ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Bệnh nhân được chẩn đoán UTBMBT tái phát nhạy cảm với platinum được điều trị bằng phác đồ gemcitabine - carboplatin tại bệnh viện K từ tháng 1/2014 đến tháng 4/2019.
2.1.1 Tiêu chuẩn lựa chọn: bệnh nhân đạt đủ các tiêu chuẩn sau
Bệnh nhân nữ từ 18 tuổi trở lên
Bệnh nhân được chẩn đoán mắc ung thư bàng quang muối tái phát sau khi đã trải qua điều trị phẫu thuật triệt căn và hóa trị bổ trợ với phác đồ có chứa platinum Thời gian từ khi kết thúc liệu trình hóa trị đến khi phát hiện tái phát kéo dài trên 6 tháng.
Điều trị ít nhất 3 chu kỳ hóa trị gemcitabine - carboplatin
Có tổn thương tái phát, di căn thấy được trên chẩn đoán hình ảnh hoặc khám lâm sàng đánh giá được để theo dõi đáp ứng điều trị
Có hồ sơ bệnh án ghi chép đầy đủ và thông tin theo dõi sau điều trị
Không có bệnh UT khác kèm theo
Chỉ số toàn trạng theo ECOG ≤ 2
+ Không mắc các bệnh cấp và mãn tính trầm trọng có nguy cơ gây tử vong gần
Không có chống chỉ định điều trị hóa chất
+ Bệnh nhân không đáp ứng đủ tiêu chuẩn lựa chọn trên.
+ Bệnh nhân bỏ điều trị không phải vì lý do chuyên môn.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Công thức tính cỡ mẫu: theo công thức tính cỡ mẫu cho việc ước tính một tỉ lệ: n = Z 2 1-α/2 p(1-p) d 2 Trong đó: n : Cỡ mẫu nghiên cứu. α : Mức ý nghĩa thống kê, chọn α = 0,05
Giá trị Z(1-/2) tương ứng với α = 0,05 là 1,96 Tỷ lệ đáp ứng toàn bộ với phác đồ gemcitabine - carboplatin trong nghiên cứu trước là p = 0,472 [52] Sai số có thể chấp nhận được được chọn là d = 0,15.
Mẫu được coi là có độ tin cậy khi n > 42.
Cỡ mẫu nghiên cứu của chúng tôi là n = 48.
Nghiên cứu mô tả hồi cứu kết hợp với tiến cứu.
2.2.3 Các bước tiến hành nghiên cứu
2.2.3.1 Đánh giá trước điều trị
- Thông tin chung: tuổi, giới, địa chỉ
- Giai đoạn bệnh ban đầu
- Giải phẫu bệnh ban đầu
- Phác đồ điều trị trước đó
- Thời gian từ lúc kết thúc hóa trị có platinum trước đó đến lúc tái phát
- Các triệu chứng lâm sàng
Toàn trạng bệnh nhân (PS) theo ECOG
Triệu chứng cơ năng: đau bụng, chướng bụng, khó thở, sờ thấy u, hạch, mệt mỏi, gầy sút cân…
Triệu chứng thực thể: dịch ổ bụng, dịch màng phổi, khám thấy u ở bụng, thăm trực tràng - âm đạo thấy u, hạch ngoại biên,…
- Triệu chứng cận lâm sàng:
Chẩn đoán hình ảnh: dựa vào siêu âm, cắt lớp vi tính, PET - CT xác đinh: vị trí tái phát, số lượng, kích thước u.
Xét nghiệm máu: CA 12-5, công thức máu, chức năng gan, thận.
- Bệnh nhân chẩn đoán UTBT tái phát nhạy cảm với platinum được điều trị bằng phác đồ gemcitabine – carboplatin
- Phác đồ hóa chất: Gemcitabine 1000mg/m 2 , TM, ngày 1+ 8
Carboplatine AUC= 4, TM, ngày 1 Chu kỳ 21 ngày.
- Tất cả các chỉ số về lâm sàng, cận lâm sàng được ghi nhận sau mỗi đợt điều trị theo mẫu bệnh án nghiên cứu.
- Các xét nghiệm đánh giá khả năng dung nạp thuốc sẽ được đánh giá sau mỗi chu kỳ
- Đánh giá khả năng đáp ứng với điều trị sẽ được đánh giá sau 3 chu kỳ,
6 chu kỳ hoặc khi bệnh nhân có triệu chứng nghi ngờ bệnh tiến triển.
+ Hóa trị liệu được dùng cho tới khi:
Bệnh tiến triển (hoặc đáp ứng các tiêu chuẩn ngừng điều trị khác).
Bệnh nhân có độc tính không thể dung nạp được thuốc.
Bệnh nhân thường được điều trị đủ 6 đợt, tuy nhiên, trong một số trường hợp, có thể chỉ định điều trị thêm lên đến 8 đợt tùy thuộc vào lợi ích lâm sàng và khả năng dung nạp thuốc của từng bệnh nhân.
+ Lý do tạm hoãn điều trị và cách xử lý
Khi bệnh nhân gặp phải độc tính độ 3, 4, việc hồi phục hoàn toàn là cần thiết trước khi tiếp tục điều trị Ngoài ra, cần xem xét giảm liều cho các đợt hóa trị sau, trừ những tác dụng phụ như rụng tóc, mệt mỏi và buồn nôn.
Nôn có thể được kiểm soát hiệu quả bằng thuốc chống nôn Nếu bệnh nhân gặp phải độc tính thần kinh độ 3, cần giảm liều hóa chất xuống 85% Trong trường hợp độc tính thần kinh độ 4 hoặc nếu cần giảm liều hơn 50%, nên ngừng điều trị vĩnh viễn.
Bệnh nhân sẽ được kiểm tra xét nghiệm máu trước mỗi chu kỳ điều trị, và nếu có độc tính lớn hơn độ 2, đợt điều trị tiếp theo sẽ bị trì hoãn để xử trí các độc tính này Phác đồ xử trí các độc tính sẽ được thực hiện cụ thể theo tình trạng của từng bệnh nhân.
Nếu độc tính hạ bạch cầu hạt ở mức độ 2, 3 mà không có biến chứng nhiễm khuẩn, cần tiêm thuốc kích thích tăng sinh bạch cầu hạt và sử dụng kháng sinh dự phòng đường uống Đợt điều trị tiếp theo sẽ được tiến hành với liều đủ khi bạch cầu hạt phục hồi trên mức độ 2.
Nếu độc tính hạ bạch cầu hạt độ 3 có biến chứng sốt hoặc độ 4, cần tiêm thuốc kích thích phát triển bạch cầu hạt và sử dụng kháng sinh phổ rộng qua đường tĩnh mạch (Cephalosphorin thế hệ 3) Đối với đợt điều trị tiếp theo, nên sử dụng liều đủ khi bạch cầu hạt hồi phục về dưới mức độ 2 Nếu hạ bạch cầu độ 3 có biến chứng hoặc độ 4 xảy ra hai lần liên tiếp, cần giảm liều hóa chất xuống 85%.
Nếu hạ tiểu cầu độ 2, trì hoãn điều trị tiếp đến khi tiểu cầu >100G/L.
Trong nghiên cứu, tất cả bệnh nhân đều được đánh giá đáp ứng sau 3 chu kỳ điều trị Nếu bệnh nhân có đáp ứng tích cực, họ sẽ tiếp tục điều trị trong 6 hoặc 8 chu kỳ Ngược lại, nếu bệnh tiến triển xấu, bệnh nhân sẽ được chuyển sang phác đồ điều trị khác hoặc điều trị triệu chứng.
2.2.3.3 Đánh giá kết quả điều trị
- Thời điểm đánh giá: trước điều trị, sau 3 đợt điều trị và sau 6 đợt điều trị hoặc khi có nghi ngờ bệnh tiến triển.
Số đợt hóa chất được điều trị
Dựa vào đặc điểm khối u, vị trí, số lượng, kích thước qua thăm khám lâm sàng hoặc trên siêu âm, cắt lớp vi tính, công hưởng từ, PET- CT.
Nồng độ CA-125 huyết thanh
- Tiêu chuẩn đánh giá: theo hướng dẫn của GCIG 2011 đánh giá đáp ứng điều trị ung thư buồng trứng dựa vào tiêu chuẩn RECIST 1.1 và đáp ứng CA-125 [53].
Đánh giá độc tính của điều trị:
- Thời điểm đánh giá: trước và sau mỗi đợt điều trị
Các độc tính trên lâm sàng: buồn nôn, nôn, tiêu chảy, mệt mỏi, đau thượng vị, rụng tóc, độc tính thần kinh ngoại vi
Độc tính trên hệ tạo huyết: Số lượng hồng cầu, hemoglobin, bạch cầu,bạch cầu trung tính, tiểu cầu
Độc tính lên gan thận: dựa vào các chỉ số ure, creatinin, SGOT, SGPT, bilirubin
Tiêu chuẩn đánh giá được thiết lập dựa trên thang điểm chỉ số toàn trạng ECOG, đồng thời đánh giá các độc tính theo tiêu chuẩn CTCAE 5.0 của Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ.
Đánh giá thời gian sống thêm: dựa vào hồ sơ bệnh án, gọi điện thoại cho bệnh nhân.
Thời gian sống thêm không tiến triển (PFS) được định nghĩa là khoảng thời gian tính từ khi bắt đầu điều trị cho đến khi bệnh nhân gặp phải sự tiến triển của bệnh hoặc tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào.
Thời gian sống thêm toàn bộ sau tái phát (OS) được tính từ thời điểm bệnh nhân bắt đầu tham gia nghiên cứu cho đến khi bệnh nhân qua đời vì bất kỳ nguyên nhân nào.
2.2.4 Các tiêu chuẩn sử dụng đánh giá trong nghiên cứu
2.2.4.1 Tiêu chuẩn đánh giá đáp ứng theo RECIST1.1 2009 [54]
Tổn thương đo được và không đo được
- Tổn thương đo được bao gồm:
Đối với khối u: là các tổn thương u với đường kính hơn nhất đo được
≥ 10mm trên CT scan với bề dày lớp cắt không lớn hơn 5mm, hoặc ≥ 10mm đo được trên lâm sàng, hoặc ≥ 20mm trên X-quang.
Đối với hạch di căn, cần đảm bảo rằng đường kính trục ngắn nhất đạt ≥ 15mm trên hình ảnh CT-scan với độ dày lớp cắt tối đa 5mm Lưu ý rằng chỉ có đường kính trục ngắn nhất của tổn thương hạch di căn được đo và theo dõi.
Tổn thương không đo được bao gồm các tổn thương nhỏ có đường kính dưới 10mm và hạch di căn có đường kính ngắn dưới 15mm Ngoài ra, còn có các tổn thương không đo được thực sự như tổn thương màng não, dịch ổ bụng, dịch màng phổi, dịch màng ngoài tim, cũng như các tổn thương viêm trong ung thư vú Các tổn thương bạch huyết ở da, phổi, và các khối ổ bụng có thể được phát hiện lâm sàng nhưng không thể đánh giá bằng chẩn đoán hình ảnh.
- Đánh giá các tổn thương đặc biệt gồm: tổn thương xương, tổn thương dạng nang, các tổn thương đã điều trị trước đó bằng các phương pháp tại chỗ.
Tổn thương xương được phân loại thành hai loại chính: tổn thương tiêu xương và tổn thương hỗn hợp tiêu xương - đặc xương Các tổn thương này trên CT-scan hoặc MRI với đường kính lớn nhất ≥ 10mm được xem là tổn thương đo được, trong khi tổn thương đặc xương không thể đo được Cần lưu ý rằng PET-CT không được sử dụng để đo đường kính của các tổn thương, mà chỉ nhằm phát hiện các tổn thương mới xuất hiện.
Tổn thương dạng nang có thể được coi là tổn thương đo được nếu chúng thể hiện tính chất ác tính trên hình ảnh và đáp ứng các tiêu chí của tổn thương đo được.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN
Biểu đồ 3.1 Phân bố tuổi bệnh nhân nghiên cứu
Nhận xét: 48 bệnh nhân nghiên cứu có tuổi thấp nhất là 25, cao nhất 73 Tuổi trung bình 52,8 ± 9,7 Nhóm tuổi từ 41 - 60 tuổi chiếm phần lớn 72,9%.
3.1.2 Giai đoạn bệnh chẩn đoán ban đầu
4% giai đoạn I giai đoạn II giai đoạn III giai đoạn IV
PFS Chuyển phác đồ nếu tiến triển, tái phát
Theo dõi, ghi nhận sống thêm toàn bộ
Biểu đồ 3.2 Giai đoạn bệnh chẩn đoán ban đầu
Phần lớn bệnh nhân được chẩn đoán ban đầu ở giai đoạn muộn, với 70,8% ở giai đoạn III và chỉ 4,2% ở giai đoạn IV Tỷ lệ bệnh nhân được chẩn đoán ở giai đoạn I là 8,3% và giai đoạn II là 16,7%.
3.1.3 Đặc điểm mô bệnh học
UTBM tuyến thanh dịch UTBM thể nhầy UTBM dạng nội mạc Khác
Biểu đồ 3.3 Đặc điểm mô bệnh học
UT biểu mô tuyến thanh dịch chiếm tỷ lệ cao nhất với 72,9%, tiếp theo là thể nhầy với 8,3% và dạng nội mạc tử cung với 12,5% Các thể loại khác như UT biểu mô không biệt hóa, UT biểu mô hỗn hợp và u tế bào chuyển tiếp chiếm 6,3%.
3.1.4 Thời gian tái phát (PFI)
Biểu đồ 3.4 Thời gian tái phát (PFI)
Nhận xét: Thời gian PFI thấp nhất là 6 tháng, cao nhất 42 tháng, trung bình
14,8 ± 6,9 tháng, trung vị 13 tháng Đa số bệnh nhân tái phát trong vòng 24 tháng (93,8%), trong đó nhóm bệnh nhân có PFI 6 - 12 tháng chiếm 45,8%, từ
Bảng 3.11 Lý do vào viện
Lý do vào viện Số bệnh nhân Tỷ lệ % Đau bụng- chướng bụng 16 33,3%
Nhận xét: Lý do vào viện chủ yếu là khám định kì phát hiện tái phát chiếm
50%, tiếp theo là đau bụng - chướng bụng 33,3%, ho - khó thở 14,6%.
Biểu đồ 3.5 Triệu chứng cơ năng
Triệu chứng cơ năng thường gặp nhất ở bệnh nhân là đau bụng và chướng bụng, chiếm tỷ lệ 56,2%, tiếp theo là mệt mỏi và sút cân với 52,1% Đáng chú ý, 22,9% bệnh nhân được phát hiện tái phát mà không có triệu chứng cơ năng rõ ràng.
Kh ám th ấy u ổ b ụn g
Th ăm âm đạ o, trự c t ràn g
Hạ ch ng oạ i b iên
Kh ôn g t riệ u c hứ ng
Biểu đồ 3.6 Triệu chứng thực thể
Triệu chứng thực thể phổ biến nhất khi phát hiện tái phát là dịch ổ bụng, chiếm 45,8% Các triệu chứng khác bao gồm triệu chứng qua thăm khám âm đạo - trực tràng (29,2%), hạch ngoại biên (12,5%), u ổ bụng (10,4%) và dịch màng phổi (10,4%) Đáng lưu ý, có đến 27,1% bệnh nhân không có triệu chứng thực thể tại thời điểm phát hiện tái phát.
3.1.8 Toàn trạng bệnh nhân trước điều trị
Biểu đồ 3.7 Toàn trạng bệnh nhân theo ECOG
Nhận xét: Tất cả bệnh nhân nghiên cứu có chỉ số toàn trạng theo ECOG ≤ 2, trong đó PS 0-1 chiếm 75%, PS 2 chiếm 25%.
3.1.9 Đặc điểm vị trí tái phát
Bảng 3.12 Vị trí tái phát
Vị tri tái phát Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Nhận xét: Vị trí tái phát hay gặp nhất là bụng - tiểu khung chiếm 81,2%, tiếp theo là hạch 43,8%, phổi - màng phổi 16,7%, gan 8,3%.
Bảng 3.13 Số vị trí tái phát
Số vị trí tái phát Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Nhận xét: Số bệnh nhân tái phát 1 vị trí chiếm 43,8%, 2 vị trí chiếm 43,8%.
Chỉ có 12,4% bệnh nhân tái phát từ 3 vị trí trở lên.
3.1.10 Nồng độ CA -125 tại thời điểm tái phát
Biểu đồ 3.8 CA-125 tại thời điểm tái phát
Nhận xét: Nồng độ CA-125 trung bình tại thời điểm tái phát là 660,6 ±
1255,7 U/mL, trung vị 190,8 U/mL, thấp nhất 5,3 UI/mL, cao nhất 5712 UI/mL Tại thời điểm tái phát, phần lớn bệnh nhân có nồng độ CA-125 tăng >
3.1.11 Các phương pháp đã điều trị trước
Bảng 3.14 Số lần phẫu thuật của bệnh nhân
Số lần phẫu thuật Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Nhận xét: 23 bệnh nhân đã được phẫu thuật 1 lần chiếm 47,9%, 25 bệnh nhân đã được phẫu thuật lần 2 khi tái phát chiếm 52,1%.
Bảng 3.15 Số phác đồ hóa trị trước đó
Số phác đồ hóa chất Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Nhận xét: Phần lớn bệnh nhân điều trị 1 phác đồ trước (81,3%) 14,6% bệnh nhân đã điều trị 2 phác đồ, chỉ có 4,2% bệnh nhân điều trị 3 phác đồ.
3.1.12 Số chu kì hóa chất gemcitabine - carboplatin điều trị
Bảng 3.16 Số chu kì gemcitabine - carboplatin bệnh nhân được điều trị
Số chu kì hóa chất Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Trong một nghiên cứu, 48 bệnh nhân đã nhận tổng cộng 299 chu kỳ điều trị gemcitabine - carboplatin, với số chu kỳ dao động từ 3 đến 8 Trung bình, mỗi bệnh nhân trải qua 6,2 ± 1,4 chu kỳ, và phần lớn bệnh nhân (87,5%) đã hoàn thành đủ 6 hoặc 8 chu kỳ điều trị.
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ
3.2.1 Đáp ứng của phác đồ
3.2.1.1 Đáp ứng của phác đồ theo GCIG 2011
Bảng 3.17 Đáp ứng của phác đồ theo GCIG
Kết quả Số bệnh nhân Tỷ lệ % Đáp ứng hoàn toàn 10 20,8% Đáp ứng một phần 19 39,6%
Nhận xét: Tỷ lệ đáp ứng chung là 60,4%, bao gồm đáp ứng hoàn toàn 20,8%, đáp ứng 1 phần 39,6% Tỷ lệ bệnh ổn định 31,3%, chỉ có 8,3% bệnh nhân tiến triển
Bảng 3.18 Thay đổi CA-125 trong quá trình điều trị
Giá trị Trước điều trị
Trung vị 190,8 29,1 18,0 Độ lệch chuẩn 1255,7 500,2 283,2
Giá trị trung bình và trung vị của CA-125 giảm sau khi điều trị, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa trước và sau 3 đợt điều trị (p < 0,001) Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể nào về trung vị CA-125 giữa 3 đợt và 6 đợt điều trị (p = 0,749).
Bảng 3.19 Đáp ứng CA-125 theo tiêu chuẩn ICIG 2011 Đáp ứng CA-125 Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Không đáp ứng - không tiến triển 8 16,7%
Nhận xét: Có tới 75% bệnh nhân có đáp ứng về CA-125, 16,7% bệnh nhân không đáp ứng - không tiến triển, chỉ 8,3% bệnh nhân tiến triển về CA-125.
3.2.1.3 Liên quan giữa đáp ứng CA-125 và đáp ứng theo RECIST 1.1
Bảng 3.20 Liên quan giữa đáp ứng CA-125 và đáp ứng theo RECIST 1.1 Đáp ứng theo RECIST 1.1 Đáp ứng CA-125 Đáp ứng Không đáp ứng Đáp ứng 15 (41,7%) 21 (58,3%)
Nhận xét: Đáp ứng về CA-125 liên quan có ý nghĩa thống kê với đáp ứng theo RECIST 1.1 với p = 0,04.
3.2.1.4 Liên quan giữa thời gian PFI với đáp ứng điều trị
Bảng 3.21 Liên quan giữa thời gian PFI với đáp ứng điều trị
Kết quả điều trị Đáp ứng Không đáp ứng p
Tỷ lệ đáp ứng của nhóm bệnh nhân có PFI từ 6 đến 12 tháng thấp hơn so với nhóm có PFI trên 12 tháng, với kết quả lần lượt là 50% và 69,2% Tuy nhiên, sự khác biệt này không đạt ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
3.2.1.5 Liên quan giữa chỉ số toàn trạng và tỷ lệ đáp ứng
Bảng 3.22 Liên quan giữa chỉ số toàn trạng và tỷ lệ đáp ứng
Kết quả điều trị Đáp ứng Không đáp ứng p
Nhận xét: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ đáp ứng giữa nhóm bệnh nhân PS 0-1 và nhóm bệnh nhân PS 2 (p > 0,05).
3.2.1.6 Liên quan giữa mô bệnh học và tỷ lệ đáp ứng
Bảng 3.23 Liên quan giữa mô bệnh học và tỷ lệ đáp ứng
Kết quả điều trị p Đáp ứng Không đáp ứng
Nhận xét: Tỷ lệ đáp ứng ở nhóm bệnh nhân UTBM tuyến thanh dịch là
62,9%, của nhóm bệnh nhân còn lại là 53,8%, tuy nhiên sự khác biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê (p > 005).
3.2.1.7 Liên quan giữa số vị trí tái phát và đáp ứng
Bảng 3.24 Liên quan giữa số vị trí tái phát và đáp ứng
Số vị trí tái phát Đáp ứng Không đáp ứng p
Tỷ lệ đáp ứng ở nhóm bệnh nhân tái phát tại một vị trí đạt 71,4%, cao hơn đáng kể so với nhóm bệnh nhân có hai vị trí tái phát với tỷ lệ 51,9% Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p = 0,168.
3.2.1.8 Liên quan giữa điều trị phẫu thuật lần 2 với đáp ứng
Bảng 3.25 Liên quan giữa điều trị phẫu thuật lần 2 với đáp ứng
Phẫu thuật Đáp ứng Không đáp ứng Tổng p
Nhận xét: Tỷ lệ đáp ứng ở nhóm bệnh nhân có phẫu thuật lần 2 khi tái phát là
78,3% cao hơn so với nhóm không phẫu thuật lần 2 chiếm 44% Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,015.
3.2.2 Thời gian sống thêm không tiến triển
3.2.2.1 Thời gian sống thêm không tiến triển của bệnh nhân nghiên cứu
Biểu đồ 3.9 Thời gian sống thêm không tiến triển
Trong một nghiên cứu với thời gian theo dõi trung bình là 22,9 ± 13,2 tháng, bệnh nhân có thời gian sống thêm không tiến triển (PFS) trung bình là 12,2 ± 1,2 tháng, với trung vị đạt 10 ± 1,1 tháng Tỷ lệ sống thêm không tiến triển tại thời điểm 6 tháng là 77,1% và giảm xuống còn 33,3% sau 12 tháng.
3.2.2.2 Thời gian sống thêm bênh không tiến triển theo PFI
Biểu đồ 3.10 Thời gian sống thêm bênh không tiến triển theo PFI
Trung vị thời gian sống không tiến triển (PFS) ở nhóm bệnh nhân có thời gian can thiệp trước (PFI) từ 6 đến 12 tháng là 6,6 ± 1,5 tháng, thấp hơn đáng kể so với nhóm bệnh nhân có PFI trên 12 tháng với trung vị PFS là 13,2 ± 3,1 tháng Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
PFI 6-12 th: 6,6 ± 1,5 tháng PFI >12 th: 13,2 ± 3,1 tháng p < 0,001
3.2.2.3 Sống thêm không tiến triển và phẫu thuật lần 2
Biểu đồ 3.11 Sống thêm không tiến triển và phẫu thuật lần 2
Nhận xét: Trung vị PFS ở nhóm có phẫu thuật là 10,7 ± 1,5 tháng cao hơn nhóm không phẫu thuật 8,4 ± 1,1 tháng Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p = 0,683.
3.2.2.4 Thời gian sống thêm không tiến triển theo toàn trạng
Biểu đồ 3.12 Sống thêm không tiến triển theo toàn trạng
Có PT : 10,7±1,5 tháng Không PT: 8,4 ±1,1tháng p = 0,683
Trung vị thời gian sống không tiến triển (PFS) ở nhóm bệnh nhân có trạng thái toàn thân theo ECOG 0 hoặc 1 là 10,7 ± 1,2 tháng, cao hơn đáng kể so với nhóm có trạng thái PS 2 với 5,6 ± 0,9 tháng Sự khác biệt này đạt ý nghĩa thống kê với p = 0,021.
3.2.2.5 Sống thêm không tiến triển theo giai đoạn bệnh ban đầu
Biểu đồ 3.13 Sống thêm không tiến triển theo giai đoạn bệnh ban đầu
Nhận xét: Trung vị PFS nhóm bệnh nhân chẩn đoán ban đầu ở giai đoạn I-II là
17,0 ± 5,1 tháng cao hơn so với 8,4 ± 0,8 tháng của nhóm bệnh nhân giai đoạn III-IV Khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
3.2.2.6 Các yếu tố liên quan PFS
Bảng 3.26 Phân tích đa biến các yếu tố liên quan PFS
Yếu tố liên quan HR hiệu chỉnh 95% CI HR p
Số vị trí tái phát
(1 vị trí /nhiều vị trí) 1,07 0,53 - 2,17 0,854
(GĐ I-II/ GĐ III-IV) 0,54 0,24 - 1,20 0,132
Phân tích đa biến theo mô hình Cox cho thấy thời gian PFI có mối liên hệ thống kê đáng kể với PFS (p < 0,001) Cụ thể, PFI > 12 tháng được xác định là yếu tố tiên lượng tích cực với HR 4,20 (95% CI: 2,0 – 8,85).
3.2.3 Thời gian sống thêm toàn bộ (OS)
3.2.3.1 Thời gian sống thêm toàn bộ của bệnh nhân
Biểu đồ 3.14 Thời gian sống thêm toàn bộ của bệnh nhân
Nhận xét: Trung vị thời gian sống thêm toàn bộ là 22,8 ± 3,2 tháng Tỷ lệ sống thêm toàn bộ 12 tháng là 83,3%, tại 24 tháng 35,4%.
3.2.3.2 Sống thêm toàn bộ theo PFI
Biểu đồ 3.15 Sống thêm toàn bộ các dưới nhóm theo
Trung vị thời gian sống (OS) ở nhóm bệnh nhân có thời gian khoảng cách phát bệnh (PFI) từ 6 đến 12 tháng là 16,6 ± 0,5 tháng, thấp hơn đáng kể so với nhóm bệnh nhân có PFI trên 12 tháng, với trung vị là 45,6 ± 13,9 tháng Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
3.2.3.3 Sống thêm toàn bộ theo toàn trạng bệnh nhân
Biểu đồ 3.16 Sống thêm toàn bộ dưới nhóm theo toàn trạng
PFI 6-12th: 16,6 ±0,5 tháng PFI >12th: 45,6 ± 13,9 tháng p < 0,001
Nhận xét: Trung vị OS nhóm bệnh nhân có PS 0-1 cao hơn nhóm bệnh nhân
PS 2 (23,7 tháng so với 12,5 tháng), tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p = 0,183.
3.2.3.4 Sống thêm toàn bộ theo giai đoạn bệnh chẩn đoán ban đầu
Biểu đồ 3.17 Sống thêm toàn bộ theo giai đoạn bệnh ban đầu
Trung vị sống thêm của nhóm bệnh nhân chẩn đoán giai đoạn I-II là 45,6 tháng, cao hơn so với 17,8 tháng của nhóm giai đoạn III-IV Tuy nhiên, sự khác biệt này không đạt ý nghĩa thống kê với p = 0,66.
3.2.3.5 Sống thêm toàn bộ theo nồng độ CA-125 khi tái phát
Biểu đồ 3.18 Sống thêm toàn bộ theo nồng độ CA-125 khi tái phát
Trung vị nồng độ CA-125 ban đầu ở nhóm bệnh nhân có mức ≤100U/mL cao hơn so với nhóm bệnh nhân có nồng độ CA-125 >100U/mL Tuy nhiên, sự khác biệt này không đạt ý nghĩa thống kê với giá trị p = 0,068.
3.2.3.6 Sống thêm toàn bộ theo số vị trí tái phát
Biểu đồ 3.19 Sống thêm toàn bộ theo số vị trí tái phát
Nhận xét: Không thấy khác biệt có ý nghĩa thống kê về OS giữa nhóm bệnh nhân tái phát 1 vị trí và nhóm tái phát nhiều vị trí.
3.2.3.7 Sống thêm toàn bộ theo điều trị phẫu thuật lần 2
Biểu đồ 3.20 Sống thêm toàn bộ dưới nhóm và phẫu thuật lần 2
Nhận xét cho thấy rằng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian sống sót toàn bộ (OS) giữa nhóm bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật lần hai khi tái phát và nhóm bệnh nhân không thực hiện phẫu thuật lần hai.
3.2.3.8 Các yếu tố liên quan đến sống thêm toàn bộ
Bảng 3.27 Phân tích đa biến các yếu tố liên quan đến sống thêm toàn bộ
Yếu tố liên quan HR hiệu chỉnh 95% CI HR p
Số vị trí tái phát
(1 vị trí/ nhiều vị trí) 0,96 0,38 - 2,41 0,933 Giai đoạn ban đầu
(GĐ I-II/ GĐ III-IV) 6,20 1,96 - 19,64 0,004
Có PT: 24,1 ± 4,3 tháng Không PT:18,2 ± 3,8 tháng p = 0,432
Giá trị CA-125 ban đầu ≤ 100 U/mL, giai đoạn bệnh chẩn đoán ban đầu I-II và thời gian PFI > 12 tháng là những yếu tố tiên lượng tích cực cho khả năng sống thêm toàn bộ, với p < 0,05.
3.2.4 Một số tác dụng không mong muốn của phác đồ
3.2.4.1 Độc tính hệ tạo huyết
Bảng 3.28 Độc tính trên hệ tạo huyết Độc tính Độ 1 Độ 2 Độ 3 Độ 4 Tổng
Nhận xét: Độc tính hệ tạo huyết gặp nhiều nhất là hạ bạch cầu và hạ bạch cầu trung tính với tỷ lệ trên 90%.
- Độc tính hạ huyết sắc tố gặp ở 52,1% bệnh nhân, chỉ gặp độ 1-2.
- 93,7% bệnh nhân bị hạ bạch cầu, trong đó chủ yếu độ 1-2 (68,7%), độ 3 chiếm 25%.
- Tỷ lệ bệnh nhân hạ bạch cầu trung tính cao 95,8%, trong đó 58,3% độ 3-4.
- Hạ tiểu cầu gặp ở 58,3% bệnh nhân, trong đó chủ yếu độ 1-2 chiếm 56,2%, chỉ có 1 bệnh nhân bị hạ tiểu cầu độ 3 (2,1%).
3.2.4.2 Hạ huyết sắc tố qua các đợt Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 5 Đợt 6
Biểu đồ 3.21 Tỷ lệ hạ huyết sắc tố theo các đợt
Nhận xét: Hạ huyết sắc tố qua các đợt điều trị chỉ gặp độ 1-2, tỷ lệ hạ huyết sắc tố 3 đợt sau thấp hơn so với 3 đợt đầu.
3.2.4.3 Hạ bạch cầu qua các đợt điều trị Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 5 Đợt 6
Biểu đồ 3.22 Hạ bạch cầu qua các đợt điều trị
Nhận xét:Tỷ lệ bệnh nhân bị hạ bạch cầu có xu hướng giảm dần qua các đợt điều trị và gặp chủ yếu là hạ bạch cầu độ 1-2.
3.2.4.4 Hạ bạch cầu trung tính qua các đợt điều trị Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 5 Đợt 6
4.2 10.4 6.2 6.8 11.6 4.5 độ 4 đọ 3 độ 2 độ 1 độ 0
Biểu đồ 3.23 Hạ bạch cầu trung tính qua các đợt
Tỷ lệ bệnh nhân gặp phải tình trạng hạ bạch cầu trung tính trong các đợt điều trị khá cao, dao động từ 67,2% đến 81,2% Trong đó, tỷ lệ hạ bạch cầu trung tính độ 3-4 trong mỗi đợt điều trị nằm trong khoảng 22,9% đến 35,4%, chủ yếu là độ 3.
3.2.4.5 Hạ tiểu cầu qua các đợt điều trị Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 5 Đợt 6
Biểu đồ 3.24 Hạ tiểu cầu qua các đợt điều trị
Tỷ lệ hạ tiểu cầu trong các đợt điều trị dao động từ 12,2% đến 20,8%, chủ yếu ở mức độ 1 Hạ tiểu cầu độ 2 chỉ xuất hiện nhiều nhất là 6,3% trong đợt điều trị thứ hai.
1 bệnh nhân bị hạ tiểu cầu độ 3 ở đợt thứ 3.
3.2.4.6 Các độc tính ngoài hệ tạo huyết
Bảng 3.29 Các độc tính khác ngoài hệ tạo huyết Độc tính Độ 1 Độ 2 Độ 3 Độ 4 Tổng
Tăng men gan 6 (12,5%) 1(2,1%) 1 (2,1%) 1 (2,1%) 8 (16,7%) Tăng creatinin 1 (2,1%) 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 1 (2,1%)
Trong một nghiên cứu về các độc tính, các tác dụng phụ thường gặp chủ yếu ở mức độ nhẹ từ 1-2, bao gồm nôn mửa chiếm 39,6%, tiêu chảy 27,1%, và tăng men gan 27,2% (trong đó có 4,2% ở mức độ 3-4) Ngoài ra, tê bì tay chân xuất hiện ở 17,7%, dị ứng 12,6%, và rụng tóc 6,2%.
BÀN LUẬN
ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi trung bình của bệnh nhân ở giai đoạn tái phát và di căn là 52,8 ± 9,7 tuổi, với bệnh nhân cao tuổi nhất là 73 tuổi và thấp tuổi nhất là 25 tuổi Đáng chú ý, phần lớn bệnh nhân nằm trong độ tuổi từ 41 đến 60, chiếm 72,9%.
Nghiên cứu của Nguyễn Đình Tạo (2012) cho thấy trong số 60 bệnh nhân UTBT tái phát, độ tuổi trung bình là 51,7 ± 9,5, với 80% thuộc nhóm tuổi 41-60 Tương tự, Trần Bá Khuyến (2013) nghiên cứu 52 bệnh nhân có tuổi trung bình 54,5 ± 9,8, trong đó 63% nằm trong độ tuổi 40-60 Mai Thị Kim Ngân (2015) ghi nhận 57 bệnh nhân UTBT tái phát với tuổi trung bình 54,4 ± 9,3, và 70,2% thuộc nhóm 40-60 tuổi Nguyễn Thị Thanh Tâm (2017) nghiên cứu 33 bệnh nhân có tuổi trung bình 57,3 ± 1,3 Cuối cùng, nghiên cứu của Pfisterer J và cộng sự (2006) trên 178 bệnh nhân cho thấy tuổi trung bình là 59, với bệnh nhân lớn tuổi nhất là 78 và trẻ tuổi nhất là 36.
So sánh với các tác giả trên, chúng tôi thấy kết quả trong nghiên cứu này là tương đương với các nghiên cứu trong nước và ngoài nước.
4.1.2 Giai đoạn bệnh lúc chẩn đoán ban đầu
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phần lớn bệnh nhân được chẩn đoán ban đầu ở giai đoạn III, chiếm 70,8% và giai đoạn II 16,7%
Trong nghiên cứu của Dương Vũ Hùng (2015) có 61,4% bệnh nhân được chẩn đoán ban đầu thuộc giai đoạn III, 19,3% giai đoạn II [59] Trần Bá
Theo nghiên cứu của Khuyến (2013), tỷ lệ bệnh nhân được chẩn đoán ở giai đoạn III chiếm 59,6%, trong khi giai đoạn II chỉ chiếm 21,2% Tương tự, nghiên cứu của Mai Thị Kim Ngân (2015) cho thấy tỷ lệ bệnh nhân ở giai đoạn III lên tới 70,2%, trong khi giai đoạn II chỉ có 8,8%.
Nghiên cứu của Kose M.S và cộng sự (2005) cho thấy tỷ lệ giai đoạn
II 7,5%, giai đoạn III 87,5%, giai đoạn IV 5% [60] Nghiên cứu của Sufliarsky J và cộng sự (2008) ghi nhận tỷ lệ giai đoạn II 7,7%, III 69,8%
[41] Trong nghiên cứu của Flisterer J (2006), tỷ lệ bệnh nhân giai đoạn I-II là 21,4%, giai đoạn III- IV 78,6% [38].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với các nghiên cứu trong và ngoài nước, cho thấy buồng trứng nằm sâu trong tiểu khung dẫn đến các triệu chứng mơ hồ và không đặc hiệu, dễ nhầm lẫn với nhiều bệnh lý khác Việc chẩn đoán và phát hiện sớm ung thư buồng trứng (UTBT) gặp nhiều khó khăn, khiến hầu hết bệnh nhân được phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn Tỷ lệ bệnh nhân được chẩn đoán khi ung thư đã lan rộng trong ổ bụng hoặc di căn đến các cơ quan khác như gan, phổi, và lách rất cao Dù có thể đáp ứng tốt với điều trị ban đầu, nhưng phần lớn bệnh nhân sẽ tái phát và cần điều trị tiếp theo.
4.1.3 Đặc điểm mô bệnh học
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ các loại u tế bào bất thường (UTBM) được ghi nhận như sau: UTBM tuyến thanh dịch chiếm 72,9%, UTBM thể nhầy chiếm 8,3%, UTBM dạng nội mạc tử cung chiếm 12,5%, và 6,3% còn lại là các thể loại khác như UTBM không biệt hóa, UTBM hỗn hợp, và u tế bào chuyển tiếp.
Nghiên cứu của Nguyễn Đình Tạo (2012) cho thấy tỷ lệ UTBM tuyến thanh dịch chiếm 55% trong số 60 bệnh nhân UTBM tuyến tái phát, trong khi UTBM thể nhầy chiếm 23,4% và các thể khác 21,6% Tương tự, Trần Bá Khuyến (2013) ghi nhận UTBM tuyến thanh dịch có tỷ lệ cao nhất 59,6% trong 52 bệnh nhân, tiếp theo là UTBM thể nhầy 25% và các thể khác 15,4% Dương Vũ Hùng cũng xác nhận UTBM tuyến thanh dịch chiếm 59,6%, UTBM thể nhầy 14% và dạng nội mạc tử cung 7% Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Tâm ghi nhận tỷ lệ UTBM tuyến thanh dịch 72,7%, UTBM thể nhầy 6,1% và dạng nội mạc tử cung 12,1% Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với các nghiên cứu trong nước và phù hợp với đặc điểm mô bệnh học của UTBMBT, chủ yếu là UTBM tuyến thanh dịch.
Các nghiên cứu quốc tế cho thấy tỷ lệ ung thư tử cung (UTBM) tuyến thanh dịch đạt 70%, trong khi thể nội mạc tử cung chiếm 7% và thể nhầy 5% theo nghiên cứu của Papadimitriou C.A và CS (2004) Nghiên cứu của Sufliarsky J và CS (2008) ghi nhận tỷ lệ UTBM tuyến thanh dịch là 77,2%, UTBM thể nhầy 1,9%, dạng nội mạc tử cung 11,3% và UTBM không biệt hóa 5,7%.
Thời gian tái phát của bệnh nhân ung thư bàng quang tái phát nhạy cảm platinum được xác định từ khi kết thúc điều trị trước đến khi phát hiện tái phát Khoảng thời gian này được gọi là thời gian không platinum (PFI).
Chúng tôi nghiên cứu trên 48 bệnh nhân cho thấy PFI trung bình 14,8 ± 6,9 tháng, thấp nhất 6 tháng, cao nhất 42 tháng, trung vị PFI 13 tháng.
Tỷ lệ bệnh nhân có PFI 6-12 tháng là 45,8%, 12 - 24 tháng chiếm 48%.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Đình Tạo (2012), thời gian tái phát trung bình của bệnh nhân là 17,4 ± 9,8 tháng, trong khi Trần Bá Khuyến (2013) ghi nhận thời gian này là 16,4 ± 9,6 tháng và Dương Vũ Hùng (2015) là 16,3 ± 9,5 tháng Nghiên cứu của Kose M.S và cộng sự (2005) cho thấy bệnh nhân ung thư bàng quang tái phát nhạy cảm với platinum có thời gian tái phát trung bình (PFI) là 13,5 tháng.
Nghiên cứu của Plisterer J và CS (2006) trên 178 bệnh nhân ung thư bàng quang nhạy cảm với platinum cho thấy tỷ lệ thời gian sống không bệnh (PFI) ở 6-12 tháng đạt 39,9% và trên 12 tháng là 59,6% Tương tự, nghiên cứu của Sufliarsky J (2009) ghi nhận PFI trung vị 12 tháng (từ 1-43 tháng), với tỷ lệ 6-12 tháng là 43,4% và 12-24 tháng là 45,3% Kết quả của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu trong và ngoài nước.
Phần lớn bệnh nhân ung thư bàng quang tái phát trong 2 năm đầu sau điều trị ban đầu, vì vậy việc theo dõi sát sao trong thời gian này là rất quan trọng để phát hiện sớm tái phát và can thiệp kịp thời Thời gian tái phát không chỉ ảnh hưởng đến lựa chọn phương pháp điều trị mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc dự đoán tiên lượng sống thêm cho bệnh nhân.
Bệnh nhân mắc ung thư bàng quang (UTBT) sau khi hoàn thành điều trị bước 1 cần được theo dõi định kỳ Trong năm đầu tiên, họ thường xuyên tái khám và thực hiện các xét nghiệm để phát hiện dấu hiệu tái phát hoặc di căn Tuy nhiên, từ năm thứ hai trở đi, nhiều bệnh nhân không tuân thủ lịch tái khám, chỉ đến bệnh viện khi xuất hiện triệu chứng như đau bụng, chướng bụng hoặc khó thở.
Kết quả nghiên cứu cho thấy 50% bệnh nhân phát hiện tái phát nhờ tái khám định kỳ, trong khi 33,5% đến khám do đau bụng - chướng bụng, 14,6% vì ho - khó thở, và 2,1% do ra máu âm đạo Tương tự, nghiên cứu của Mai Thị Kim Ngân chỉ ra rằng 45,6% bệnh nhân khám định kỳ và 38,6% do đau bụng - chướng bụng Nghiên cứu của Dương Vũ Hùng cũng cho thấy đau bụng - chướng bụng là lý do chính với 36,8%, tiếp theo là khám định kỳ 33,4%, sờ thấy u thành bụng 10,5%, tức ngực - khó thở 5,3%, và sờ thấy hạch thượng đòn 7%.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Đình Tạo (2012) và Trần Bá Khuyến (2013), triệu chứng chính khiến bệnh nhân tái khám là đau bụng và chướng bụng, với tỷ lệ lần lượt là 58% và 54% So với các nghiên cứu này, tỷ lệ phát hiện tái phát qua khám định kỳ của chúng tôi cao hơn Tuy nhiên, một số bệnh nhân, dù đã có triệu chứng như đau bụng, chướng bụng và mệt mỏi, vẫn trì hoãn việc khám cho đến khi đến hẹn Việc không tuân thủ lịch khám định kỳ và chậm trễ tái khám khi có triệu chứng đã dẫn đến việc phát hiện tái phát muộn, ảnh hưởng tiêu cực đến điều trị do tình trạng sức khỏe của bệnh nhân suy giảm.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy triệu chứng cơ năng phổ biến nhất là đau bụng và chướng bụng (56,2%), tiếp theo là mệt mỏi và sút cân (42,1%) Ngoài ra, một số bệnh nhân có thể gặp ho và khó thở (14,5%) hoặc ra máu âm đạo (2,1%) Một bệnh nhân có thể xuất hiện một hoặc nhiều triệu chứng, và đáng chú ý là có 22,9% bệnh nhân không có triệu chứng cơ năng khi phát hiện tái phát.
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ
4.2.1 Đáp ứng của phác đồ
4.2.1.1 Đáp ứng của phác đồ theo GCIG 2011
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ đáp ứng chung là 60,4%, trong đó đáp ứng hoàn toàn 20,6%, đáp ứng 1 phần 39,6%, lợi ích lâm sàng đạt 91,7%.
Nghiên cứu của Dương Vũ Hùng (2015) cho thấy tỷ lệ đáp ứng của phác đồ sau 3 chu kỳ là 45,6%, với lợi ích lâm sàng đạt 80,7% Tuy nhiên, nghiên cứu này bao gồm cả bệnh nhân UTBT tái phát kháng platinum, trong đó hơn 80% đã trải qua nhiều phác đồ điều trị trước đó Đáng chú ý, tác giả chỉ đánh giá đáp ứng điều trị dựa trên tiêu chuẩn RECIST Trong khi đó, nghiên cứu của chúng tôi không chỉ dựa vào RECIST mà còn xem xét đáp ứng CA-125, cho phép những bệnh nhân có bệnh ổn định theo RECIST nhưng vẫn có đáp ứng CA-125 được tính là có đáp ứng một phần, dẫn đến tỷ lệ đáp ứng của chúng tôi cao hơn.
Nhiều nghiên cứu quốc tế về phác đồ gemcitabine - carboplatin trong điều trị ung thư buồng trứng tái phát đã cho kết quả tương đồng Cụ thể, nghiên cứu của du Bois A và cộng sự (2001) ghi nhận tỷ lệ đáp ứng chung đạt 62,5% Tương tự, nghiên cứu của Kose và cộng sự (2005) trên 40 bệnh nhân cho thấy 62,5% tỷ lệ đáp ứng, trong đó 15% là đáp ứng hoàn toàn và 47,5% là đáp ứng một phần Nghiên cứu của Sufliarsky J và cộng sự (2008) trên 53 bệnh nhân cũng cho kết quả khả quan với tỷ lệ đáp ứng chung 67,3%, trong đó 32,7% là đáp ứng toàn bộ và 34,6% là đáp ứng một phần Thêm vào đó, thử nghiệm pha III OCEANS (2012) với 242 bệnh nhân điều trị bằng gemcitabine - carboplatin ghi nhận tỷ lệ đáp ứng toàn bộ đạt 57,4% Tất cả các nghiên cứu này đều được thực hiện trên bệnh nhân ung thư buồng trứng tái phát nhạy cảm với platinum và đánh giá dựa trên các chỉ số CA-125 cùng tổn thương hình ảnh.
Nghiên cứu đa trung tâm của Theo Pfisterer J và CS (2006) trên 178 bệnh nhân UTBT tái phát điều trị bằng gemcitabine - carboplatin cho thấy tỷ lệ đáp ứng đạt 47,2% sau 6 chu kỳ, với lợi ích lâm sàng là 72% Nghiên cứu này đánh giá đáp ứng sau mỗi chu kỳ điều trị, bao gồm cả những bệnh nhân tiến triển sau 1 hoặc 2 chu kỳ, trong khi chúng tôi đã loại bỏ những trường hợp này Hơn nữa, nghiên cứu chỉ dựa vào hình ảnh và lâm sàng để đánh giá đáp ứng, không xem xét chỉ số CA-125, điều này có thể giải thích tỷ lệ đáp ứng thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi.
4.2.1.2 Đáp ứng CA-125 trong điều trị
CA-125 là chất chỉ điểm u quan trọng trong việc theo dõi đáp ứng điều trị và phát hiện tái phát, di căn Theo khuyến cáo của GCIG 2011, việc đánh giá đáp ứng điều trị dựa vào sự thay đổi nồng độ CA-125 và tiêu chí RECIST 1.1 rất có giá trị trong điều trị ung thư buồng trứng giai đoạn tái phát, di căn cũng như trong quá trình điều trị duy trì.
Trong nghiên cứu này, bệnh nhân được làm xét nghiệm định lượng CA-
125 máu lúc tái phát, trước khi điều trị hóa chất, sau 3 đợt và sau 6 đợt điều trị hoặc khi có nghi ngờ bệnh tiến triển.
Trong quá trình điều trị, giá trị trung bình và trung vị của nồng độ CA-125 giảm dần Cụ thể, trung vị CA-125 trước điều trị cao hơn so với sau 3 đợt, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001), trong khi không có sự khác biệt giữa trung vị CA-125 sau 3 và 6 đợt (p = 0,749) Điều này cho thấy hiệu quả đáp ứng của phác đồ điều trị cao hơn trong 3 chu kỳ đầu Theo tiêu chuẩn GCIG 2011, có 36/48 (75%) bệnh nhân đạt đáp ứng về CA-125, 8/48 (16,7%) bệnh nhân không đáp ứng - không tiến triển, và 4/48 (8,3%) bệnh nhân tiến triển về nồng độ CA-125.
4.2.1.3 Liên quan giữa đáp ứng về CA-125 và đáp ứng theo RECIST
Tỷ lệ đáp ứng theo RECIST ở nhóm bệnh nhân có đáp ứng CA-125 đạt 41,7%, trong khi nhóm không có đáp ứng CA-125 chỉ là 8,3% Sự liên quan thống kê giữa đáp ứng CA-125 và đáp ứng theo RECIST cho thấy p < 0,05, chứng tỏ tính chất quan trọng của CA-125 trong việc đánh giá hiệu quả điều trị UTBMBT Kết quả này nhất quán với nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước, khẳng định CA-125 là một xét nghiệm có độ nhạy cao.
4.2.1.4 Liên quan thời gian PFI với đáp ứng điều trị
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ đáp ứng ở nhóm bệnh nhân có PFI từ 6-12 tháng là 50%, thấp hơn so với nhóm có PFI trên 12 tháng với tỷ lệ 69,2% Tuy nhiên, sự khác biệt này không đạt ý nghĩa thống kê (p = 0,175 > 0,05).
Nghiên cứu của Sufliarsky J và CS (2008) chỉ ra rằng tỷ lệ đáp ứng với liệu pháp gemcitabine - carboplatin ở nhóm bệnh nhân UTBT tái phát có thời gian khoảng cách tái phát (PFI) ≥ 12 tháng cao hơn so với nhóm có PFI 6 tháng Các nghiên cứu khác cũng ghi nhận kết quả tương tự, nhấn mạnh tầm quan trọng của PFI trong việc dự đoán hiệu quả điều trị.
11 tháng (73,9% so với 66,7%), tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,76 > 0,05) [41] Kết quả nghiên cứu của Papadimitriou C.A và CS
(2004) trên 43 bệnh nhân thấy tỷ lệ đáp ứng ở nhóm bệnh nhân có PFI < 12 tháng thấp hơn nhóm PFI ≥ 12 tháng (27% so với 56%), khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p = 0,1 [61].
Thời gian PFI là chỉ số quan trọng trong việc đánh giá độ nhạy cảm với platinum của UTBT tái phát và tiên lượng bệnh Bệnh nhân có PFI từ 6 đến 12 tháng được coi là nhạy cảm một phần với platinum, trong khi PFI trên 12 tháng cho thấy nhạy cảm hoàn toàn Mức độ nhạy cảm với platinum cao hơn đồng nghĩa với khả năng đáp ứng tốt hơn với phác đồ hóa chất có chứa platinum Bệnh nhân có PFI dài thường có thời gian hồi phục sức khỏe sau điều trị tốt hơn và có khả năng dung nạp thuốc cũng như chịu đựng độc tính của hóa chất tốt hơn Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi không phát hiện mối liên hệ có ý nghĩa giữa PFI và tỷ lệ đáp ứng điều trị.
4.2.1.5 Liên quan giữa toàn trạng bệnh nhân và đáp ứng
Tỷ lệ đáp ứng trên nhóm bệnh nhân có chỉ số toàn trạng theo ECOG 0-1 là 66,7% cao hơn ở những bệnh nhân có toàn trạng theo ECOG = 2 là 41,7%.
Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Mặc dù không có mối liên hệ thống kê rõ ràng giữa tình trạng sức khỏe tổng quát của bệnh nhân và hiệu quả điều trị, nhưng bệnh nhân có sức khỏe tốt cho phép bác sĩ lâm sàng áp dụng liều điều trị tối ưu hơn Điều này dẫn đến hiệu quả điều trị cao hơn so với những bệnh nhân có tình trạng sức khỏe kém.
4.2.1.6 Liên quan mô bệnh học và đáp ứng
Nhóm bệnh nhân UTBM tuyến thanh dịch cho thấy tỷ lệ đáp ứng cao hơn so với nhóm bệnh nhân còn lại, với 62,9% so với 53,8% Tuy nhiên, sự khác biệt này không đạt ý nghĩa thống kê, p > 0,05.
4.2.1.7 Liên quan giữa số vị trí tái phát và đáp ứng
Số vị trí tái phát là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tiên lượng của ung thư bàng quang tái phát Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ đáp ứng ở nhóm bệnh nhân có tổn thương tái phát tại một vị trí là 71,4%, cao hơn so với nhóm bệnh nhân tái phát nhiều vị trí với tỷ lệ 51,9% Điều này cho thấy mối liên hệ giữa số lượng vị trí tổn thương và mức độ lan tràn của bệnh, tuy nhiên, sự khác biệt giữa các nhóm không đạt ý nghĩa thống kê (p = 0,168 > 0,05).
4.2.1.8 Liên quan giữa phẫu thuật lần 2 và đáp ứng
Trong nghiên cứu, nhóm bệnh nhân trải qua phẫu thuật lần 2 khi tái phát có tỷ lệ đáp ứng đạt 78,3%, cao hơn đáng kể so với 44% của nhóm không phẫu thuật lần 2 Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Phẫu thuật lần 2 trong ung thư buồng trứng tái phát nhằm mục đích loại bỏ khối u tái phát, tối đa hóa việc lấy các nhân di căn, và giảm kích thước tổn thương để tạo điều kiện thuận lợi cho hóa trị tiếp theo Khối u lớn thường có khả năng đáp ứng kém với hóa chất Mặc dù vai trò của phẫu thuật lần 2 vẫn còn gây tranh cãi, nhưng nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc phẫu thuật để loại bỏ hoàn toàn các tổn thương tái phát và di căn có thể mang lại lợi ích cho bệnh nhân.
< 0,5cm là một yếu tố tiên lượng tốt trong UTBT tái phát [70],[76],[77],[78]
4.2.2 Thời gian sống thêm bệnh không tiến triển (PFS)
Tại thời điểm kết thúc nghiên cứu, có 5/48 (10,4%) bệnh nhân không có dấu hiệu tiến triển Thời gian theo dõi trung bình là 22,9 ± 13,2 tháng, với thời gian sống không tiến triển trung bình đạt 12,2 ± 1,2 tháng và trung vị là 10 ± 1,1 tháng Tỷ lệ sống thêm không tiến triển sau 6 tháng là 77,1% và sau 12 tháng là 33,3%.