TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về năng lực lãnh đạo trong đoàn thanh niên đã được thực hiện qua nhiều hình thức như luận án tiến sĩ, nghiên cứu chuyên sâu, tham luận, bài báo và các đề tài nghiên cứu khoa học ở nhiều cấp độ khác nhau Các công trình này đã khai thác các khía cạnh và phương pháp tiếp cận đa dạng nhằm làm rõ những vấn đề liên quan đến chủ đề này.
1 1 1 Các nghiên cứu về huy động nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước cho đào tạo nghề
Theo báo cáo “Cấp tài chính cho dạy nghề Việt Nam” của Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Đức (2007), việc huy động nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước cho đào tạo nghề ở Việt Nam cần được cải thiện Nghiên cứu đã chỉ ra thực trạng cấp phát tài chính tại các cơ sở đào tạo nghề công lập, tư nhân và doanh nghiệp, đồng thời đề xuất các hoạt động cần thực hiện nhằm xây dựng một hệ thống tài chính bền vững cho dạy nghề Hệ thống tài chính mới sẽ phát huy hiệu quả khi được triển khai song song với việc đổi mới các thành tố khác trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp.
Để nâng cao hiệu quả các nguồn lực tài chính công do Nhà nước đầu tư, cần chọn sinh viên làm đối tượng xây dựng định mức phân bổ dự toán ngân sách nhà nước cho giáo dục và điều chỉnh hệ số giữa các vùng Trương Anh Dũng (2014) nhấn mạnh cần điều chỉnh cơ cấu chi cho các đơn vị sự nghiệp công, ưu tiên tăng chi cho giáo dục, đặc biệt là các đơn vị ở vùng sâu, vùng xa và vùng kinh tế khó khăn, đồng thời giảm dần chi thường xuyên để tập trung vào cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật hiện đại Thái Yến (2018) cũng đề xuất tái cơ cấu phân bổ nguồn lực ngân sách nhà nước theo hướng ưu tiên xây dựng và tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và cơ sở dùng chung.
Trương Anh Dũng (2015) nhấn mạnh rằng cần chuyển từ cơ chế cấp kinh phí cho đơn vị sự nghiệp sang thanh toán dựa trên kết quả đầu ra, với mục tiêu phục vụ đối tượng sử dụng dịch vụ Ông đề xuất phương thức phân bổ ngân sách nhà nước (NSNN) theo kết quả hoạt động, dựa trên chi phí cho mỗi sinh viên/năm Đặng Văn Du và Bùi Tiến Hanh (2010) cũng cho rằng cần áp dụng khung chi tiêu trung hạn, dự toán đầy đủ nguồn lực tài chính có sẵn Việc phân bổ NSNN cần thực hiện theo khung chi tiêu trung hạn 5 năm, dựa vào kết quả đầu ra, với chính sách cụ thể cho các ngành có khả năng xã hội hóa cao và những ngành ít khả năng Để thực hiện hiệu quả, Nguyễn Văn Lâm (2017) đề xuất xây dựng hệ thống thông tin cập nhật hàng năm về tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm từ cấp trường, nhằm làm cơ sở cho việc phân bổ NSNN dựa trên đầu ra.
Để tăng nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) cho ĐTN, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng cần cải thiện chất lượng ĐTN và khôi phục các làng nghề địa phương Các mô hình nghiên cứu về sản xuất kinh doanh trong làng nghề cho thấy việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng là cần thiết để tìm ra giải pháp tài chính hiệu quả cho sự phát triển này Ngô Hồng Nhung (2016) đã đề xuất các giải pháp liên quan đến chi NSNN, tín dụng và thuế, cùng với các điều kiện thực hiện nhằm phát triển làng nghề tại địa phương Bên cạnh đó, Khương Thị Nhàn cũng đã đưa ra góc nhìn về xã hội hóa nguồn lực tài chính cho ĐTN chất lượng cao.
Năm 2016, một nghiên cứu chỉ ra rằng cần tập trung đầu tư vào một số trường nhằm xây dựng hệ thống trường nghề chất lượng cao Đồng thời, cần triển khai hiệu quả cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực đào tạo nghề.
Trong bối cảnh huy động nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) để đầu tư cho đào tạo nghề (ĐTN), các nghiên cứu tập trung vào phát triển nghề trọng điểm dựa trên khung phương pháp luận xác định nghề trọng điểm thông qua hệ thống chỉ tiêu và quy trình triển khai đồng bộ Theo Viện Nghiên cứu Khoa học Dạy nghề, Tổng cục Dạy nghề (2014), sự gia tăng cạnh tranh đối với nguồn lực tài chính công có hạn cùng với nhu cầu mở rộng và nâng cao chất lượng ĐTN đã tạo ra thách thức lớn trong việc đảm bảo tài chính bền vững cho ĐTN, trở thành vấn đề then chốt trong nỗ lực phát triển lĩnh vực này Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng đồng quan điểm về tầm quan trọng của việc này.
Việc giải quyết các yêu cầu tài chính đối với đào tạo nghề (ĐTN) là vấn đề quan trọng, bao gồm thông tin về chi phí thực tế và nguồn lực cần thiết Huy động nguồn lực bổ sung từ doanh nghiệp và học viên là cần thiết để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý vốn Tài chính bền vững cho dạy nghề đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển giáo dục nghề nghiệp (GDNN), đặc biệt là trong việc đầu tư cho giáo viên và cơ sở vật chất Nâng cao chất lượng đầu ra đòi hỏi tăng cường yêu cầu tài chính, cải thiện dịch vụ học tập dựa trên chất lượng giáo viên, giáo trình và cơ sở vật chất Tại Việt Nam và các nước ASEAN, nhu cầu tài chính tăng lên do sự mở rộng hệ thống ĐTN để đáp ứng dân số và nhu cầu nhân lực chất lượng cao.
1 1 2 Các nghiên cứu về huy động nguồn lực tài chính ngoài ngân sách nhà nước cho đào tạo nghề
Nghiên cứu về huy động nguồn lực tài chính ngoài ngân sách nhà nước cho đào tạo nghề (ĐTN) chủ yếu tập trung vào các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập, đánh giá những yếu tố ảnh hưởng và những hạn chế trong việc huy động nguồn tài chính Theo Trần Thế Lữ (2018), mô hình phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến mong muốn của học viên trong đào tạo tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã được áp dụng để làm rõ vấn đề này.
GDNN công lập cần phân tích và đề xuất giải pháp huy động nguồn tài chính hiệu quả Nguyễn Văn Lâm (2017) cho rằng học phí nên được coi là giá cả dịch vụ giáo dục, và cần chuyển đổi chính sách học phí hiện tại sang chính sách giá dịch vụ, tính đúng, đủ chi phí đào tạo, bao gồm cả chi phí tiền lương và hoạt động thường xuyên, hướng tới việc tính cả khấu hao tài sản cố định Ngô Hồng Nhưng (2016) cũng đề xuất xây dựng mức thu học phí cho các ngành có khả năng xã hội hóa cao dựa trên việc tính toán đầy đủ chi phí đào tạo, nhằm thực hiện nguyên tắc thu đủ bù đắp chi phí Trần Thế Lữ tiếp tục phát triển quan điểm coi học phí như thu nhập doanh nghiệp.
Năm 2018, đã có đề xuất về việc “tăng tỷ lệ thu hồi chi phí thông qua chính sách học phí”, đồng thời nhấn mạnh cần “phân biệt trần học phí giữa các nhóm ngành nghề đào tạo và theo vùng miền” Bên cạnh đó, cần quy định các nguyên tắc xác định mức học phí phù hợp với tình hình phát triển của đất nước.
Huy động nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước cho đào tạo nghề (ĐTN) là cần thiết để đảm bảo đầu tư đồng bộ cho hệ thống giáo dục nghề nghiệp công lập Theo Nguyễn Văn Lâm (2017), chủ trương xã hội hóa nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển hệ thống GDNN là một chiến lược lớn và lâu dài, được triển khai sâu rộng đến mọi cấp, ngành và tổ chức trong xã hội Việc xã hội hóa nguồn lực không chỉ huy động sự tham gia của khu vực tư nhân mà còn mang lại hiệu quả tích cực cho sự phát triển của hệ thống GDNN.
Cơ chế chính sách huy động nguồn lực tài chính cho ĐTN chủ yếu được nghiên cứu để đánh giá việc huy động và phân phối tài chính Mục tiêu là đưa ra các giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính, nhằm thúc đẩy sự phát triển của ĐTN theo Trương Anh Dũng.
Theo Trương Anh Dũng (2014), trong bối cảnh quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường, dạy nghề đã chuyển từ hoạt động xã hội thuần túy thành một loại hàng hóa công đặc biệt Để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng hóa công ngày càng tăng, việc có nguồn lực đào tạo chất lượng cao là điều cần thiết để sản xuất và cung ứng hiệu quả.
Năm 2015, đã đề xuất một cơ chế quản lý tài chính cho ĐTN với ba nội dung chính: Huy động và tạo lập nguồn tài chính, quản lý phân phối và sử dụng nguồn tài chính, cũng như kiểm tra và giám sát nguồn tài chính.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH TẠI CƠ SỞ ĐÀO TẠO NGHỀ CÔNG LẬP 22
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH TẠI CƠ SỞ ĐÀO TẠO NGHỀ CÔNG LẬP
2 1 Khái Quát về nguồn lực tài chính tại cơ sở đào tạo nghề công lập
Đào tạo nghề là một giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối cảnh kinh tế phát triển và công nghệ tiến bộ Quá trình này giúp người học đạt được kiến thức và kỹ năng cần thiết để thực hiện các công việc trong tương lai Theo William McGehee, đào tạo nghề là quy trình mà các công ty sử dụng để thúc đẩy việc học tập hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp Đào tạo nghề không chỉ là giáo dục ngoài giáo dục bắt buộc mà còn cung cấp kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp thiết yếu CEDEFOP định nghĩa rằng đào tạo nghề trang bị cho người học những kỹ năng và năng lực cần thiết để đáp ứng nhu cầu thị trường lao động Mục tiêu chung của đào tạo nghề là phát triển nhân lực cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, đảm bảo người học có đạo đức, sức khỏe, trách nhiệm nghề nghiệp, khả năng sáng tạo và thích ứng với môi trường làm việc, từ đó nâng cao năng suất lao động và tạo cơ hội việc làm cho người học.
Đào tạo nghề là một phần quan trọng trong hệ thống giáo dục của mỗi quốc gia, nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết cho người học để đáp ứng yêu cầu nhân lực trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ Quá trình này diễn ra dưới hai hình thức: đào tạo chính quy và đào tạo thường xuyên, hướng đến đối tượng là học sinh tốt nghiệp trung học hoặc người lao động có nhu cầu nâng cao trình độ Nội dung và phương pháp đào tạo tập trung vào việc phát triển năng lực thực hành nghề nghiệp, đồng thời chú trọng giáo dục đạo đức và rèn luyện sức khỏe, phù hợp với yêu cầu của từng nghề cụ thể Các cơ sở đào tạo nghề cần đáp ứng các tiêu chí quy định của từng quốc gia để đảm bảo chất lượng đào tạo.
Thứ nhất, đào tạo nghề là loại hình dịch vụ công không thuần túy đem lại những ngoại ứng tích cực
Dịch vụ công và dịch vụ tư được phân biệt dựa trên đặc tính cạnh tranh và loại trừ Dịch vụ công thường không có tính cạnh tranh và không có tính loại trừ, trong khi dịch vụ tư thì ngược lại Tuy nhiên, dịch vụ giáo dục, đặc biệt là dịch vụ đào tạo nghề, có những đặc điểm không thuần túy, vì có thể loại trừ người sử dụng nếu họ không đáp ứng các điều kiện như xét tuyển hay đóng học phí Dịch vụ đào tạo nghề mang lại lợi ích không chỉ cho người học mà còn cho xã hội, như tăng năng suất lao động và giảm các tiêu cực xã hội Tuy nhiên, tác động tích cực này không được thể hiện rõ ràng trên thị trường đào tạo nghề Điều này nhấn mạnh vai trò của cả khu vực nhà nước và tư nhân trong việc đào tạo nghề, cũng như trách nhiệm xã hội đối với hoạt động này Đối với dịch vụ công không thuần túy, nhà nước không cần bao cấp hoàn toàn, mà người học cần chia sẻ một phần chi phí dưới dạng học phí, trong khi nhà nước có thể hỗ trợ tài chính cho nhà cung cấp dịch vụ để tăng cường lợi ích xã hội.
Đào tạo nghề cần phải liên kết chặt chẽ với nhu cầu của thị trường lao động và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia trong các giai đoạn phát triển khác nhau.
Thị trường lao động có yêu cầu đa dạng và biến động theo tình hình kinh tế - xã hội, dẫn đến sự thay đổi trong đào tạo nghề về nội dung, phương thức và quy trình Trong mô hình kinh tế hỗn hợp, sự kết hợp giữa các quy luật thị trường và sự quản lý của Nhà nước ảnh hưởng đến đào tạo nghề, tuân theo chu kỳ kinh tế và chiến lược phát triển do Nhà nước đề ra Nghiên cứu những đặc điểm này là cần thiết để xây dựng chương trình và quy trình đào tạo nghề cho các cơ sở đào tạo công lập và ngoài công lập.
Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu trong đào tạo nghề
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, di chuyển lao động không còn bị giới hạn trong biên giới quốc gia, điều này ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động đào tạo nghề Các cơ sở đào tạo nghề cần chú trọng đến các tiêu chuẩn quốc tế để đáp ứng nhu cầu của người lao động khi làm việc ở nước ngoài, đồng thời phải đối mặt với sự cạnh tranh từ cả các cơ sở đào tạo trong nước và quốc tế Nhận thức rõ về những đặc điểm này là yếu tố quan trọng để đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo nghề trong nước, nhằm thích ứng với xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng.
Đào tạo nghề hướng đến những cá nhân có nhu cầu và nguyện vọng theo học, thường là học sinh vừa tốt nghiệp trung học hoặc người lao động mong muốn nâng cao kỹ năng nghề nghiệp.
Đối tượng học nghề chủ yếu là học sinh tốt nghiệp trung học và người lao động có nhu cầu, do đó nội dung và phương thức đào tạo nghề khác biệt so với các hình thức đào tạo khác Nội dung đào tạo nghề tập trung chủ yếu vào thực hành, giảm thiểu lý thuyết hàn lâm Phương thức đào tạo thường mang tính cầm tay chỉ việc, gắn liền với yêu cầu và đặc điểm cụ thể của từng cơ sở sản xuất, kinh doanh Sự khác biệt này giúp phân biệt đào tạo nghề với các cấp đào tạo khác, từ đó tạo điều kiện cho việc xây dựng quy hoạch hoạt động đào tạo nghề một cách hợp lý.
2 1 2 Phân loại các cơ sở đào tạo nghề
CSĐT nghề là một phần của hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ đào tạo và phát triển các hoạt động giáo dục nghề nghiệp, đồng thời thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ nhằm phục vụ cộng đồng.
Căn cứ theo tính chất đầu tư, các CSĐT nghề được chia làm 2 loại:
CSĐT nghề công lập được đầu tư bởi nhà nước nhằm đảm bảo hoạt động khi nhận thấy lợi ích xã hội lớn, tác động tích cực đến cộng đồng Hệ thống này định hướng cho tài chính dạy nghề, cải thiện năng suất lao động, thúc đẩy việc làm, tự tạo việc làm và nâng cao phúc lợi xã hội.
CSĐT nghề ngoài công lập đang ngày càng phát triển nhờ vào sự đầu tư của các tổ chức và cá nhân, khi họ nhận thấy lợi ích từ việc đào tạo nghề Việc nâng cao kỹ năng và thu nhập cho người lao động không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân mà còn cho doanh nghiệp Mặc dù ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng, nhưng khi dạy nghề mang lại lợi ích thiết thực cho người học và doanh nghiệp, họ sẽ sẵn sàng đầu tư tài chính vào lĩnh vực này.
Căn cứ theo mục tiêu tổ chức quản lý, các CSĐT nghề chia làm 3 loại:
CSĐT cung cấp các khóa học dài hạn với nội dung kỹ thuật và logic, bao gồm cả môn học lý thuyết, thường được tổ chức bởi các trường nghề, cao đẳng và đại học Ngoài ra, các trung tâm đào tạo nghề trong hệ thống giáo dục đại học cũng triển khai chương trình nâng cao cho kỹ thuật viên và kỹ sư Ở nhiều quốc gia, các trường phổ thông cũng tham gia vào việc đào tạo nghề ở cấp độ cơ bản.
CSĐT nghề cho thị trường lao động cung cấp các chương trình đào tạo nghề nghiệp đa dạng, bao gồm khóa học ngắn hạn cho thanh niên, khóa học dành cho lao động thất nghiệp và các khóa nâng cao cho người lao động.
Trong hệ thống này, tổ chức đào tạo cấp quốc gia đóng vai trò quan trọng, với mạng lưới trung tâm đào tạo rộng khắp, liên kết chặt chẽ với các cơ quan lao động địa phương.
CSĐT nghề tại doanh nghiệp bao gồm các hướng dẫn và đầu tư tài chính từ doanh nghiệp cho công nhân, có thể được thực hiện tự nguyện theo quy định riêng Các quốc gia có sự khác biệt về vai trò của chính phủ trong quản lý đào tạo nghề tại doanh nghiệp, với ba hình thức chính: chính phủ quy định cứng, không quy định cứng hoặc doanh nghiệp tự quy định.
Căn cứ theo đơn vị chủ quản, các CSĐT nghề bao gồm: