TỔNG QUAN
Siêu âm đánh giá niêm mạc tử cung
Niêm mạc tử cung đóng vai trò quan trọng trong việc làm tổ của phôi và theo dõi sự phát triển của nang noãn Đánh giá niêm mạc tử cung giúp xác định các giai đoạn của chu kỳ kinh nguyệt, từ đó nhận biết sự thuận lợi cho sự làm tổ của phôi trong giai đoạn chế tiết Niêm mạc tử cung phát triển dưới tác động của estrogen từ nang noãn, đạt độ dày khoảng 8 – 10 mm trước khi phóng noãn và trở nên dày hơn do progesteron sau khi phóng noãn Sự bất thường về độ dày của niêm mạc tử cung, như quá mỏng hoặc quá dày, có thể ảnh hưởng đến khả năng mang thai Để đo niêm mạc tử cung, cần xác định độ dày từ bờ trong đến bờ ngoài và chú ý đến đặc điểm của niêm mạc.
Trong chu kỳ kinh nguyệt, niêm mạc tử cung trải qua những thay đổi về độ dày và tính chất cản âm, có thể được phát hiện qua siêu âm Kết quả siêu âm niêm mạc tử cung có mối tương quan với kết quả sinh thiết Ở giai đoạn nang noãn, sau khi sạch kinh, niêm mạc tử cung chỉ còn là một đường tăng âm mỏng, do phần niêm mạc chức năng đã bong ra hoàn toàn.
Hình 1.2 Niêm mạc tử cung pha nang noãn giai đoạn sớm
Sự gia tăng niêm mạc tử cung từ lớp đáy diễn ra liên tục trong pha nang noãn dưới tác động của estrogen, dẫn đến sự phát triển của lớp chức năng Vào cuối pha nang noãn, niêm mạc tử cung xuất hiện hình ảnh ba lá trên siêu âm, với phần niêm mạc không tương phản so với các đường tăng âm của lòng buồng tử cung và lớp nền cơ tử cung Đến cuối giai đoạn này, niêm mạc tử cung có độ dày khoảng 8-12mm.
Sau khi rụng trứng, niêm mạc tử cung chuyển từ hình ảnh ba lá cuối pha nang noãn sang hình ảnh tăng âm với độ dày từ 10-14mm Sự tăng âm này phản ánh sự thay đổi trong giai đoạn hoàng thể, cho thấy niêm mạc tử cung đang chuẩn bị cho phôi làm tổ thông qua sự tăng cường tiết dịch.
Hình 1.4 Hình ảnh niêm mạc tử cung trong giai đoạn hoàng thể
18 Các phác đồ chuẩn bị niêm mạc tử cung thường dùng
Chuẩn bị niêm mạc tử cung trong chuyển phôi trữ nhằm đồng bộ hóa niêm mạc với giai đoạn phát triển của phôi, từ đó tăng khả năng làm tổ và thụ thai Cửa sổ làm tổ của niêm mạc tử cung được tạo ra một cách nhân tạo cần phải tương đồng với sinh lý tự nhiên Hiện nay, có ba phác đồ chính trong việc chuẩn bị niêm mạc tử cung cho chuyển phôi trữ.
19 Theo dõi chu kỳ tự nhiên
Theo dõi chu kỳ tự nhiên là phương pháp đơn giản và tiết kiệm chi phí để chuẩn bị niêm mạc tử cung, không can thiệp vào chu kỳ sinh lý của bệnh nhân Có hai phác đồ theo dõi chu kỳ tự nhiên: hoàn toàn và có tiêm thuốc rụng trứng Để áp dụng phương pháp này, bệnh nhân cần có chu kỳ kinh nguyệt đều và không có nang tồn dư ở đầu chu kỳ.
Bệnh nhân sẽ được theo dõi sự phát triển của nang noãn qua siêu âm đầu dò ngả âm đạo, bắt đầu từ những ngày đầu của chu kỳ kinh (ngày 1 đến ngày 5) để loại trừ nang cơ năng Sau đó, siêu âm sẽ được thực hiện mỗi 1-4 ngày tùy vào sự phát triển của nang noãn Khi nang noãn dưới 12mm, trung bình mỗi ngày nang lớn thêm 1mm, nên có thể siêu âm mỗi 3-4 ngày Đối với nang noãn từ 12mm trở lên, trung bình mỗi ngày tăng 2mm, cần siêu âm hàng ngày hoặc cách ngày để không bỏ lỡ thời điểm rụng trứng Việc định lượng nội tiết LH và E2 hàng ngày cũng rất quan trọng để xác định thời điểm rụng trứng.
Khi nang noãn đạt kích thước từ 18 mm trở lên, có thể theo dõi cho đến khi trứng rụng hoặc tiêm thuốc kích thích rụng trứng Phôi sẽ được chuyển vào buồng tử cung vào ngày 2 hoặc ngày 3 sau khi trứng rụng, tùy thuộc vào thời điểm trữ phôi Nếu phôi được nuôi cấy và trữ ở giai đoạn phôi nang (ngày 5), sẽ thực hiện chuyển phôi sau 5 ngày kể từ khi trứng rụng Thử thai sẽ được tiến hành sau 2 tuần từ thời điểm chuyển phôi.
Phác đồ theo dõi chu kỳ tự nhiên có những bất lợi sau:
Thời gian chuẩn bị niêm mạc tử cung hoàn toàn phụ thuộc vào chu kỳ tự nhiên của từng bệnh nhân, điều này có thể gây khó khăn khi chu kỳ kinh nguyệt không đều.
Lịch theo dõi bằng siêu âm phụ thuộc vào sự phát triển của nang noãn, khó linh động được trong những ngày cuối tuần và ngày nghỉ lễ.
Xét nghiệm máu định lượng nội tiết thường xuyên có thể gây phiền toái cho bệnh nhân.
Nếu rụng trứng xảy ra sớm, thời điểm chuyển phôi vào niêm mạc tử cung sẽ không còn phù hợp, dẫn đến việc phải hủy chu kỳ điều trị.
20 Sử dụng thuốc nội tiết ngoại sinh
Sử dụng thuốc nội tiết ngoại sinh để chuẩn bị niêm mạc tử cung bao gồm việc cung cấp estrogen và progesterone từ bên ngoài Bệnh nhân sẽ bắt đầu dùng estrogen, thường là dạng viên uống, từ đầu chu kỳ kinh (thường từ ngày thứ 2) với liều lượng từ 4 đến 8 mg mỗi ngày.
Siêu âm vào ngày thứ 7 của chu kỳ kinh nguyệt giúp đánh giá độ dày và hình ảnh niêm mạc tử cung Dựa trên kết quả siêu âm, liều estrogen có thể được duy trì hoặc điều chỉnh, với liều tối đa là 16 mg/ngày Lịch hẹn siêu âm có thể linh hoạt từ 3-5 ngày tùy thuộc vào kết quả niêm mạc tử cung.
Khi niêm mạc tử cung dày từ 8 mm trở lên và có hình ảnh đẹp như hạt cà phê, cần bổ sung progesterone Progesterone có thể được sử dụng qua đường âm đạo, đường uống hoặc tiêm bắp, nhưng đường âm đạo thường được ưu tiên do tác dụng tại chỗ, ít tác dụng phụ và dễ sử dụng Liều lượng progesterone thay đổi từ 400-800 mg/ngày, tương ứng với số ngày tuổi của phôi vào ngày chuyển phôi Đồng thời, estrogen cũng cần được duy trì với liều tối thiểu cho đến ngày thử thai.
Có thể áp dụng cho hầu hết mọi bệnh nhân bất kể chu kỳ kinh.
Đơn giản, dễ thực hiện, ít can thiệp hơn so với phác đồ kích thích buồng trứng.
Không lo ngại về vấn đề rụng trứng sớm.
Không nên sử dụng estrogen ngoại sinh cho những bệnh nhân có chống chỉ định, bao gồm những người mắc bệnh lý về gan, có nguy cơ thuyên tắc mạch, hoặc gặp nhiều tác dụng phụ khi sử dụng thuốc.
Kích thích buồng trứng để chuyển phôi trữ là phương pháp sử dụng gonadotrophins nhằm phát triển nhiều nang noãn, giúp tiết ra estrogen nội sinh cao hơn mức bình thường, từ đó làm dày niêm mạc tử cung Để giảm nguy cơ quá kích buồng trứng, phác đồ kích thích nên được thực hiện tương tự như chu kỳ bơm tinh trùng vào buồng tử cung, tức là chỉ cần kích thích nhẹ nhàng với liều thấp để phát triển một vài nang noãn, đảm bảo estrogen nội sinh đủ cao để tác động tích cực lên niêm mạc tử cung.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là tất cả những người bệnh được thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm có phôi trữ lạnh tại BVPS trung ương từ 1/1/2017 – 31/12/2017.
2.1.1 Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
Chọn tất cả các bệnh nhân được thực hiện kỹ thuật chuyển phôi trữ lạnh từ 01/01/2017 đến 31/12/2017 có điều kiện sau:
Được làm đầy đủ các xét nghiệm nội tiết cũng như nguyên nhân vô sinh của cả hai vợ chồng
Chuẩn bị niêm mạc tử cung bằng hormone ngoại sinh
Có phôi đông lạnh ngày
Có ít nhất một phôi tốt sau khi rã đông
Kết quả siêu âm đầu dò âm đạo đo độ dày niêm mạc tử cung vào ngày cho progesteron
Những người bệnh không có đủ tiêu chuẩn ở trên
Bất thường tại tử cung như: polyp buồng tử cung, tử cung bất thường
Chẩn đoán tiền làm tổ
Mắc các bệnh lý viêm, ứ dịch vòi tử cung.
Mắc các bệnh toàn thân
Không liên hệ được với người bệnh để lấy thông tin
Sử dụng phương pháp mô tả hồi cứu cắt ngang thông qua các hồ sơ lưu trữ tại viện.
Cỡ mẫu
N: là cỡ mẫu tính cho nhóm nghiên cứu
Z: là hệ số tin cậy 95%, với α = 0,05 Z(1- α/2) = 1,96
P = 0.406 tỷ lệ có thai tại BVPSTW năm 2015 (Vũ Thị Minh Phương) ε: độ chính xác tương đối, ε = 0.2
Thay vào công thức ta có N = 140
Địa điểm nghiên cứu
Tại Trung tâm Hỗ trợ Sinh sản Quốc gia – BVPS Trung ương.
Biến số nghiên cứu
Loại vô sinh Nguyên nhân vô sinh
Thời gian vô sinh Thời gian bảo quản phôi
Số phôi chuyển vào buồng tử cung Số phôi tốt chuyển vào buồng tử cung
Số ngày dùng estrogen chuẩn bị
NMTC Số lần làm TTTON
Nồng độ E2 ngày tiêm trưởng thành noãn Nồng độ progesteron ngày tiêm trưởng thành noãn
2.5.2 Đặc điểm niêm mạc tử cung vào ngày cho progesteron
Hình ảnh niêm mạc tử cung
Kết quả chuyển phôi được thu thập dưới dạng các biến số sau
Có thai (HCG dương tính) Thai đến 12 tuần
Thai sinh hóa (beta HCG > 25 IU) Sảy thai tự nhiên trước 12 tuần
Thai lâm sàng Chửa ngoài tử cung
2.5.4 Phác đồ chuẩn bị niêm mạc tử cung và hỗ trợ hoàng thể
Vào ngày thứ hai của chu kỳ chuyển phôi trữ lạnh, bệnh nhân sẽ được siêu âm và thực hiện các xét nghiệm cơ bản Nếu không có vấn đề gì phát sinh, bệnh nhân sẽ được chuẩn bị cho quá trình nuôi màng tử cung bằng cách sử dụng estrogen và progesterone ngoại sinh Bệnh nhân sẽ bắt đầu uống Estradiol với liều 6 mg/ngày trong vòng 8 ngày.
- Vào ngày 10 vòng kinh, siêu âm đầu do âm đạo kiểm tra đáp ứng của NMTC.
NMTC ≥ 7 mm, duy trì Progynova liều 6 mg/ngày trong 2 - 6 ngày.
NMTC < 7 mm, tăng liều Progynova 8 mg/ngày trong 2 - 6 ngày.
- Ngày 12 vòng kinh, siêu âm kiểm tra đáp ứng của NMTC qua đầu dò âm đạo.
NMTC ≥ 7 mm, duy trì Progynova liều 6 mg/ngày và bổ sung thêm progesterone (Utrogestan 600 - 800 mg/ngày hoặc Crinone 8% 2 tuyp/ngày) trong 3 - 4 ngày.
NMTC < 7 mm, duy trì liều Progynova 8 mg/ngày trong 3 ngày Nếu đến ngày 15 vòng kinh mà NMTC < 7 mm thì hủy chu kỳ.
- Ngày 16 - 18 vòng kinh, bệnh nhân sẽ được chuyển phôi đông lạnh sau khi dùng progesterone 3 - 4 ngày.
- Progynova 6 - 8 mg/ngày và Utrogestan 600 - 800 mg/ngày hoặc Crinone 2 tuyp/ngày hay Cyclogest 800 mg/ngày trong 14 ngày sau đó xét nghiệm βhCG.
Nếu có thai, hãy tiếp tục sử dụng đơn thuốc với liều lượng như đã chỉ định trong 2 tuần tiếp theo để thực hiện siêu âm đánh giá túi ối Nếu có thai lâm sàng, cần duy trì đơn thuốc cho đến khi đạt 12 tuần thai.
2.5.5 Các tiêu chuẩn về đánh giá kết quả chuyển phôi đông lạnh
Có thai được tính khi βhCG sau 14 ngày chuyển phôi ≥ 25 UI/ml.
Thai lâm sàng được chẩn đoán qua siêu âm khi phát hiện một hoặc nhiều túi thai, hoặc khi có các triệu chứng lâm sàng rõ ràng Ngoài ra, thai lâm sàng cũng bao gồm cả thai ngoài tử cung Theo định nghĩa của ICMART 2009, trường hợp đa thai cũng được xem là thai lâm sàng.
Các tỷ lệ được tính dựa trên các định nghĩa của Ủy ban Quốc tế giám sát
Kỹ thuật Hỗ trợ sinh sản (ICMART) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) sửa đổi danh mục các thuật ngữ ART, 2009 [35]
Xử lý số liệu
Các số liệu sau khi được làm sạch sẽ được nhập vào phần mềm SPSS 20.0, được mã hóa và xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê y học
Thuật toán χ 2 và Fisher Exact test được xử dụng để đánh giá mối liên quan giữa các biến số; nếu p < 0.05 thị sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
T-test để so sánh trung bình giữa các biến
Sử dụng phương pháp phân tích hồi quy đa biến xác định mối liên quan giữa các biến số.
Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu này là một đánh giá hồi cứu, không ảnh hưởng đến các kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) và không làm thay đổi kết quả có thai cuối cùng, đồng thời đảm bảo tính bí mật và thông tin của bệnh nhân được bảo vệ.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
Bảng 3.1 Tuổi của đối tượng nghiên cứu
Trong nghiên cứu, nhóm bệnh nhân chủ yếu nằm trong độ tuổi từ 25 đến 30, chiếm 41,8% tổng số, tiếp theo là nhóm từ 30 đến 35 tuổi với tỷ lệ 27,8% Nhóm bệnh nhân trên 40 tuổi có tỷ lệ thấp nhất, chỉ chiếm 2,5%.
- Độ tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 30,5±4,76 năm
Vô sinh nguyên phát Vô sinh thứ phát
Biểu đồ 3.1 Phân loại nguyên nhân vô sinh Nhận xét:
- Có 78 trường hợp vô sinh nguyên phát chiếm tỷ lệ 49,4% và 80 trường hợp vô sinh thứ phát chiếm 50,6%.
Bảng 3.2 Nguyên nhân vô sinh
Nguyên nhân vô sinh n Tỷ lệ (%)
Bất thường tinh dịch đồ 25 15,8
Nguyên nhân phổ biến nhất gây vô sinh là do vòi tử cung, chiếm 79 trường hợp và tỷ lệ 50% Tiếp theo, nhóm vô sinh do bất thường tinh dịch đồ chiếm 15,8% Nhóm bệnh nhân rối loạn phóng noãn có tỷ lệ thấp nhất, chỉ chiếm 5,7%.
Bảng 3.3 Phân loại thời gian vô sinh
- Đa số các cặp vợ chồng vô sinh dưới 5 năm chiếm tỷ lệ 77,8% Số cặp vợ chồng vô sinh trên 10 năm chiếm tỷ lệ ít nhất với 4,5%.
- Thời gian vô sinh trung bình của các cặp vợ chồng là 4,1 ± 3,34 năm.
Chỉ số BMI n Tỷ lệ (%)
Nhóm bệnh nhân có chỉ số BMI trong giới hạn bình thường từ 18,5 đến 23 chiếm tỷ lệ cao nhất, với 113 bệnh nhân, tương đương 71,5% Tiếp theo, nhóm bệnh nhân thiếu cân với BMI dưới 18,5 chiếm 15,2% Trong khi đó, nhóm bệnh nhân béo phì chỉ chiếm tỷ lệ thấp nhất là 3,8%.
Bảng 3.5 Số lần làm thụ tinh trong ống nghiệm
Số lần làm TTTON n Tỷ lệ (%)
Số lần làm TTTON trung bình 1,23 ± 0,51
- Số bệnh nhân làm IVF lần đầu chiếm tỷ lệ cao nhất với 128 bệnh nhân chiếm 81%, chỉ có 4,4% bệnh nhân làm IVF đến chu kỳ thứ 3.
- Số lần làm IVF trung bình 1,23 ± 0,51
Quá kích buồng trứng Phôi dư Nguyên nhân khác
Biểu đồ 3.2 Lý do đông phôi Nhận xét:
- Lý do chủ yếu đông phôi là do nguy cơ quá kích buồng trứng chiếm 51,2%
- Các nguyên nhân khác như nồng độ progesteron cao, niêm mạc không phù hợp để chuyển chiếm tỷ lệ thấp nhất với 10,8%
Bảng 3.6 Độ dày niêm mạc tử cung trong chu kỳ Độ dày NMTC mm n %
Tổng 231 100 Độ dày NMTC trung bình 9,76 ± 1,89 mm
- Niêm mạc tử cung trung bình trong chu kỳ là 9,76 ± 1,89 mm
- Độ dày niêm mạc tử cung chủ yếu trong nhóm từ 8 – 14mm chiếm
177 chu kỳ với tỷ lệ 76,6%
- Nhóm có niêm mạc tử cung < 8mm chiếm 21,2%
- Nhóm có niêm mạc tử cung > 14mm chiếm tỷ lệ thấp nhất với 5 chu kỳ chiếm 2,2%.
Bảng 3.7 Hình thái niêm mạc tử cung trước chuyển phôi
- Hình thái niêm mạc tử cung trong nghiên cứu chủ yếu là dạng 3 lá với
175 chu kỳ chiếm 75,8%, niêm mạc tử cung dạng khác chiếm 24,2%
Đặc điểm chu kỳ chuyển phôi
Bảng 3.8 Thời gian đông phôi
Thời gian đông phôi (tháng) n %
Trung bình thời gian đông phôi 8,07±10,76
Thời gian đông phôi trung bình được ghi nhận là 8,07±10,76 tháng, trong đó 48,5% phôi được đông trong thời gian dưới 3 tháng Nhóm phôi đông từ 3 đến 6 tháng chiếm tỷ lệ thấp nhất, chỉ 19,5%.
- Thời gian đông ngắn nhất là 1 tháng và lâu nhất là 60 tháng.
Bảng 3.9 Số lượng phôi chuyển mỗi chu kỳ
Trong mỗi chu kỳ chuyển phôi đông lạnh, số phôi chuyển trung bình là 3,22±0,732 phôi Đặc biệt, 47,2% các chu kỳ thực hiện chuyển 3 phôi, trong khi 36,3% chu kỳ chuyển 4 phôi Chỉ có 0,9% chu kỳ chuyển 1 phôi và 5 phôi, với mỗi nhóm chỉ có 2 chu kỳ.
Bảng 3.10 Số lượng phôi tốt chuyển trong mỗi chu kỳ
- Số lượng phôi có chất lượng tốt trung bình được chuyển trong mỗi chu kỳ chuyển phôi đông lạnh trong nghiên cứu là 2,23±0,86 phôi.
Trong nghiên cứu, 84 chu kỳ với 2 phôi chất lượng tốt để chuyển có tỷ lệ cao nhất, đạt 36,4% Tiếp theo, 81 chu kỳ với 3 phôi chất lượng tốt để chuyển chiếm 35,1% Cuối cùng, số chu kỳ có 4 phôi tốt để chuyển thấp nhất, chỉ có 13 chu kỳ, chiếm tỷ lệ 5,6%.
Bảng 3.11 Số ngày chuẩn bị niêm mạc tử cung
Số ngày chuẩn bị NMTC n %
- Số ngày chuẩn bị niêm mạc tử cung trung bình trong mỗi chu kỳ là 16,27±1,14 ngày.
- Nhóm chu kỳ có số ngày chuẩn bị từ 15 -18 ngày chiếm đông nhất với
- Nhóm thấp nhất là nhóm có số ngày chuẩn bị ≥ 18 ngày chiếm 2,2%
Mối liên quan giữa độ dày, hình thái niêm mạc tử cung với kết quả chuyển phôi
Không có thai Thai sinh hóa Thai lâm sàng
Biểu đồ 3.3 Kết quả chuyển phôi Nhận xét:
- Tỷ lệ có thai lâm sàng sau chuyển phôi là 41,56%, thai sinh hóa là 14,29%, không có thai là 44,16%
Biểu đồ 3.4 Kết quả thai kỳ
- Tỷ lệ có thai đến 12 tuần chiếm tỷ lệ cao nhất với 72 chu kỳ chiếm 31,2%, thấp nhất là tỷ lệ chửa ngoài tử cung với 4 chu kỳ chiếm 1,7%
Bảng 3.12 Mối liên quan giữa độ dày niêm mạc tử cung với tỷ lệ có thai, thai lâm sàng
Thai lâm sàng n p Độ dày niêm mạc tử cung (mm) Âm tính Dương tính Không có Có
) Độ dày niêm mạc trung bình
Nghiên cứu này so sánh tỷ lệ có thai giữa các nhóm niêm mạc tử cung (NMTC) với các kích thước khác nhau Ở phần đầu tiên, tỷ lệ có thai giữa nhóm NMTC < 8mm và nhóm NMTC từ 8 - 14mm được phân tích Phần thứ hai so sánh tỷ lệ có thai giữa nhóm NMTC từ 8 - 14mm và nhóm NMTC > 14mm Cuối cùng, phần ba so sánh tỷ lệ có thai giữa nhóm NMTC < 8mm và nhóm NMTC > 14mm.
Tỷ lệ có thai ở phụ nữ có niêm mạc tử cung dưới 8mm là 42,9%, trong khi nhóm có niêm mạc từ 8-14mm đạt tỷ lệ 60,5% Đặc biệt, chỉ có một chu kỳ với niêm mạc trên 14mm có tỷ lệ mang thai là 20%.
Có sự khác biệt về tỷ lệ có thai giữa 2 nhóm NMTC < 8 mm vs NMTC từ 8- 14 mm với p = 0,02
Không có sự khác biệt về tỷ lệ có thai giữa 2 nhóm NMTC từ 8 –
14 mm với NMTC lớn hơn 14mm
Không có sự khác biệt về tỷ lệ có thai giữa nhóm NMTC < 8mm và NMTC > 14mm
- Niêm mạc trung bình của nhóm có thai là 9,9±1,77 mm và nhóm không có thai là 9,5±2,02 Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p = 0,208
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ có thai lâm sàng ở nhóm có niêm mạc tử cung dưới 8 mm là 34,7%, trong khi nhóm có niêm mạc từ 8 – 14 mm đạt 45,6% Đặc biệt, không có trường hợp nào niêm mạc tử cung trên 14 mm có thai lâm sàng Mặc dù có sự khác biệt về tỷ lệ có thai giữa các nhóm, nhưng không có ý nghĩa thống kê với p = 0,06 Trung bình, niêm mạc của nhóm có thai lâm sàng là 9,69±1,97 mm, so với 9,9±1,78 mm ở nhóm không có thai lâm sàng, và sự khác biệt này cũng không có ý nghĩa thống kê với p = 0,43.
Bảng 3.13 Mối liên quan giữa hình ảnh niêm mạc với kết quả có thai, thai lâm sàng
Thai lâm sàng n p Âm tính Dương tính Không Có
Tỷ lệ có thai ở nhóm niêm mạc tử cung hình thái 3 lá đạt 60,6%, trong khi nhóm niêm mạc tử cung có hình thái khác chỉ đạt 41,1% Sự chênh lệch này giữa hai nhóm là đáng kể với tỷ lệ Odds Ratio (OR) bằng 0,4.
Tỷ lệ có thai lâm sàng ở nhóm niêm mạc tử cung hình thái 3 lá đạt 41,7%, trong khi nhóm niêm mạc tử cung có hình thái khác là 41,1% Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê, với tỷ lệ odds (OR) là 0,86 và khoảng tin cậy 95% từ 0,52 đến 1,8, p = 0,93.
Bảng 3.14 Mối liên quan giữa độ dày, hình ảnh niêm mạc tử cung với kết quả có thai đến 12 tuần
OR = 1,3, CI 95% 0,7 – 2,5 Độ dày niêm mạc
Trung bình niêm mạc tử cung
- Tỷ lệ có thai đến 12 tuần của nhóm có hình thái niêm mạc tử cung dạng
Tỷ lệ có thai ở nhóm niêm mạc tử cung dạng 3 lá là 29,7%, trong khi nhóm có niêm mạc tử cung dạng khác là 35,7% Sự khác biệt này không đạt ý nghĩa thống kê, với tỷ lệ Odds Ratio (OR) là 1,3, khoảng tin cậy 95% (CI) từ 0,7 đến 2,5 và giá trị p là 0,4.
Tỷ lệ có thai đến 12 tuần ở nhóm có độ dày niêm mạc tử cung dưới 8mm là 22,4%, trong khi nhóm có độ dày từ 8 đến 14mm đạt 34,5% Đặc biệt, không có trường hợp nào có niêm mạc tử cung trên 14mm có thai đến 12 tuần Tuy nhiên, sự khác biệt về tỷ lệ có thai giữa các nhóm này không đạt ý nghĩa thống kê với p = 0,09.
Độ dày niêm mạc tử cung trung bình ở nhóm không có thai là 9,68±1,96 mm, trong khi ở nhóm có thai là 9,96±1,72 mm Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p= 0,28.
Bảng 3.15 Mối liên quan giữa độ dày và hình thái niêm mạc tử cung với tỷ lệ sảy thai tự nhiên trước 12 tuần
Sảy thai tự nhiên trước 12 tuần n p
OR = 0,37, CI 95% 0,1 – 1,4 Độ dày niêm mạc (mm) Không Có n P
Trung bình niêm mạc tử cung
- Có 96 trường hợp mang thai lâm sàng
Tỷ lệ sảy thai tự nhiên ở nhóm niêm mạc tử cung dạng 3 lá là 28,8%, trong khi nhóm niêm mạc tử cung dạng khác chỉ là 13% Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p = 0,17.
Tỷ lệ sảy thai tự nhiên ở nhóm NMTC nhỏ hơn 8mm là 35,3%, trong khi nhóm từ 8 – 14mm là 22,8% Đối với nhóm trên 14mm, không có trường hợp nào mang thai lâm sàng, dẫn đến tỷ lệ sảy thai là 0% Tuy nhiên, sự khác biệt về tỷ lệ sảy thai giữa các nhóm không có ý nghĩa thống kê với p = 0,35.
- Sự khác biệt về độ dày NMTC trung bình giữa 2 nhóm sảy thai tự nhiên và không sảy thai là không có ý nghĩa thống kê với p = 0,75
Biểu đồ 3.5 Phân tích đường cong ROC giữa độ dày niêm mạc tử cung với kết quả thai đến 12 tuần
Diện tích dưới đường cong đạt 0,55 với p= 0,17 (95% CI, 0,47 – 0,63) Giá trị cut off của niêm mạc tử cung được xác định là 8,45 mm, với độ nhạy 81,7% và độ đặc hiệu 30% Kết quả cho thấy độ dày niêm mạc tử cung có ít giá trị tiên đoán kết cục thai kỳ đến 12 tuần.
Biểu đồ 3.6 Phân tích đường cong ROC độ dày niêm mạc tử cung với thai lâm sàng
Diện tích dưới đường cong là 0.547 với p=0.222 (95% CI, 0,47-0,62), cho thấy điểm cut off của độ dày niêm mạc tử cung có giá trị tiên đoán thai lâm sàng là 9,35 mm Độ nhạy đạt 61,5% và độ đặc hiệu là 50,4%, cho thấy độ dày niêm mạc tử cung có khả năng tiên đoán kết quả có thai lâm sàng tương đối hạn chế.
Bảng 3.16 Phân tích hồi quy đa đánh giá mối liên quan của kết quả thai lâm sàng với các biến
Yếu tố Thai lâm sàng
Số phôi tốt chuyển 2,52 ± 0,95 2,11 ± 0,79 1,3 1,3 – 2,47 0,001 Độ dày niêm mạc tử cung 9,93 ± 1,73 9,69 ± 1,95 1,05 0,91 – 1,22 0,48
Hình thái niêm mạc tử cung
Mô hình dự đoán kết cục thai lâm sàng cho thấy sự phù hợp tốt thông qua các chỉ số thống kê Cụ thể, kết quả của test Hosmer and Lemeshow đạt giá trị 12,6 với p = 0,13, cho thấy không có sự khác biệt đáng kể Trong khi đó, test Omnibus tests với giá trị Model là 16,8 và p = 0,002 cho thấy mô hình hồi quy đa biến có sự phù hợp tốt với dữ liệu.
- Quan sát thấy chỉ có biến số lượng phôi tốt chuyển vào buồng tử cung là ảnh hưởng đến kết quả thai lâm sàng với p = 0,001.
Bảng 3.17 Phân tích hồi quy đa đánh giá mối liên quan của kết quả sảy thai tự nhiên với các biến
Yếu tố Sảy thai tự nhiên
Số phôi tốt chuyển 2,33 ± 0,91 2,22 ± 0,86 1,2 0,73 – 2 0,45 Độ dày niêm mạc tử cung 9,65 ± 1,92 9,78 ± 1,89 0,97 0,77 – 1,21 0,78
Hình thái niêm mạc tử cung 2,8 0,77 – 10,14 0,11
- Xét mức độ phù hợp của mô hình dựa đoán kết quả sảy thai tự nhiên với giá trị khi bình phương của test Hosmer and Lemeshow là 5,3 với p
= 0,72 > 0,05 Chứng tỏ mô hình phù hợp để dự đoán giá trị tiên đoán sảy thai tự nhiên trước 12 tuần.
- Phân tích cho thấy yếu tố tuổi của người mẹ là yếu tố độc lập ảnh hưởng đến tỷ lệ sảy thai tự nhiên trước 12 tuần với p = 0,04.
Bảng 3.18 Phân tích hồi quy đa đánh giá mối liên quan của kết quả có thai đến 12 tuần với các biến
Yếu tố Có thai đến 12 tuần
Số phôi tốt chuyển 2,54 ± 0,94 2,1 ± 0,8 1,8 1,25 – 2,5 0,01 Độ dày niêm mạc tử cung 9,96 ±1,72 9,68 ± 1,96 1 0,92 – 1,27 0,34
Hình thái niêm mạc tử cung
Mô hình dự đoán kết quả có thai lâm sàng cho thấy sự phù hợp cao, với giá trị bình phương của test Hosmer and Lemeshow là 15,04 và p = 0,06, lớn hơn 0,05 Điều này chứng tỏ rằng mô hình có khả năng dự đoán chính xác khả năng có thai lâm sàng.
Phân tích cho thấy tuổi của mẹ và số phôi tốt được chuyển vào buồng tử cung là hai yếu tố có ảnh hưởng độc lập đến tỷ lệ có thai trong 12 tuần, với giá trị p lần lượt là 0,006 và 0,001.
BÀN LUẬN
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của các bệnh nhân chuyển phôi trữ lạnh trong thời gian từ 1/2017 đến 12/2017
4.1.1 Tuổi và phân nhóm tuổi của người bệnh.
Nghiên cứu cho thấy tuổi trung bình của bệnh nhân là 30,5±4,76 tuổi, với độ tuổi nhỏ nhất là 22 và lớn nhất là 46 Nhóm tuổi từ 25 - 30 chiếm tỷ lệ cao nhất với 41,8%, tiếp theo là nhóm 30 - 35 tuổi với 27,8%, trong khi nhóm trên 40 tuổi chỉ chiếm 2,5% Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Trịnh Văn Du (2017) với tuổi trung bình 31,25±4,7 tuổi và nhóm tuổi < 30 chiếm 47,4% Vũ Thị Minh Phương (2015) ghi nhận tuổi trung bình là 32,77±4,91 với nhóm 31 - 35 tuổi chiếm 38,8% Hán Mạnh Cường (2010) cho thấy tuổi trung bình 34,36±5,5 tuổi, trong đó nhóm 31 - 35 tuổi chiếm 52%, trong khi nhóm dưới 25 tuổi chỉ chiếm 2%.
Năm 2018, độ tuổi trung bình của các trường hợp chuyển phôi trữ lạnh là 30,3±4,2 tuổi, tương đồng với nghiên cứu của chúng tôi Kết quả cho thấy bệnh nhân điều trị vô sinh có độ tuổi trung bình ngày càng giảm theo từng năm, với độ tuổi đông nhất chủ yếu là các bệnh nhân trẻ.
Dưới 30 tuổi, số lượng bệnh nhân trên 40 tuổi ngày càng giảm, cho thấy sự cải thiện trong nhận thức về vô sinh và khả năng tiếp cận phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm Bệnh nhân trẻ tuổi có phản ứng tốt hơn với điều trị buồng trứng, dẫn đến việc tạo ra nhiều phôi lạnh hơn so với bệnh nhân lớn tuổi.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ vô sinh nguyên phát chiếm 49,4% với 78 trường hợp, trong khi vô sinh thứ phát chiếm 50,6% với 80 trường hợp (biểu đồ 3.1) Các nghiên cứu trước đây cũng cho thấy tỷ lệ vô sinh nguyên phát là 46,8% theo Hán Mạnh Cường (2010) và 47% theo Vũ Thị Bích Loan (2008), trong khi tỷ lệ vô sinh thứ phát lần lượt là 53,7% và 53%.
Nghiên cứu năm 2017 tại Hải Phòng về 134 chu kỳ chuyển phôi trữ lạnh cho thấy tỷ lệ vô sinh nguyên phát là 52% và vô sinh thứ phát là 48% Các nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng tỷ lệ vô sinh nguyên phát thường thấp hơn vô sinh thứ phát, có thể do các nguyên nhân như viêm nhiễm và chửa ngoài tử cung Sự khác biệt giữa các nghiên cứu có thể xuất phát từ thiết kế nghiên cứu hoặc yếu tố vùng miền.
Trong nghiên cứu, tỷ lệ vô sinh do vòi tử cung chiếm cao nhất với 50% (79 bệnh nhân), tiếp theo là vô sinh không rõ nguyên nhân 17,7%, bất thường tinh dịch đồ 15,8%, và rối loạn phóng noãn chiếm ít nhất 5,7% Kết quả này tương đồng với các nghiên cứu khác, khẳng định nguyên nhân chủ yếu của vô sinh là do vòi tử cung, theo Trịnh Văn Du.
Tỷ lệ vô sinh do vòi tử cung tại Việt Nam năm 2017 chiếm 48,2%, cao hơn so với các quốc gia châu Âu, nguyên nhân chủ yếu là do viêm tắc vòi và chửa ngoài tử cung Trong khi đó, một số nghiên cứu ở các quốc gia khác cho thấy tỷ lệ vô sinh do yếu tố vòi tử cung thấp hơn, như tại Mông Cổ năm 2004 chỉ ghi nhận 32,8% Nghiên cứu đa trung tâm tại Ba Lan cho thấy 71,72% phụ nữ khảo sát không có vấn đề bệnh lý liên quan đến khả năng sinh sản, trong khi yếu tố nam giới chiếm 55,73% trường hợp Để giảm tỷ lệ vô sinh do vòi tử cung và chi phí điều trị, cần nâng cao nhận thức của phụ nữ về phòng tránh bệnh lây truyền qua đường tình dục và sử dụng biện pháp tránh thai, nhằm giảm thiểu nạo phá thai.
Trong nghiên cứu thì thời gian vô sinh trung bình là 4,15±3,3 năm, thời gian sớm nhất là 1 năm và muộn nhất là 23 năm.
Trong nghiên cứu về vô sinh, nhóm bệnh nhân có thời gian vô sinh dưới 5 năm chiếm tỷ lệ cao nhất với 123 trường hợp, tương đương 77,8% Bệnh nhân vô sinh từ 5 đến 10 năm chiếm 17,7%, trong khi chỉ có 7 bệnh nhân, tương ứng 4,4%, vô sinh trên 10 năm.
Kết quả nghiên cứu cho thấy thời gian vô sinh trung bình của bệnh nhân tại Việt Nam đã giảm xuống, với Vũ Thị Bích Loan (2008) ghi nhận 5,9±4,3 năm và Trịnh Văn Du (2017) là 4,53±2,9 năm, trong đó 72,1% bệnh nhân có thời gian vô sinh dưới 5 năm Sự cải thiện này phản ánh ý thức ngày càng cao của bệnh nhân về chăm sóc sức khỏe sinh sản, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội và nỗ lực tuyên truyền thông tin về sức khỏe sinh sản So với nghiên cứu của Bablok và cộng sự (2011) với thời gian vô sinh trung bình chỉ 3,31 năm, có thể thấy sự khác biệt về kinh tế và nhận thức giữa các quốc gia Châu Âu và Việt Nam.
Theo nghiên cứu, 81% bệnh nhân thực hiện IVF lần đầu, trong khi chỉ có 4,4% bệnh nhân thực hiện IVF lần thứ ba Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Hán Mạnh Cường (2010), cho thấy 65,3% bệnh nhân làm thụ tinh trong ống nghiệm lần đầu, và chỉ 10,9% bệnh nhân làm từ lần thứ ba trở đi Meldrum cũng chỉ ra rằng tỷ lệ mang thai lâm sàng và thai tiến triển giảm dần qua các chu kỳ IVF từ lần 1 đến lần 4 và hơn 4 lần Tuy nhiên, do sự không đồng đều về mặt bệnh lý của các bệnh nhân trong nghiên cứu, việc thay đổi phương pháp điều trị khi lặp lại chu kỳ mới không phải là điều cần thiết.
Trong nghiên cứu, tỷ lệ bệnh nhân thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) lần đầu đạt 81%, có thể do sự tiếp xúc sớm với phương pháp này và sự đa dạng trong các phác đồ kích trứng, dẫn đến hiệu quả cao hơn Việc thu được nhiều phôi trong một lần TTTON giúp giảm số lượng bệnh nhân phải thực hiện lần hai hoặc ba, từ đó giảm chi phí và nâng cao tỷ lệ thành công trong mỗi lần thực hiện.
- Tỷ lệ bệnh nhân có BMI ở mức thừa cân và béo phì trong nghiên cứu chiểm tỷ lệ rất thấp với 9,5% và 3,8%
Vô sinh thường phổ biến hơn ở phụ nữ thừa cân và béo phì, với chỉ số khối cơ thể từ 25 đến ≥30 kg/m² Một nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mang thai ở phụ nữ béo phì giảm 6% và tỷ lệ sinh sống giảm 13% so với phụ nữ có cân nặng bình thường Tỷ lệ sinh sống trên mỗi lần chuyển phôi là 38% ở phụ nữ bình thường và 33% ở phụ nữ béo phì Ngoài ra, phụ nữ béo phì cũng có tỷ lệ sảy thai, nhẹ cân và sinh non cao hơn Mặc dù thừa cân và béo phì không ảnh hưởng đến kết quả kích thích buồng trứng khi điều chỉnh liều FSH, nhưng nghiên cứu chỉ ra rằng chúng làm tăng nguy cơ thai lưu và sảy thai, dẫn đến kết quả IVF kém hơn BMI cao hơn cũng liên quan đến việc tăng thất bại trong việc mang thai lâm sàng, đặc biệt khi sử dụng tế bào trứng tự thân, với nguy cơ tăng lên ở phụ nữ dưới 35 tuổi.
4.1.7 Độ dày, hình thái niêm mạc tử cung vào ngày cho progesteron trong chu kỳ chuyển phôi đông lạnh
Trong nghiên cứu của chúng tôi, độ dày niêm mạc tử cung trung bình trong mỗi chu kỳ chuyển phôi là 9,76±1,89 mm Đặc biệt, 76,6% trường hợp có độ dày niêm mạc nằm trong khoảng từ 8 đến 14 mm.
Trong nghiên cứu về độ dày niêm mạc tử cung, nhóm có độ dày < 8mm chiếm 21,2%, trong khi nhóm có độ dày < 14mm chỉ có 2,2% Hình thái niêm mạc chủ yếu là dạng 3 lá, với 177 chu kỳ chiếm 76,6% Theo các tác giả, niêm mạc tử cung liên quan mật thiết đến tỷ lệ có thai; Nguyễn Viết Tiến cho rằng độ dày lý tưởng để làm tổ là từ 8-14mm Nguyễn Thị Thu Phương (2005) ghi nhận độ dày niêm mạc trung bình trong chu kỳ chuyển phôi tươi là 10,2±2,0mm, trong khi Vương Thị Ngọc Lan (2001) cho biết con số này là 10,9±2,2mm Sự khác biệt về độ dày niêm mạc trong nghiên cứu này so với các tác giả khác có thể do nhóm bệnh nhân nghiên cứu sử dụng phôi trữ lạnh và được chuẩn bị bằng hormone ngoại sinh, khác với các nghiên cứu về chu kỳ chuyển phôi tươi bị ảnh hưởng bởi estradiol trong quá trình kích trứng.
Trong nghiên cứu, tỷ lệ hình thái niêm mạc tử cung chủ yếu là dạng 3 lá, chiếm 75,8% Kết quả này tương đồng với các nghiên cứu trước đây.
Mối liên quan giữa độ dày, hình thái niêm mạc tử cung với kết quả chuyển phôi trữ lạnh
Với sự tiến bộ của kỹ thuật TTTON, tỷ lệ có thai sau chuyển phôi ngày càng tăng Nghiên cứu của Trần Thị Vân (2018) tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương cho thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa kết quả sau chuyển phôi đông lạnh và phôi tươi Theo Doherty (2014), các cặp vợ chồng có phôi trữ lạnh có cơ hội mang thai cao hơn từ 25-30% Nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá kết quả có thai sau chuyển phôi đông lạnh từ nguồn phôi dư, thường là từ chu kỳ chuyển phôi tươi thất bại hoặc do các yếu tố như nguy cơ quá kích buồng trứng, progesteron cao, hoặc niêm mạc tử cung không thuận lợi.
-Theo đồng thuận ICMART (2009), thai lâm sàng được tính là khi siêu âm thấy túi thai, kể cả thai ngoài tử cung [33]
Nghiên cứu 158 hồ sơ với 231 chu kỳ chuyển phôi đông lạnh cho thấy có 129 chu kỳ có beta hCG (+), chiếm 55,8%, trong đó 96 chu kỳ có thai lâm sàng, tương đương 41,6% Trong số 96 trường hợp có thai lâm sàng, có 4 trường hợp chửa ngoài tử cung, chiếm 1,7%, và 102 chu kỳ không có thai, chiếm 44,2% Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Trịnh Văn Du (2017) với tỷ lệ có thai 42,9% và thai lâm sàng 40,6% Tuy nhiên, tỷ lệ không thành công theo Hán Mạnh Cường là 69,9% với thai lâm sàng chỉ 20,25% và thai sinh hóa 30,1%, cho thấy sự khác biệt có thể do thiết kế nghiên cứu và đối tượng lựa chọn khác nhau.
4.2.2 Mối liên quan giữa độ dày, hình thái niêm mạc tử cung với kết quả chuyển phôi.
4.2.2.1 Mối liên quan giữa độ dày niêm mạc tử cung với kết quả có thai, thai lâm sàng, sảy thai tự nhiên, thai đến 12 tuần
-Trong nghiên cứu chúng tôi phân chia độ dày niêm mạc tử cung thành
Nghiên cứu về độ dày niêm mạc tử cung (NMTC) đã chỉ ra ba nhóm: NMTC < 8mm, NMTC từ 8 - 14mm, và NMTC > 14mm, trong đó nhóm từ 8 - 14mm chiếm 76,6% Mặc dù có nhiều tranh cãi về mối quan hệ giữa độ dày NMTC và kết quả sau chuyển phôi, một số nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng độ dày niêm mạc tử cung có thể dự đoán kết quả điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) với mối tương quan tích cực Ngược lại, một số nghiên cứu khác không tìm thấy mối liên hệ đáng kể giữa độ dày NMTC và kết quả lâm sàng Niêm mạc tử cung mỏng thường được liên kết với tỷ lệ làm tổ thấp hơn và tỷ lệ mang thai lâm sàng giảm, nhưng không có sự đồng thuận rõ ràng Một số nghiên cứu cho rằng độ dày NMTC dưới 6 - 8 mm có thể dự đoán kết quả TTTON kém, tuy nhiên, vẫn có khả năng đạt được thai kỳ thành công dù niêm mạc mỏng Trong các nghiên cứu về chuyển phôi trữ lạnh, vẫn chưa có sự đồng thuận về khả năng dự đoán của độ dày niêm mạc tử cung đối với kết quả.
Nghiên cứu cho thấy rằng độ dày nội mạc tử cung 8 mm là tiêu chuẩn phổ biến trong việc chuẩn bị nội mạc tử cung cho các chu kỳ chuyển phôi đông lạnh, mặc dù một số nghiên cứu khác không chứng minh được hiệu quả của nó.
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ có thai cao nhất thuộc về nhóm có NMTC từ 8-14 mm, đạt 60,5% với 107 chu kỳ, trong khi nhóm NMTC < 8 mm chỉ đạt 42,9% và nhóm NMTC > 14 mm chỉ có 20% Điều này cho thấy tỷ lệ có thai của nhóm NMTC từ 8-14 mm gấp 1,4 lần nhóm NMTC < 8 mm và hơn 3 lần nhóm NMTC > 14 mm.
Nghiên cứu cho thấy sự khác biệt về tỷ lệ có thai giữa nhóm niêm mạc tử cung (NMTC) < 8 mm và NMTC từ 8 - 14 mm là có ý nghĩa thống kê với p = 0,02 Trong khi đó, không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ có thai giữa nhóm NMTC từ 8 - 14 mm và NMTC lớn hơn 14 mm (p = 0,165) cũng như giữa nhóm NMTC < 8 mm và NMTC lớn hơn 14 mm (p = 0,638) Mặc dù nhóm NMTC lớn hơn 14 mm có tỷ lệ thấp (chỉ 5 trường hợp), nhưng kết quả thống kê không cho thấy sự khác biệt rõ rệt Độ dày niêm mạc tử cung trung bình ở nhóm có thai là 9,5±2,02 mm, trong khi nhóm không có thai là 9,9±1,77 mm, với p = 0,208, cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Trịnh Văn Du (2017), cho thấy tỷ lệ có thai cao nhất ở nhóm NMTC từ 8 - 14 mm, khẳng định rằng NMTC tối ưu cho quá trình làm tổ của phôi là trong khoảng này.
Tỷ lệ sảy thai tự nhiên ở nhóm NMTC < 8mm là 35,3%, trong khi nhóm NMTC từ 8 - 14mm là 22,8% Không có trường hợp nào NMTC trên 14 tuần có thai lâm sàng, vì vậy không xét đến tỷ lệ sảy thai ở nhóm này Sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê với p = 0,35 Độ dày trung bình của NMTC ở nhóm sảy thai trước 12 tuần là 9,65 ± 1,92mm, trong khi ở nhóm không có sảy thai là 9,78 ± 1,9mm, với p = 0,75 cho thấy sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê Theo nghiên cứu của Wei Yang (2018), không có sự khác biệt về tỷ lệ sảy thai tự nhiên sau chuyển phôi đông lạnh giữa hai nhóm có độ dày dưới 8mm và trên 8mm.
Tỷ lệ có thai lâm sàng ở các nhóm niêm mạc tử cung (NMTC) cho thấy nhóm NMTC dưới 8mm có tỷ lệ 34,7%, nhóm từ 8-14mm là 45,6%, trong khi nhóm trên 14mm không có trường hợp nào có thai lâm sàng Mặc dù sự khác biệt này không đạt ý nghĩa thống kê (p = 0,06), nhưng tỷ lệ có thai lâm sàng ở nhóm NMTC từ 8-14mm cao hơn đáng kể, cho thấy đây có thể là yếu tố giúp tăng tỷ lệ có thai Nghiên cứu của Wei Yang (2018) chỉ ra rằng tỷ lệ có thai lâm sàng giữa nhóm NMTC trên 8mm và dưới 8mm có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với nhóm trên 8mm có tỷ lệ cao hơn Tuy nhiên, không có mối liên quan giữa độ dày nội mạc tử cung và tỷ lệ sinh sống sau thụ tinh trong ống nghiệm.
Nghiên cứu năm 2010 cho thấy tỷ lệ có thai lâm sàng giữa ba nhóm niêm mạc tử cung (NMTC) với độ dày trên 8mm, từ 8-14mm và trên 14mm có ý nghĩa thống kê, trong đó nhóm 8-14mm có tỷ lệ có thai cao hơn đáng kể so với hai nhóm còn lại Theo Vương Thị Ngọc Lan (2000), khi chia NMTC thành hai nhóm < 10mm và > 10mm, nhóm có chiều dày NMTC > 10mm cho tỷ lệ có thai lâm sàng cao hơn một cách có ý nghĩa thống kê so với nhóm < 10mm (43,9% so với 25,5%) với p < 0,01, và không ghi nhận trường hợp có thai nào ở nhóm NMTC < 10mm.
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Huy (2004) cho thấy tỷ lệ thai lâm sàng ở nhóm có chiều dày nội mạc tử cung (NMTC) < 9mm là 14,9%, trong khi nhóm có chiều dày NMTC > 9mm đạt 38% Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Tỷ lệ có thai đến 12 tuần ở nhóm niêm mạc tử cung dày < 8mm là 22,4%, ở nhóm 8-14mm là 34,5%, trong khi không có trường hợp nào ở nhóm > 14mm Sự khác biệt về tỷ lệ có thai giữa các nhóm không có ý nghĩa thống kê (p = 0,09) Độ dày niêm mạc trung bình ở nhóm có thai là 9,96±1,72 mm và ở nhóm không có thai là 9,68±1,96 mm, cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,28) Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Wei Yang (2018) Nguyên Thị Thu Phương (2005) cho rằng điểm cắt niêm mạc tử cung là 10mm có sự khác biệt giữa các nhóm có thai tiến triển, có thể do đối tượng nghiên cứu là chu kỳ chuyển phôi tươi Một phân tích gộp năm 2014 cho thấy niêm mạc tử cung có giá trị dự đoán kém về kết quả chuyển phôi và không nên là tiêu chí hủy bỏ chu kỳ điều trị.
Phân tích đường cong ROC cho thấy độ dày niêm mạc tử cung không có ý nghĩa đáng kể trong việc dự đoán kết quả thai lâm sàng và thai kỳ đến 12 tuần.
4.2.2.2 Mối liên quan giữa hình thái niêm mạc tử cung với kết quả có thai, thai lâm sàng, thai trên 12 tuần
Nghiên cứu cho thấy rằng tỷ lệ chu kỳ chuyển phôi với niêm mạc tử cung dạng 3 lá chiếm ưu thế, đạt 75,8%, trong khi các hình thái niêm mạc tử cung khác chỉ chiếm 24,2%.
Tỷ lệ có thai ở nhóm niêm mạc tử cung dạng 3 lá đạt 60,6%, cao hơn đáng kể so với nhóm niêm mạc tử cung dạng khác với tỷ lệ 41,1% Sự khác biệt này không chỉ rõ ràng mà còn có ý nghĩa thống kê với p = 0,01 và OR = 0,4.
CI 95% 0,24 -0,83 Kết quả này cũng tương đương với nghiên cứu của Trịnh Văn Du (2017), Vương Thị Ngọc Lan (2001), Nguyễn Thị Thu Phương
Hình thái niêm mạc tử cung dạng 3 lá được chứng minh là yếu tố quan trọng trong việc tăng tỷ lệ làm tổ của phôi, từ đó nâng cao khả năng có thai trong các chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON).