MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG
Khái niệm tín dụng
Theo các nghiên cứu trước đây, nhiều nhà kinh tế đã đưa ra những khái niệm khác nhau về tín dụng Các nhà kinh tế học Mác-xít cho rằng tín dụng là việc cho vay tiền, với đặc điểm là tiền sẽ quay trở lại người cho vay mà vẫn giữ nguyên giá trị và có khả năng sinh lời trong quá trình hoạt động Điều này có nghĩa là tiền chỉ tạm thời rời khỏi tay người sở hữu, chuyển giao cho nhà tư bản để sử dụng, và sẽ trở lại sau một thời gian nhất định mà không phải để thanh toán hay bán đi Cách hiểu này không chỉ nêu rõ ai là người có vốn hay cần vốn, mà còn làm rõ bản chất mối quan hệ vay mượn vốn.
Trong quan hệ tín dụng, vốn được coi là hàng hóa đặc biệt, được bán dưới hình thức quyền sử dụng trong một khoảng thời gian xác định, khác với quan hệ mua bán hàng hóa thông thường, nơi quyền sở hữu hàng hóa được chuyển nhượng để nhận tiền thanh toán.
Trong quan hệ tín dụng, giá cả không tách rời và không phản ánh trực tiếp giá trị như trong thương mại, mà là phần tăng thêm so với giá trị ban đầu của số tiền cho vay Lãi suất của khoản vay chính là biểu hiện của giá cả trong quan hệ tín dụng, và nó chịu ảnh hưởng chủ yếu từ các yếu tố khác, đặc biệt là mức độ rủi ro trong quan hệ tín dụng, thay vì giá trị của khoản vay.
Tín dụng đóng vai trò then chốt trong hoạt động của ngân hàng, không chỉ là chức năng cơ bản mà còn là nghiệp vụ kinh doanh thiết yếu, mang lại phần lớn nguồn thu nhập cho ngân hàng Sự thành công hay thất bại của ngân hàng trên thị trường phụ thuộc nhiều vào hiệu quả của các hoạt động tín dụng.
Theo giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng Thương mại của tác giả Lê Trung Thành, tín dụng được định nghĩa là giao dịch tài sản giữa bên cho vay và bên đi vay Trong giao dịch này, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay để sử dụng trong thời gian nhất định theo thỏa thuận, và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vốn gốc cùng lãi suất cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Trong quan hệ giao dịch giữa người cho vay và người đi vay thể hiện các nội dung sau:
Người cho vay cung cấp cho người đi vay một giá trị nhất định, có thể dưới dạng tiền tệ hoặc hiện vật như hàng hóa, máy móc, thiết bị và bất động sản.
Người đi vay chỉ được sử dụng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định và phải hoàn trả sau khi hết thời hạn theo thỏa thuận Từ "Cred" trong tiếng Latinh, nghĩa là tín nhiệm, thể hiện rằng người cho vay tin tưởng người đi vay sẽ hoàn trả khoản vay trong tương lai Thông thường, giá trị hoàn trả sẽ lớn hơn số tiền vay ban đầu, bao gồm cả lãi suất ngoài vốn gốc đã mượn.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, người vay có nghĩa vụ hoàn trả khoản vay một cách vô điều kiện khi đến hạn Cơ sở pháp lý cho việc hoàn trả này bao gồm các hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ và các giấy tờ có giá trị khác.
Tín dụng không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn bao gồm cả việc đi vay, tuy nhiên trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng thường được hiểu chủ yếu là cho vay Hoạt động cho vay đóng vai trò quan trọng trong các mối quan hệ tín dụng mà ngân hàng tham gia Sự hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn huy động từ các thành phần kinh tế sẽ quyết định uy tín của ngân hàng, từ đó thu hút các chủ thể có vốn nhàn rỗi gửi tiền vào ngân hàng Do đó, tín dụng ngắn hạn có thể được hiểu là cho vay ngắn hạn, trong khi tín dụng theo hạn mức là cho vay dựa trên hạn mức đã định.
Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCSXH) thực hiện hoạt động tín dụng nhằm hỗ trợ người nghèo và các đối tượng chính sách khác thông qua các khoản vay ưu đãi NHCSXH không vì lợi nhuận và được Nhà nước đảm bảo khả năng thanh toán, với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 0%, không tham gia bảo hiểm tiền gửi và được miễn thuế Đây là công cụ quan trọng của Nhà nước để giúp hộ nghèo, hộ cận nghèo tiếp cận vốn tín dụng, phát triển sản xuất, tạo việc làm và cải thiện đời sống, góp phần vào chính sách phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo Theo Nghị định 78/2002/NĐ-CP, tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác sử dụng nguồn lực tài chính do Nhà nước huy động để phục vụ sản xuất, kinh doanh, góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và ổn định xã hội.
Phân loại tín dụng
Tín dụng có nhiều khái niệm đa dạng, phản ánh bản chất và mục đích khác nhau của các hoạt động tín dụng, cũng như hình thức tín dụng phù hợp với đặc điểm kinh tế và trình độ phát triển xã hội ở từng giai đoạn Do đó, tín dụng ngân hàng được phân loại thành nhiều loại khác nhau dựa trên các tiêu chí khác nhau Theo quy định tại Điều 98 của Luật các Tổ chức tín dụng, hoạt động ngân hàng của các ngân hàng thương mại cũng được quy định cụ thể.
Năm 2010, các ngân hàng thương mại được quy định cấp tín dụng dưới nhiều hình thức, bao gồm cho vay, chiết khấu và tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng cùng giấy tờ có giá khác Ngoài ra, các ngân hàng còn thực hiện bảo lãnh ngân hàng, phát hành thẻ tín dụng, và bao thanh toán trong nước cũng như quốc tế, nhưng chỉ đối với những ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế Các hình thức cấp tín dụng khác cũng cần có sự chấp thuận từ Ngân hàng Nhà nước.
1.1.2.1 Căn cứ vào hình thức tín dụng
Nếu phân loại theo hình thức thì tín dụng hiện nay bao gồm:
+ Cho vay: là việc ngân hàng đua tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Chiết khấu thương phiếu là quá trình ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng dựa trên giá trị của thương phiếu, sau khi trừ đi phần thu nhập mà ngân hàng thu được, nhằm sở hữu thương phiếu chưa đến hạn.
+ Bảo lãnh: là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình (cho khách hàng sử dụng uy tín của mình).
Cho thuê tài chính là hình thức mà ngân hàng đầu tư mua tài sản và cho khách hàng thuê theo các điều khoản đã thỏa thuận Sau khi kết thúc thời gian thuê, khách hàng có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân hàng.
1.1.2.2 Căn cứ vào mục đích vay
Theo căn cứ này tín dụng đuợc chia ra làm các loại:
Cho vay bất động sản là hình thức cho vay phục vụ cho việc mua sắm và xây dựng các loại hình bất động sản như nhà ở, đất đai, cũng như bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại là hình thức cho vay ngắn hạn nhằm cung cấp vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất, giống vật nuôi, cây trồng, lao động, nhiên liệu
Cho vay cá nhân là hình thức cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, như mua sắm vật dụng và chi trả các khoản chi phí hàng ngày, thường được thực hiện thông qua việc phát hành thẻ tín dụng.
Cho thuê tài chính và các loại khác
1.1.2.3 Căn cứ vào thời hạn cho vay
Theo căn cứ này tín dụng đuợc chia làm 3 loại nhu sau:
Cho vay ngắn hạn là hình thức cho vay có thời gian dưới 12 tháng, nhằm bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động cho doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân Tại các ngân hàng thương mại, tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng dư nợ cho vay.
Cho vay trung hạn, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, có thời hạn từ 1 đến 5 năm, trong khi ở nhiều quốc gia khác, thời gian cho vay có thể lên đến 7 năm Hình thức tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư vào tài sản cố định, cải tiến công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh và xây dựng các dự án quy mô nhỏ với thời gian thu hồi vốn nhanh Trong lĩnh vực nông nghiệp, tín dụng trung hạn thường được áp dụng để đầu tư vào máy móc như máy cày, máy bơm nước, hoặc xây dựng mô hình vườn cây công nghiệp như cà phê, cao su, và điều.
Cho vay dài hạn là hình thức tín dụng có thời gian vay trên 5 năm theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, và lên đến 7 năm theo quy định của nhiều quốc gia khác trên thế giới.
1.1.2.4 Căn cứ vào tài sản đảm bảo
Theo căn cứ này, tín dụng đuợc chia thành 2 loại nhu sau:
Cho vay không bảo đảm là hình thức tín dụng không yêu cầu tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh từ bên thứ ba, mà chỉ dựa vào uy tín của khách hàng Ngân hàng có thể cấp tín dụng cho những khách hàng có uy tín, trung thực trong kinh doanh, khả năng tài chính ổn định và quản trị hiệu quả, mà không cần nguồn thu nợ bổ sung.
Cho vay có bảo đảm là hình thức cho vay mà ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh từ bên thứ ba Đối với những khách hàng có uy tín thấp, việc vay vốn thường cần có sự bảo đảm Điều này tạo ra cơ sở pháp lý cho ngân hàng, giúp họ có thêm nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ đầu tiên không chắc chắn.
1.1.2.5 Căn cứ vào phương pháp hoàn trả
Theo hình thức này, tín dụng đuợc chia làm 2 loại nhu sau:
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng yêu cầu khách hàng hoàn trả cả vốn gốc và lãi theo định kỳ Hình thức cho vay này chủ yếu được áp dụng trong lĩnh vực bất động sản, nhà ở, tiêu dùng, cho hộ kinh doanh nhỏ và trang bị kỹ thuật trong nông nghiệp Có nhiều phương pháp trả góp, bao gồm: trả lãi và gốc bằng nhau trong tất cả các kỳ, trả vốn gốc bằng nhau và lãi tính theo số dư cuối kỳ, trả vốn gốc bằng nhau với lãi tính trên mức hoàn trả của vốn gốc, và phương pháp cộng thêm.
Cho vay phi trả góp: là hình thức cho vay thanh toán một lần theo kỳ hạn đã thỏa thuận khi làm hợp đồng tín dụng.
Các chương trình tín dụng chủ yếu tại Ngân hàng Chính sách Xã hội11 1.1.4.SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA CÁC CHƯƠNG TRÌNH TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO TẠI NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
Theo nghị định số 78/2002/NĐ-CP, NHCSXH thực hiện cho vay đối tượng chính sách như hộ nghèo, học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, và các đối tượng cần vay vốn giải quyết việc làm Được thành lập năm 2003, NHCSXH tiếp nhận và tiếp tục chương trình cho vay hộ nghèo trước đây từ NHNo&PTNT, đồng thời chuyển sang cho vay trực tiếp và qua các tổ chức chính trị xã hội Ngân hàng cũng nhận bàn giao chương trình cho vay từ Ngân hàng Công thương Việt Nam và chương trình vay vốn giải quyết việc làm từ Kho bạc Nhà nước.
Cho đến nay, nguồn vốn tín dụng của NHCSXH đã đến được với tất cả các đối tượng chính sách thông qua các sản phẩm dịch vụ như:
Cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách bao gồm nhiều chương trình hỗ trợ tài chính như cho vay hộ nghèo, cho vay vốn xuất khẩu lao động, và cho vay xây dựng nhà ở theo Quyết định 167 của Thủ tướng Chính phủ Những chương trình này nhằm mục đích cải thiện đời sống của hộ nghèo và tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong việc tiếp cận nguồn vốn.
Chương trình hỗ trợ tài chính bao gồm 62 huyện nghèo, cung cấp các khoản vay cho học sinh, sinh viên, giải quyết việc làm, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn Ngoài ra, chương trình còn hỗ trợ vay nhà ở cho các khu vực thường xuyên bị ngập lũ ở Đồng bằng Sông Cửu Long, vay cho hộ gia đình sản xuất kinh doanh tại các vùng khó khăn, và vay cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Nhận tiền gửi tiết kiệm bao gồm các hình thức như nhận tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và nhận tiền gửi tiết kiệm dành cho người nghèo.
Dịch vụ thanh toán ngân quỹ bao gồm các hình thức như tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, chuyển tiền trong nước và dịch vụ chuyển tiền kiều hối Những dịch vụ này giúp tối ưu hóa quản lý tài chính cá nhân và doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo an toàn và thuận tiện trong các giao dịch tài chính.
Dự án phát triển ngành Lâm nghiệp tại Việt Nam được tài trợ từ nguồn vốn vay của Ngân hàng Thế giới, nhằm bảo vệ và phát triển các vùng đất ngập ven biển miền Nam Bên cạnh đó, dự án thí điểm cung cấp dịch vụ tài chính vi mô cũng đang được triển khai, tạo việc làm cho những người sống chung và chịu ảnh hưởng bởi HIV/AIDS cũng như người sau cai nghiện ma túy, với nguồn vốn từ Tổ chức sức khỏe gia đình quốc tế (FHI) và các chương trình cho vay khác.
Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCSXH) đã hợp tác với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phát hành thẻ ATM cho học sinh, sinh viên (HSSV) Điều này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho HSSV trong việc sử dụng vốn vay để đóng học phí và chi trả các khoản chi phí học tập Thẻ ATM giúp gia đình HSSV không phải chịu chi phí chuyển tiền, đồng thời đảm bảo an toàn cho tiền bạc, vì HSSV không cần phải bảo quản tiền mặt Ngoài ra, HSSV còn được hưởng lãi suất không kỳ hạn trên số dư tài khoản thẻ.
Việt Nam (Agribank) và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam (Vietinbank) về việc phát hành thẻ để thực hiện giải ngân cho vay
Chính phủ phát hành trái phiếu được bảo lãnh với các kỳ hạn 02, 03, 05 và 10 năm Lãi suất trái phiếu được thông báo định kỳ theo khung của Bộ Tài chính và thực hiện thông qua phương thức đấu thầu tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội Trái phiếu được phát hành dưới hình thức ghi sổ.
1.2 SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA CÁC CHƯƠNG TRÌNH TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO TẠI NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH
1.2.1 Tong quan về hoạt động của Ngân hàng Chính sách Xã hội
1.2.1.1 Về lịch sử h ình thành
Nghị quyết số 05-NQ/HNTW, ngày 10/6/1993, của Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã đề ra chủ trương về chế độ tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo, hộ chính sách và các vùng khó khăn Để thực hiện hiệu quả Nghị quyết và Chiến lược quốc gia về xóa đói giảm nghèo, Chính phủ đã thành lập Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo vào năm 1993 với vốn ban đầu 400 tỷ đồng từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Ngoại thương và Ngân hàng Nhà nước Quỹ này cung cấp vốn cho hộ nghèo thiếu vốn sản xuất kinh doanh với lãi suất ưu đãi, mức cho vay tối đa 500.000 đồng/hộ mà không yêu cầu bảo đảm tiền vay.
Vào ngày 31/8/1995, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 525/QĐ-TTg thành lập Ngân hàng Phục vụ người nghèo, dựa trên kinh nghiệm hai năm thực hiện Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo Ngân hàng này được đặt trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT).
Việt Nam), hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, để cung cấp nguồn vốn uu đãi cho hộ nghèo thiếu vốn sản xuất.
Ngân hàng Phục vụ người nghèo, với mô hình tổ chức đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, đã tận dụng bộ máy và mạng lưới sẵn có của NHNo&PTNT Việt Nam để thiết lập kênh tín dụng riêng Kênh này hỗ trợ tài chính cho các hộ nghèo thông qua các chính sách tín dụng hợp lý, giúp họ có vốn sản xuất, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, và dần làm quen với nền sản xuất hàng hóa, từ đó có điều kiện thoát khỏi đói nghèo.
Bộ phận quản trị và điều hành của Ngân hàng phục vụ người nghèo hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm, dẫn đến việc thiếu thời gian nghiên cứu các vấn đề thực tiễn, hạn chế khả năng đề xuất chính sách và cơ chế quản lý Tất cả các hoạt động nghiên cứu và đề xuất cơ chế chính sách đều được giao cho ban điều hành, trong khi ban này lại thuộc NHNo&PTNT Việt Nam, khiến cho chức năng hoạch định chính sách và điều hành theo chính sách không thể tách biệt.
Nguồn vốn hỗ trợ người nghèo và các đối tượng chính sách từ ngân sách Nhà nước được phân bổ cho nhiều cơ quan và tổ chức, dẫn đến tình trạng phân tán và chồng chéo trong quản lý Ngoài Ngân hàng Phục vụ người nghèo và NHNo&PTNT Việt Nam, còn có các nguồn vốn khác như Kho bạc Nhà nước cho vay giải quyết việc làm, Ngân hàng Công thương cho vay học sinh, sinh viên khó khăn, và các chương trình ưu đãi cho tổ chức kinh tế, hộ sản xuất ở hải đảo và khu vực miền núi theo Chương trình 135 của Chính phủ.
Việc hình thành các nguồn vốn cho vay chính sách tại nhiều tổ chức tài chính khác nhau đã gây khó khăn trong việc kiểm soát của Nhà nước, khiến tín dụng chính sách và tín dụng thương mại không được tách bạch Để thực hiện Luật các tổ chức tín dụng và các nghị quyết của Đại hội Đảng IX, cũng như nghị quyết của Quốc hội khoá X về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), cần tách tín dụng ưu đãi ra khỏi tín dụng thương mại Đồng thời, thực hiện cam kết với Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) về việc thành lập Ngân hàng Chính sách Ngày 04/10/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2002/NĐ-CP về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg về việc thành lập NHCSXH trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ nguời nghèo, tách khỏi NHNo&PTNT Việt Nam.
1.2.1.2 về chức năng nhiệm vụ
NHCSXH đuợc thành lập để thực hiện chính sách tín dụng uu đãi đối với nguời nghèo và các đối tuợng chính sách khác.
Hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) không nhằm mục đích lợi nhuận và được Nhà nước đảm bảo khả năng thanh toán NHCSXH có tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 0%, không cần tham gia bảo hiểm tiền gửi, đồng thời được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước.
Tình trạng nghèo đói ở Việt Nam
Sau gần 30 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã phát triển nhanh chóng và đạt nhiều thành tựu lớn, nhờ vào chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, sự hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế và nỗ lực của nhân dân Nước ta đã thành công trong việc giảm nghèo, đặc biệt là cải thiện hạ tầng và chất lượng cuộc sống cho người dân ở các xã nghèo, bao gồm nhóm hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số miền núi và phụ nữ Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển của một bộ phận dân cư giàu có, vẫn còn nhiều người nghèo, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, điều này đang đặt ra thách thức cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Theo báo cáo của Ủy ban Dân tộc, sau 5 năm thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo toàn quốc đã giảm từ 20% năm 2006 xuống 9,45% năm 2010, và vào năm 2012, cả nước còn 2.149.110 hộ nghèo, chiếm 9,60% Trong đó, hộ dân tộc thiểu số nghèo chiếm trên 50% Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo tại các vùng dân tộc và miền núi cao nhất cả nước, với tỷ lệ hộ nghèo/cận nghèo khu vực miền núi Tây Bắc năm 2012 là 28,55%/11,48%; miền núi Đông Bắc là 17,39%/8,92%; Tây Nguyên 15,00%/6,19%; Bắc Trung Bộ 15,01%/13,04% Các xã đặc biệt khó khăn có tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo trên 45%, và một số xã, thôn, nhóm dân tộc rất ít người tỷ lệ lên tới trên 90%.
Trong những năm gần đây, tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo ở Việt Nam đã giảm dần; tuy nhiên, những khó khăn về địa bàn sinh sống và nguồn sinh kế hạn chế khiến đồng bào dân tộc thiểu số trở thành nhóm dễ bị tổn thương trong quá trình phát triển Bên cạnh đó, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, thiên tai và lũ lụt đã làm cho kết quả giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số thiếu tính bền vững, dẫn đến tỷ lệ tái nghèo và phát sinh nghèo cao.
Theo UNDP, Việt Nam được xem là một câu chuyện thành công về phát triển sau hai thập kỷ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng Công cuộc Đổi mới chính trị và kinh tế bắt đầu từ năm 1986 đã giúp Việt Nam chuyển mình từ một trong những nước nghèo nhất thế giới thành quốc gia có mức thu nhập trung bình chỉ trong 25 năm Sự tăng trưởng ấn tượng này đã nâng cao thu nhập bình quân đầu người từ dưới 100 USD lên khoảng 1.596 USD.
Từ năm 1993 đến 2008, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm mạnh từ 58% xuống 14%, và ước tính còn khoảng 11,8% vào năm 2011 Mặc dù Việt Nam đã hoàn thành một số Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ trước thời hạn 2015 và cải thiện hầu hết các chỉ số phát triển, nhưng đất nước đang đối mặt với những thách thức mới khi bước vào giai đoạn phát triển tiếp theo.
Biểu đồ 1.1: Tỷ lệ hộ nghèo các vùng trong cả nước 2011-2012
(Báo cáo tình hình và kết quả thực hiện các chính sách và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo)
Theo Báo cáo Phát triển Con người năm 2013, Việt Nam được xếp hạng trong số hơn 40 quốc gia đang phát triển với những tiến bộ vượt bậc về phát triển con người trong những thập kỷ qua Theo báo cáo toàn cầu của UNDP, chỉ số phát triển con người của Việt Nam đã tăng 41% trong 20 năm qua, và vào năm 2012, Việt Nam đứng thứ 127 trong tổng số 187 quốc gia, thuộc nhóm xếp loại ‘trung bình’ về phát triển con người.
Báo cáo phát triển con người năm nay, mang tiêu đề “Sự trỗi dậy của các nước Nam bán cầu: Tiến bộ về con người trong một thế giới đa dạng”, đã phân tích hơn 40 quốc gia đang phát triển với những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực phát triển con người Các kết quả này được ghi nhận nhờ vào cam kết mạnh mẽ của Chính phủ trong việc cải cách hệ thống giáo dục và y tế công cộng, thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo mang tính đột phá, cùng với sự tham gia chiến lược vào nền kinh tế toàn cầu.
Báo cáo chỉ ra rằng sự trỗi dậy nhanh chóng và quy mô lớn của các nước Nam bán cầu là điều chưa từng có trong lịch sử Mặc dù tăng trưởng kinh tế diễn ra, nhưng không đồng nghĩa với sự tiến bộ trong phát triển con người Để nâng cao chất lượng sống, các chính sách hỗ trợ người nghèo và đầu tư vào giáo dục, dinh dưỡng, y tế và kỹ năng lao động là rất cần thiết Những nước Đông Á như Trung Quốc, Indonesia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan và Brunei đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong lĩnh vực này.
Dù có nhiều thuận lợi và cơ hội trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, Việt Nam vẫn phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức Mặc dù nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng và đời sống của người dân được cải thiện, nhưng thu nhập và chi tiêu bình quân đầu người vẫn còn ở mức thấp, khiến nước ta vẫn nằm trong danh sách các quốc gia nghèo.
Phần lớn thu nhập của người nghèo từ nông nghiệp
Xuất phát từ nền tảng nông nghiệp, thu nhập của người nghèo chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp, khiến họ dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như thiên tai, lũ lụt và hạn hán, dẫn đến tình trạng mất mùa và thiếu đói Nguồn lực về đất đai, lao động và vốn của họ thường rất hạn chế, tạo ra sự bấp bênh trong thu nhập Nhiều gia đình, dù có thu nhập trên ngưỡng nghèo, vẫn có thể rơi trở lại mức nghèo khi có biến động tài chính Hơn nữa, tính vụ mùa trong sản xuất nông nghiệp cùng với yêu cầu về giống, chất lượng và kiến thức khoa học kỹ thuật đã tạo ra một vòng luẩn quẩn khó thoát khỏi tình trạng nghèo đói.
Nghèo đói chủ yếu tập trung ở những vùng có điều kiện sống khó khăn, như vùng núi, vùng sâu, vùng xa, và các khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung Những nơi này thường thiếu tài nguyên thiên nhiên và phải đối mặt với điều kiện khí hậu khắc nghiệt Biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, và sự phát triển công nghiệp không bền vững đã làm trầm trọng thêm tình hình Các hiện tượng thiên tai như bão, lũ lụt, và hạn hán xảy ra ngày càng nhiều, gây thiệt hại lớn về người và tài sản, làm cho cuộc sống của người dân trở nên khó khăn và khó phục hồi Hệ quả là cơ sở hạ tầng yếu kém, ảnh hưởng đến trình độ và nhận thức của cộng đồng sống tại những khu vực này.
Nghèo đói tập trung trọng yếu ở khu vực nông thôn
Tình trạng nghèo đói chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn, nơi hơn 90% người nghèo sinh sống Hơn 80% trong số đó là nông dân, họ thường thiếu kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, đồng thời gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn lực sản xuất.
Nghèo đói trong khu vực thành thị
Tỷ lệ nghèo ở khu vực thành thị đã giảm mạnh từ 25,1% năm 1993 xuống còn 3,3% năm 2008, cho thấy nghèo về thu nhập không còn phổ biến Tuy nhiên, đô thị hóa nhanh chóng và làn sóng di cư từ nông thôn ra thành phố đã dẫn đến nhiều vấn đề mới như nhà ở kém chất lượng, thiếu nước sạch, ô nhiễm môi trường, và hạn chế trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản Điều này đặc biệt ảnh hưởng đến công nhân nghèo, người di cư và lao động tự do, khiến tỷ lệ các nhóm dân thành thị có nguy cơ nghèo khổ về nhiều mặt trong cuộc sống ngày càng tăng Do đó, cần có những chiến lược khác nhau để giải quyết vấn đề nghèo thành thị một cách hiệu quả.
Tỷ lệ hộ nghèo còn khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao
Các vùng núi cao, hẻo lánh và nơi sinh sống của các dân tộc thiểu số thường có tỷ lệ nghèo đói cao, với 64% số người nghèo tập trung chủ yếu ở các khu vực như núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung Những khu vực này gặp nhiều khó khăn về điều kiện sống, địa lý cách biệt, hạn chế trong khả năng tiếp cận sản xuất và dịch vụ, cơ sở hạ tầng kém phát triển, cùng với điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và thường xuyên xảy ra thiên tai.
Tỷ lệ hộ nghèo đặc biệt cao ở nhóm dân tộc thiểu số ít người
Tính đến năm 2008, 50% các dân tộc thiểu số ở Việt Nam vẫn sống dưới chuẩn nghèo, với 31% trong số họ thiếu đói Các nhóm dân tộc thiểu số chiếm hơn 50% tổng số người nghèo, và tốc độ giảm nghèo của họ diễn ra chậm hơn so với người Kinh Khu vực Tây Bắc có tỷ lệ nghèo cao nhất (45,7%), tiếp theo là Tây Nguyên (24,1%), nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số như Ba-na, Gia-rai, Ê-đê, Cờ-ho, H’mông và Mường Bên cạnh thu nhập, các khía cạnh khác như giáo dục, y tế, nước sạch, vệ sinh môi trường và nhà ở của các dân tộc thiểu số cũng giảm nghèo chậm hơn mức trung bình quốc gia.
Vai trò của tín dụng tại Ngân hàng Chính sách Xã hội đối với hộ nghèo
Gần đây, Việt Nam đã phát triển một phương pháp tính toán đa chiều để đo lường tình trạng nghèo ở trẻ em, dựa trên các yếu tố như giáo dục, y tế, dinh dưỡng, nơi ở, nước sạch và vệ sinh, lao động trẻ em, vui chơi giải trí, hòa nhập xã hội và bảo vệ trẻ em Phương pháp này được áp dụng cho dữ liệu từ Điều tra Hộ gia đình, nhằm cung cấp cái nhìn toàn diện hơn về tình hình nghèo đói ở trẻ em.
Năm 2008, khoảng 1/3 trẻ em dưới 16 tuổi sống trong cảnh nghèo, tương đương với khoảng 7 triệu trẻ em, với tỷ lệ nghèo trẻ em đạt 28,9% Theo cách tính đa chiều, trẻ em sống ở nông thôn, dân tộc thiểu số, và khu vực Tây Bắc cùng đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ nghèo cao nhất Cụ thể, Tây Bắc ghi nhận tỷ lệ nghèo trẻ em lên đến 64,6%, trong khi đồng bằng sông Cửu Long là 52,8%.
1.2.3 Vai trò của tín dụng tại Ngân hàng Chính sách Xã hội đối với hộ nghèo
Nghèo đói chủ yếu xuất phát từ việc thiếu vốn và kiến thức kinh doanh, đây được xem là "chìa khóa" giúp người nghèo thoát khỏi tình trạng này Thiếu hụt vốn khiến nhiều người rơi vào vòng luẩn quẩn, không đủ ăn, phải làm thuê, vay nặng lãi, bán lúa non hoặc cầm cố ruộng đất để duy trì cuộc sống tối thiểu Tuy nhiên, nguy cơ nghèo đói vẫn luôn rình rập họ.
Thiếu kiến thức và kỹ thuật trong kinh doanh dẫn đến sự chậm chạp trong việc đổi mới tư duy và bảo thủ với phương thức sản xuất truyền thống, gây ra hiệu suất lao động kém và sản phẩm không hiệu quả Đây là một trong những rào cản lớn nhất hạn chế tăng thu nhập và cải thiện đời sống của các hộ gia đình nghèo Giải quyết vấn đề vốn cho người nghèo có thể tạo ra tác động hiệu quả và thiết thực trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống.
1.2.3.1 Là động lực giúp người nghèo vượt qua nghèo đói
Nguyên nhân của nghèo đói ở nông thôn Việt Nam rất đa dạng, bao gồm tuổi tác, sức khỏe yếu, tình trạng gia đình đông con, và thiếu kiến thức trong sản xuất kinh doanh Bên cạnh đó, điều kiện tự nhiên không thuận lợi, thiếu vốn đầu tư và sự lười biếng cũng góp phần vào tình trạng này Mặc dù người nông dân thường có tính tiết kiệm và cần cù, nhưng họ vẫn phải đối mặt với khó khăn do thiếu vốn để tổ chức sản xuất và thâm canh Do đó, việc có vốn là điều kiện tiên quyết giúp họ vượt qua nghèo đói Khi được trang bị vốn, người nông dân có thể mua sắm vật tư, phân bón, và giống cây con, từ đó nâng cao năng suất và sản phẩm hàng hóa, cải thiện thu nhập và đời sống của gia đình.
1.2.3.2 Tạo điều kiện cho người nghèo không phải vay nặng lãi nên hiệu quả hoạt động kinh tế được nâng cao hơn
Những người nghèo đói thường phải chịu đựng sự bóc lột từ nạn cho vay nặng lãi, bởi họ cần vốn để sản xuất hoặc duy trì cuộc sống Khi tín dụng đến tay người nghèo với số lượng lớn, thị trường cho vay nặng lãi sẽ bị thu hẹp, giúp họ thoát khỏi vòng xoáy nợ nần.
1.2.3.3 Giúp người nghèo nâng cao kiến thức tiếp cận với thị trường, có điều kiện hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường
Chương trình cung ứng vốn cho người nghèo nhằm đầu tư cho sản xuất kinh doanh và giảm nghèo đã khuyến khích người vay tính toán hiệu quả kinh tế trong việc trồng trọt, chăn nuôi và nghề nghiệp Để đạt được điều này, họ cần tìm hiểu kỹ thuật sản xuất và cải tiến biện pháp quản lý, từ đó phát triển tính sáng tạo và tích lũy kinh nghiệm trong quản lý kinh tế Khi số đông người nghèo tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa và tham gia vào thị trường, họ sẽ tiếp cận kinh tế thị trường một cách trực tiếp, góp phần cải thiện đời sống.
1.2.3.4 Góp phần trực tiếp vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, thực hiện việc phân công lại lao động xã hội
Trong nông nghiệp hiện nay, việc áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật mới là cần thiết để phát triển sản xuất hàng hóa lớn Điều này bao gồm chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và đưa giống mới năng suất cao vào thực tiễn sản xuất Để thực hiện điều này, cần đầu tư vốn lớn và triển khai các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, đặc biệt là hỗ trợ người nghèo Qua công tác tín dụng đầu tư, việc hỗ trợ người nghèo không chỉ giúp họ thực hiện các tiến bộ kỹ thuật mà còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo ra ngành nghề dịch vụ mới và phân công lại lao động trong nông nghiệp.
1.2.3.5 Cung ứng vốn cho người nghèo góp phần xây dựng nông thôn mới
Xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân và các cấp, ngành Tín dụng cho người nghèo được thực hiện qua các quy định nghiệp vụ cụ thể như bình xét công khai người vay vốn và tổ chức các nhóm hỗ trợ vay vốn Sự phối hợp chặt chẽ giữa các đoàn thể chính trị xã hội, cấp ủy và chính quyền đã mang lại hiệu quả tích cực trong công tác này.
■Tăng cường hiệu lực của cấp uỷ, chính quyền trong lãnh đạo, chỉ đạo kinh tế ở địa phương.
Tạo sự gắn kết giữa hội viên và các tổ chức hội, đoàn thể thông qua việc hướng dẫn kỹ thuật sản xuất và chia sẻ kinh nghiệm quản lý kinh tế gia đình Đồng thời, hỗ trợ quyền lợi kinh tế của tổ chức hội thông qua các hình thức vay vốn, giúp hội viên nâng cao đời sống và phát triển kinh tế bền vững.
Các tổ tương trợ giúp những người vay vốn có hoàn cảnh tương tự hỗ trợ lẫn nhau, nâng cao tinh thần tương thân tương ái, từ đó củng cố tình làng nghĩa xóm và tạo dựng niềm tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước.
Kết quả phát triển kinh tế đã cải thiện đời sống ở nông thôn, nâng cao an ninh và trật tự xã hội, đồng thời hạn chế các vấn đề tiêu cực Những thay đổi này đã tạo ra một bộ mặt mới cho kinh tế xã hội tại khu vực nông thôn.
1.3 CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO
1.3.1 Chất lượng tín dụng đối với hộ nghèo
1.3.1.1 Khái niệm về tín dụng đối với hộ nghèo
Tín dụng đối với người nghèo là các khoản vay dành riêng cho những người có sức lao động nhưng thiếu vốn để phát triển sản xuất Những khoản tín dụng này yêu cầu hoàn trả cả gốc và lãi trong một thời gian nhất định, với lãi suất ưu đãi nhằm giúp người nghèo vượt qua khó khăn tài chính và hòa nhập với cộng đồng Hoạt động tín dụng cho người nghèo tuân thủ các mục tiêu, nguyên tắc và điều kiện riêng, khác biệt so với các loại hình tín dụng của Ngân hàng Thương mại.
Tín dụng đối với người nghèo nhằm hỗ trợ những người có hoàn cảnh khó khăn trong việc phát triển sản xuất kinh doanh, từ đó nâng cao đời sống Hoạt động này hướng đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo và không vì lợi nhuận.
Nguyên tắc cho vay hộ nghèo nhằm hỗ trợ những gia đình có sức lao động nhưng thiếu vốn sản xuất kinh doanh Hộ nghèo được xác định theo tiêu chí nghèo đói do Bộ LĐ-TBXH hoặc địa phương công bố Việc cho vay sẽ thực hiện theo hình thức có hoàn trả, bao gồm cả gốc và lãi, theo kỳ hạn đã thỏa thuận.