ được nhập và phân tích bằng phần mềm SPSS 16.0, và kết quả sẽ được trình bày thông qua các bảng và biểu đồ mô tả số lượng và tỷ lệ.
Báo cáo này mang lại ý nghĩa khoa học quan trọng, phục vụ như tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu và giảng dạy về ĐQN Đồng thời, nó cũng có ý nghĩa thực tiễn, cung cấp căn cứ cho công tác điều dưỡng tại Đơn vị Khám theo yêu cầu của Viện Tim mạch – Bệnh viện Bạch Mai, giúp thực hiện nhiệm vụ tư vấn và giáo dục sức khỏe, từ đó nâng cao chất lượng chăm sóc và sự hài lòng của người bệnh.
* Đặc điểm chung của đối tượng tham gia nghiên cứu
Bảng 2.1 Một số đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu (n1) Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ %
Sử dụng BHYT Có sử dụng 147 97.35
Kiểm soát huyết áp Đã kiểm soát tốt 68 45.03
Nơi khám sức khoẻ ban đầu
Bệnh viện Trung ương 111 73.51 Bệnh viện tuyến dưới 40 26.49 Người thân trong gia đình mắc ĐQN
Tỷ lệ nữ giới tham gia nghiên cứu cao hơn nam giới, với nhóm đối tượng có trình độ học vấn trung học phổ thông chiếm ưu thế Đặc biệt, 78.15% người tham gia hiện đang trong tình trạng hưu trí, trong khi đó, 54.3% có tiền sử gia đình có người mắc tai biến.
Hình 2.1 Nhận thông tin về ĐQN Trong 151 đối tượng được phỏng vấn, phần lớn các đối tượng đều đã từng nghe nói về bệnh ĐQN
2.2.2.1 Kiến thức của người bệnh THA về ĐQN
* Kiến thức về đặc điểm của đột quỵ não
Hơn 20% bệnh nhân không nhận thức được rằng não bộ là bộ phận chính bị tổn thương trong trường hợp đột quỵ Việc nâng cao kiến thức về tình trạng này là rất quan trọng để cải thiện sự hiểu biết và nhận thức của người bệnh về đột quỵ.
Chưa từng nghe nói Đã từng nghe nói
Hình 2.3 Nhận thức về hậu quả và khả năng phòng ngừa ĐQN
Tỷ lệ người có kiến thức chính xác về khả năng gây tử vong và biện pháp phòng ngừa ĐQN cao hơn đáng kể so với những người có thông tin sai lệch.
Bảng 2.2 Mức độ kiến thức chung về ĐQN
Mức độ kiến thức Tỷ lệ % người bệnh Điểm trung bình
Khoảng 50% người tham gia phỏng vấn có kiến thức trung bình về các đặc điểm của bệnh ĐQN, với tỷ lệ câu trả lời đúng đạt 72.6%.
90.00% ĐQN có thể gây tử vong
* Kiến thức về dấu hiệu cảnh báo ĐQN
Hình 2.4 Số người bệnh có thể liệt kê ra các dấu hiệu cảnh báo ĐQN
Số lượng người trả lời rằng có dấu hiệu báo trước cơn ĐQN cao gấp đôi so với những người cho rằng cơn ĐQN xảy ra đột ngột mà không có dấu hiệu nào Dấu hiệu phổ biến nhất mà bệnh nhân nhận biết trước cơn ĐQN là cảm giác choáng váng.
Khoảng 1/3 số người tham gia khảo sát không thể nêu ra bất kỳ dấu hiệu nào báo trước của ĐQN Trong khi đó, tỷ lệ những người có thể liệt kê đúng 4 hoặc 5 dấu hiệu của ĐQN là rất thấp.
Tê bì, liệt nửa người
Mất trí nhớ, nói ngọng
Choáng váng Đau đầu không rõ nguyên nhân
0 dấu hiệu 1 dấu hiệu 2 dấu hiệu 3 dấu hiệu 4-5 dấu hiệu
Bảng 2.3 Mức độ kiến thức về dấu hiệu cảnh báo bệnh ĐQN
Mức độ kiến thức Tỷ lệ % người bệnh Điểm trung bình
Hơn 60% người tham gia khảo sát chỉ trả lời đúng dưới 50% câu hỏi liên quan đến các dấu hiệu cảnh báo của bệnh ĐQN Trung bình, mỗi người chỉ đạt 33.3% số câu hỏi trong phần này.
* Kiến thức về các yếu tố nguy cơ của bệnh ĐQN
Hình 2.6 Tỷ lệ đối tượng cho rằng THA là một nguyên nhân dẫn đến ĐQN
Tỷ lệ người trả lời có bệnh tăng huyết áp (THA) là một yếu tố quan trọng, dẫn đến nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường (ĐQN) cao gấp 8 lần so với những người không rõ mối liên quan giữa THA và ĐQN.
Hình 2.7 Tỷ lệ đối tượng liệt kê được các yếu tố nguy cơ gây ĐQN
Bệnh tim mạch là yếu tố nguy cơ hàng đầu của bệnh ĐQN, với 21.2% người tham gia khảo sát nhận thức được điều này Trong khi đó, các yếu tố như giới tính, di truyền và chủng tộc lại ít được biết đến như những nguy cơ tiềm ẩn của bệnh ĐQN.
Hình 2.8 Tỷ lệ trả lời đúng theo số lượng yếu tố nguy cơ ĐQN
Thực trạng của vấn đề
Viện Tim Mạch – Bệnh viện Bạch Mai là cơ sở y tế hàng đầu trong việc điều trị các bệnh nhân mắc bệnh tim mạch, với số lượng lớn bệnh nhân đến tái khám và khám mới Nghiên cứu tại Đơn vị Khám theo yêu cầu của Viện Tim Mạch đã chỉ ra một số vấn đề quan trọng liên quan đến sức khỏe tim mạch.
3.1.1 Bàn luận về một số yếu tố đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Tỉ lệ giới của đối tượng tham gia nghiên cứu cho thấy nữ giới (58.94%) có tỉ lệ tham gia cao hơn nam giới (41.06%) So với một số nghiên cứu quốc tế, như nghiên cứu tại cộng đồng người THA ở Tanzania (nữ 61,3%, nam 38,7%), sự khác biệt này là tương đồng Nguyên nhân chính dẫn đến sự chênh lệch tỉ lệ giới tham gia là do nam giới trong cộng đồng thường còn lao động nhiều, dẫn đến việc họ có ít thời gian để đi khám và ít quan tâm đến việc điều trị THA so với nữ giới.
Nhóm tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất trong nghiên cứu của tôi là từ 55-64 tuổi, phù hợp với nghiên cứu của Muller với độ tuổi trung bình là 65±9 tuổi Đối tượng trong độ tuổi này thường bắt đầu thời kỳ nghỉ hưu, do đó họ quan tâm nhiều đến sức khỏe và có điều kiện thời gian để thường xuyên đến bệnh viện kiểm tra tình trạng tăng huyết áp theo lịch hẹn của bác sĩ.
Đối tượng phỏng vấn chủ yếu là người hưu trí, chiếm 118/151 người Trình độ học vấn của họ không có nhiều chênh lệch, với 29.80% có trình độ trên THPT, 38.41% tốt nghiệp THPT và 31.79% dưới THPT Sự khác biệt về trình độ văn hóa không ảnh hưởng đến việc tham gia điều trị tăng huyết áp (THA) tại bệnh viện, cho thấy rằng việc điều trị THA đã trở nên phổ biến ở nhiều địa phương và trong các nhóm đối tượng với trình độ văn hóa khác nhau.
3.1.2 Bàn luận về kiến thức của đối tượng nghiên cứu về một số đặc điểm của bệnh ĐQN
Nghiên cứu của tôi tập trung vào việc đánh giá kiến thức về bệnh ĐQN, bao gồm các thông tin quan trọng như bộ phận bị tổn thương chính, khả năng gây tử vong và biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
Tỷ lệ bệnh nhân biết đến bệnh Đột quỵ não (ĐQN) đạt 92,20%, cao hơn so với nghiên cứu tại Tanzania với 84% (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê) Kết quả này phản ánh đúng tình hình dịch tễ ĐQN toàn cầu và tại Việt Nam, nơi tỷ lệ mắc đột quỵ ngày càng gia tăng, đặc biệt ở các nước đang phát triển, cho thấy ĐQN đang trở nên phổ biến trong cộng đồng.
Trong nghiên cứu, khi được hỏi về bộ phận chính bị tổn thương do ĐQN, 80% bệnh nhân nhận thức đúng rằng não là cơ quan bị ảnh hưởng, nhưng vẫn có 20% không trả lời chính xác, cho thấy sự thiếu hụt kiến thức về ĐQN Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Văn Triệu năm 2007 tại Hải Dương, nơi chỉ 67% người tham gia nhận biết đúng Sự khác biệt này có thể do đối tượng nghiên cứu khác nhau; bệnh nhân THA tại bệnh viện Bạch Mai có thể có kiến thức tốt hơn về ĐQN nhờ tiếp xúc thường xuyên với nhân viên y tế và nguồn thông tin chính xác hơn so với cộng đồng.
Khi được hỏi về khả năng gây tử vong của ĐQN, 87.40% bệnh nhân nhận thức đúng rằng ĐQN có thể gây tử vong Điều này cho thấy họ hiểu rõ tầm quan trọng và ảnh hưởng lớn của căn bệnh đối với sức khỏe Ngoài ra, 82.20% cho rằng, mặc dù ĐQN nguy hiểm, họ vẫn có thể thực hiện các biện pháp phòng ngừa để giảm nguy cơ mắc bệnh, tỷ lệ này cao gấp 5 lần so với những người nghĩ rằng ĐQN không thể phòng ngừa.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong việc phân loại kiến thức của đối tượng, có đến 50-75% bệnh nhân trả lời đúng, cho thấy tỷ lệ nhận thức cao về bệnh ĐQN Chỉ có 8.2% đối tượng có kiến thức kém về bệnh này Phần lớn bệnh nhân THA có kiến thức trung bình và tốt về ĐQN, cho thấy hầu hết đều nắm bắt thông tin cơ bản Điều này có thể giải thích bởi các câu hỏi liên quan đến đặc điểm chung của ĐQN thường được phổ biến qua các phương tiện truyền thông, từ người thân hoặc từ kinh nghiệm cá nhân.
Trong một khảo sát nhằm đánh giá kiến thức của người tham gia về dấu hiệu của bệnh ĐQN, có tới 1/3 số đối tượng cho rằng bệnh này xảy ra đột ngột mà không có bất kỳ dấu hiệu cảnh báo nào Kết quả này hoàn toàn nhất quán với nghiên cứu của Mathew J Reeves [14].
Trong 5 dấu hiệu cảnh báo, dấu hiệu phổ biến nhất giảm dần từ: choáng váng, đau đầu không rõ nguyên nhân, tiếp theo là tê bì, liệt nửa người, mất trí nhớ, nói ngọng hoặc có vấn đề trong giao tiếp, thấp nhất là mất, giảm thị lực Kết quả này của tôi có sự khác biệt so với một số các nghiên cứu khác [10] [14] khi dấu hiệu phổ biến nhất mà đối tượng của họ biết đến đều là yếu liệt nửa người, có vấn đề về giao tiếp Sự khác biệt này có thể được giải thích do sự khác nhau trong việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu, đối tượng của họ là người dân tại cộng đồng, vì vậy, dấu hiệu phổ biến nhất chính là hậu quả để lại nhiều nhất cho bệnh nhân ĐQN, tuy nhiên, đối tượng của tôi lại là các bệnh nhân THA, kinh nghiệm bản thân khi bị THA khiến họ nghĩ khi bị ĐQN thì triệu chứng cũng giống như khi có cơn THA
Theo bảng 2.3, kiến thức của bệnh nhân tăng huyết áp (THA) về dấu hiệu cảnh báo của bệnh đái tháo đường (ĐQN) còn hạn chế, với chỉ 61,2% người tham gia được đánh giá có kiến thức kém (dưới 50% câu hỏi đúng), tỷ lệ này cao gấp 9 lần so với số người có kiến thức tốt.
3.1.4 Bàn luận về kiến thức của đối tượng về một số yếu tố nguy cơ của bệnh ĐQN
Tăng huyết áp (THA) là yếu tố nguy cơ hàng đầu có thể thay đổi để giảm tỷ lệ mắc đái tháo đường type 2 (ĐQN) Theo khảo sát, 81,20% đối tượng nhận thức được THA là yếu tố nguy cơ của ĐQN Tuy nhiên, chỉ một nửa trong số đó cho rằng THA là yếu tố quan trọng nhất, trong khi 1/3 nhầm lẫn rằng tuổi già hoặc nhồi máu cơ tim mới là yếu tố chính Điều này có thể được giải thích bởi phần lớn bệnh nhân ĐQN trong cộng đồng nằm trong độ tuổi từ 55-65 trở lên, dẫn đến sự nhầm lẫn về tầm quan trọng của yếu tố tuổi.
Nghiên cứu cho thấy rằng một nửa số đối tượng không nhận biết bất kỳ yếu tố nguy cơ nào khác ngoài tăng huyết áp (THA) liên quan đến bệnh đái tháo đường (ĐQN) Trong số những người còn lại, nhiều người cho rằng bệnh tim mạch là nguyên nhân chính gây ra ĐQN, tiếp theo là các yếu tố như tiểu đường, lối sống ít vận động, béo phì và chế độ ăn uống Tuy nhiên, tỷ lệ người có thể liệt kê các yếu tố này còn thấp.
Chỉ có 52.3% đối tượng có khả năng nêu ra ít nhất một yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh tăng huyết áp (THA), trong khi chỉ 19.9% có thể liệt kê từ ba yếu tố nguy cơ trở lên Điều này cho thấy rằng kiến thức của bệnh nhân về THA còn rất hạn chế, họ chủ yếu chỉ tập trung vào bệnh của chính mình mà không nhận thức đầy đủ về các yếu tố nguy cơ khác có thể dẫn đến bệnh đái tháo đường (ĐQN).
Đề xuất giải pháp
Để nâng cao kiến thức cho bệnh nhân tăng huyết áp (THA) về bệnh đột quỵ não (ĐQN), cần có sự trao đổi thông tin thường xuyên giữa nhân viên y tế tại Đơn vị Khám theo yêu cầu Viện Tim mạch – Bệnh viện Bạch Mai Bác sĩ và nhân viên y tế cần cung cấp thông tin trung thực, kịp thời về THA và ĐQN cho bệnh nhân và người nhà, tránh việc nói tốt hoặc nói xấu về tình trạng bệnh mà không có cơ sở Bệnh nhân cần được thông báo về các dấu hiệu cảnh báo và yếu tố nguy cơ mắc ĐQN, đồng thời được cung cấp số điện thoại để liên hệ khi phát hiện dấu hiệu bất thường, nhằm đảm bảo họ đến bệnh viện kịp thời.
Tổ chức nhiều chương trình truyền thông – giáo dục sức khỏe về ĐQN là cần thiết để khuyến khích bệnh nhân THA tham gia và nâng cao nhận thức về bệnh Việc tư vấn truyền thông hiệu quả giúp bệnh nhân nhận biết các dấu hiệu cảnh báo và yếu tố nguy cơ mắc ĐQN, từ đó bảo vệ sức khỏe cho bản thân và gia đình Truyền thông không chỉ cung cấp thông tin mà còn tạo điều kiện thuận lợi để thay đổi hành vi có hại, khuyến khích thực hiện các hành vi có lợi cho sức khỏe Các hoạt động truyền thông có thể được thực hiện qua pano, áp phích, truyền hình hoặc tổ chức hội thảo, tọa đàm tại các cơ sở y tế như Viện Tim mạch – Bệnh viện Bạch Mai.
Đơn vị Khám theo yêu cầu của viện Tim mạch đang tăng cường quản lý bệnh nhân từ xa bằng cách gửi email chứa thông tin quan trọng từ các buổi tư vấn truyền thông Những email này không chỉ giúp bệnh nhân ghi nhớ các dấu hiệu cảnh báo và yếu tố nguy cơ ĐQN mà còn cho phép họ lưu trữ thông tin lâu dài và dễ dàng truy cập khi cần thiết.
Các điều dưỡng trong khoa đã chủ động gọi điện để hỏi thăm sức khỏe và nhắc nhở lịch khám lại cho bệnh nhân, đồng thời cung cấp tư vấn giáo dục qua điện thoại Hành động này không chỉ thể hiện sự quan tâm đến bệnh nhân, giúp họ giảm lo lắng khi đến khám tại bệnh viện, mà còn hỗ trợ bác sĩ trong việc quản lý tình trạng sức khỏe của bệnh nhân hiệu quả hơn.
Kết quả nghiên cứu về kiến thức của 151 bệnh nhân tăng huyết áp (THA) tại Đơn vị khám theo yêu cầu, Viện Tim mạch – Bệnh viện Bạch Mai năm 2021 cho thấy nhiều bệnh nhân còn thiếu hiểu biết về các đặc điểm, dấu hiệu cảnh báo và yếu tố nguy cơ của bệnh đột quỵ não (ĐQN) Việc nâng cao kiến thức cho người bệnh THA về ĐQN là cần thiết để giảm thiểu nguy cơ và cải thiện sức khỏe.
Đối tượng tham gia nghiên cứu về bệnh ĐQN có kiến thức tương đối tốt về các đặc điểm của bệnh Cụ thể, 78.6% người tham gia nhận biết chính xác bộ phận tổn thương chính của bệnh là não, trong khi 82.2% có hiểu biết đúng về các khía cạnh khác của bệnh ĐQN.
Theo khảo sát, có tới 87.6% đối tượng cho rằng ĐQN có thể được phòng ngừa, và hầu hết đều đưa bệnh nhân ĐQN đi cấp cứu hoặc sơ cứu tại nhà với sự hỗ trợ từ nhân viên y tế.
Nghiên cứu cho thấy rằng kiến thức của bệnh nhân về các dấu hiệu cảnh báo của bệnh ĐQN còn hạn chế, với 33.8% không nhận biết được bất kỳ dấu hiệu nào và chỉ 21.2% có khả năng nêu ra hơn 2 dấu hiệu cảnh báo đúng.
Kiến thức của đối tượng về các yếu tố nguy cơ của bệnh đái tháo đường type 2 (ĐQN) ở mức trung bình Đặc biệt, 81.2% đối tượng nhận thức đúng rằng tăng huyết áp (THA) là một trong những yếu tố nguy cơ chính của ĐQN Ngoài ra, họ cũng có kiến thức về một số yếu tố khác như bệnh tim mạch, stress, béo phì và tiểu đường.
Mức kiến thức chung của đối tượng về bệnh ĐQN ở mức trung bình
Một số yếu tố liên quan đến kiến thức của người bệnh
Kiến thức của bệnh nhân về bệnh ĐQN phụ thuộc vào cách họ tìm hiểu thông tin và nguồn thông tin mà họ tiếp cận Những bệnh nhân THA thường xuyên trao đổi với nhân viên y tế về tình hình sức khỏe và được giải đáp thắc mắc về bệnh ĐQN thường có kiến thức tốt hơn Bên cạnh đó, kiến thức của họ còn liên quan đến các yếu tố như tuổi tác, địa điểm khám bệnh và số năm điều trị THA Một số giải pháp được đề xuất nhằm nâng cao kiến thức cho bệnh nhân trong nghiên cứu này.
Sự trao đổi thông tin thường xuyên giữa nhân viên y tế tại Đơn vị Khám theo yêu cầu Viện Tim mạch – Bệnh viện Bạch Mai và bệnh nhân là rất cần thiết.
(2) Tổ chức các chương trình truyền thông – giáo dục sức khỏe về ĐQN, đăng tải rộng rãi thông tin về bệnh ĐQN trên các phương tiện truyền thông
(3) Tăng cường quản lý bệnh nhân từ xa qua điện thoại, qua thư điện tử.
1 Đặng Hoàng Anh (2009) Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng rối loạn tâm thần ở bệnh nhân tai biến mạch máu não có THA, Luận án tiến sĩ Hệ thống liên thư viện ngành Y
2 Đặng Hoàng Anh, Nguyễn Văn Chương (2009) Nghiên cứu sự hồi phục ở bệnh nhân sau tai biến mạch máu não có THA sau 1 năm và một số yếu tố liên quan Tạp chí Thần kinh học 2009 Hội Thần kinh học Việt Nam
3 Nguyễn Văn Đăng (2006) Đột quỵ não, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội
4 Nguyễn Văn Triệu, Lê Thị Vẻ, Trương Thị Hồng Hạnh và cộng sự (2009) Đánh giá hiểu biết của người dân Hải Dương về đột quỵ Tạp chí Y học thực hành,
5 Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Đồng Nai (2020), Nguy cơ tai biến mạch máu não do THA, xem tại: http://www.dongnaicdc.vn/nguy-co-tai-bien-mach-mau- nao-do-tang-huyet-ap, Truy cập ngày 09/6/2021