Tổng quan về thẻ tại các Ngân hàng thương m ạ i
Thẻ ngân hàng
Thẻ ngân hàng, hay còn gọi tắt là "thẻ", là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do tổ chức phát hành thẻ cung cấp Thẻ được sử dụng để thực hiện các giao dịch như gửi, nạp, rút tiền mặt, thanh toán hàng hóa và dịch vụ, cũng như sử dụng các dịch vụ khác theo các điều kiện và thỏa thuận giữa các bên.
Theo Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15/5/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, "Qui chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng" quy định rằng thẻ ngân hàng là phương tiện do tổ chức phát hành thẻ cung cấp, nhằm thực hiện các giao dịch thẻ theo các điều kiện và điều khoản đã được các bên thoả thuận.
Thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán không dùng tiền mặt, xuất phát từ phương thức giao dịch hàng hóa bán lẻ và phát triển mạnh mẽ nhờ vào ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành tài chính ngân hàng.
Thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán do tổ chức phát hành cung cấp cho khách hàng, cho phép họ thanh toán hàng hóa và dịch vụ tại các điểm chấp nhận thẻ hoặc rút tiền mặt tại máy ATM Ngoài chức năng thanh toán, thẻ còn hỗ trợ nhiều dịch vụ khác như kiểm tra tài khoản, chuyển tiền, và thanh toán hóa đơn điện, nước, bảo hiểm, điện thoại thông qua hệ thống tự phục vụ.
Thẻ ngân hàng không bao gồm các loại thẻ do nhà cung cấp hàng hóa và dịch vụ phát hành, mà chỉ được sử dụng để thanh toán cho chính tổ chức phát hành đó.
Thẻ có thể được phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ, phân loại theo phạm vi lãnh thổ hay phân loại theo công nghệ sản xuất.
❖ Nếu phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ thì ta có:
Thẻ tín dụng là loại thẻ phổ biến nhất, cho phép chủ thẻ sử dụng hạn mức tín dụng để thanh toán hàng hóa, dịch vụ, và rút tiền mặt tại các đơn vị chấp nhận thẻ Chủ thẻ có thể ứng trước một hạn mức tiêu dùng mà không cần thanh toán ngay, mà chỉ cần trả sau một kỳ hạn nhất định.
Thẻ ghi nợ là loại thẻ cho phép người dùng thực hiện giao dịch trong giới hạn số dư tài khoản thanh toán hoặc hạn mức thấu chi Người sở hữu thẻ có thể sử dụng để thanh toán hàng hóa, dịch vụ, cũng như rút hoặc ứng tiền mặt tại các điểm chấp nhận thẻ.
Thẻ trả trước là loại thẻ cho phép người dùng thực hiện giao dịch trong giới hạn số tiền đã nạp vào thẻ, tương ứng với số tiền mà họ đã thanh toán trước cho tổ chức phát hành thẻ.
Thẻ trả tr ớc bao gồm: thẻ trả tr ớc xác đ nh danh tính (thẻ trả tr ớc
❖ Nếu phân loại theo phạm vi lãnh thổ thì ta có các loại thẻ như:
- Thẻ nội địa Là thẻ được tổ chức phát hành thẻ tại Việt Nam phát hành để giao dịch trong lãnh thổ Việt Nam.
Thẻ quốc tế là loại thẻ được phát hành bởi tổ chức trong nước tại Việt Nam để thực hiện giao dịch cả trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam, hoặc là thẻ do tổ chức nước ngoài phát hành và có thể sử dụng để giao dịch trong lãnh thổ Việt Nam.
❖ Nếu phân loại theo công nghệ sản xuất thì có các loại thẻ như:
Thẻ từ (Magnetic Stripe) là loại thẻ có dải băng từ, đã được sử dụng phổ biến trong 20 năm qua Tuy nhiên, thẻ từ gặp phải một số nhược điểm như thông tin trên thẻ không được mã hóa, chỉ chứa thông tin cố định, dung lượng lưu trữ dữ liệu hạn chế và không áp dụng được các kỹ thuật mã hóa bảo mật thông tin.
Thẻ thông minh, hay Smart Card, là loại thẻ tiên tiến được sản xuất dựa trên công nghệ vi xử lý Với chip điện tử được gắn trên mặt trước, thẻ hoạt động như một máy tính nhỏ, mang lại tính năng bảo mật cao hơn so với thẻ từ truyền thống Đây là thế hệ thẻ hiện đại nhất hiện nay, khắc phục nhiều nhược điểm, đảm bảo an toàn cho cả chủ thẻ và ngân hàng.
- Thẻ lưỡng tính (Magnetic/Smart Card): Là loại thẻ có dải băng từ và
Thẻ ngân hàng bao gồm nhiều yếu tố quan trọng như tên thương hiệu và/hoặc logo, số thẻ gồm từ 16 đến 19 chữ số, 4 số đầu mã BIN được in chìm trên thẻ, cùng với tên thẻ và họ tên của chủ thẻ.
Trong bối cảnh thị trường thẻ ngày càng cạnh tranh, các tổ chức phát hành thẻ đang nỗ lực đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao chức năng, tiện ích của thẻ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.
Một số chức năng, tiện ích phổ biến của thẻ bao gồm:
- Thanh toán hàng hóa, dịch vụ
- Vấn tin số dư tài khoản
- In sao kê rút gọn
- Các chức năng tiện ích khác
Phát hành thẻ
1.1.2.1 Khái niệm phát hành thẻ
Phát hành thẻ là quá trình mà ngân hàng sử dụng thiết bị phần cứng và hệ thống phần mềm để cá thể hoá thẻ nhựa, lưu trữ thông tin của chủ thẻ Quá trình này giúp chủ thẻ thực hiện các giao dịch thanh toán như rút tiền, mua hàng, tra cứu thông tin và in sao kê.
1.1.2.2 Tổ chức phát hành thẻ
Tổ chức phát hành thẻ (TCPHT) bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tín dụng hợp tác và các tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng, tất cả đều được phép phát hành thẻ theo quy định của Ngân hàng Trung ương/Ngân hàng Nhà nước.
TCPHT cần tuân thủ quy định về việc cấp, sử dụng và quản lý mã số tổ chức phát hành thẻ, theo hướng dẫn của Tổ chức Thẻ Quốc tế và Ngân hàng Nhà nước.
1.1.2.3 Điều kiện phát hành đối với TCPHT
TCPHT phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện sau:
- Nghiệp vụ phát hành thẻ phù hợp với phạm vi, điều kiện và mục tiêu hoạt động của tổ chức phát hành thẻ;
- Tuân thủ các quy đị nh về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy định của pháp luật;
- Xây dựng quy chế, quy trình thực hiện các nghiệp vụ phát hành thẻ;
- B ảo đảm các nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng điện tử đối với nghiệp v phát hành thẻ;
- Tuân thủ các quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước về kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với nghiệp v phát hành thẻ;
- Đăng ký loại thẻ và chức năng của loại thẻ tại Ngân hàng Nhà nước trước khi phát hành;
Báo cáo đầy đủ và chính xác các thông tin, văn bản liên quan là cần thiết để chứng minh các điều kiện đảm bảo thực hiện nghiệp vụ phát hành thẻ Đồng thời, việc cung cấp thông tin thống kê cũng rất quan trọng nhằm phục vụ cho mục tiêu quản lý và giám sát của Ngân hàng Nhà nước.
Ngoài ra, đối với việc phát hành thẻ quốc tế, TCPHT còn phải đủ điều kiện hoạt động ngoại hối do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định.
1.1.2.4 Điều kiện sử dụng thẻ đối với chủ thẻ
Chủ thẻ là cá nhân hoặc tổ chức nhận thẻ từ ngân hàng phát hành, với tên in nổi trên thẻ Họ sử dụng thẻ theo các điều khoản và điều kiện mà ngân hàng quy định.
Chủ thẻ là cá nhân hoặc tổ chức có trách nhiệm ký kết thỏa thuận sử dụng thẻ với tổ chức phát hành, đồng thời cam kết thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trong thỏa thuận đó.
Chủ thẻ phụ là cá nhân được phép sử dụng thẻ theo thỏa thuận giữa chủ thẻ chính và tổ chức phát hành thẻ, đồng thời chịu trách nhiệm về việc sử dụng thẻ với chủ thẻ chính Mỗi tổ chức phát hành thẻ sẽ quy định các điều kiện sử dụng thẻ cụ thể Chủ thẻ cần đáp ứng các yêu cầu pháp lý, bao gồm có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nếu là cá nhân, hoặc là pháp nhân nếu là công ty.
Để sử dụng thẻ ghi nợ, người dùng cần có tài khoản tiền gửi thanh toán tại TCPHT Đối với chủ thẻ phụ, họ phải đáp ứng các điều kiện như có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định pháp luật, hoặc nếu từ 15 đến chưa đủ 18 tuổi, phải có sự cam kết của chủ thẻ chính về việc thực hiện các nghĩa vụ liên quan đến việc sử dụng thẻ.
1.1.2.5 Quy trình phát hành thẻ
Quy trình phát hành thẻ bao gồm 3 bước:
Để đăng ký phát hành thẻ, chủ thẻ cần cung cấp đầy đủ thông tin trong Hồ sơ đăng ký, bao gồm Giấy đề nghị phát hành thẻ, bản sao CMND hoặc Hộ chiếu, Hợp đồng sử dụng thẻ và ảnh của chủ thẻ.
Sau khi nhận hồ sơ đăng ký phát hành thẻ, Ngân hàng Phát hành (NHPH) sẽ tiến hành phê duyệt hồ sơ Quá trình này bao gồm việc kiểm tra các điều kiện sử dụng thẻ của khách hàng dựa trên hồ sơ đăng ký và xác định hạn mức tín dụng hoặc thấu chi cho chủ thẻ.
Trường hợp chấp thuận: Ký kết Hợp đồng sử dụng thẻ, giao phiếu nhận hồ s ơ kiêm giấy hẹn cho khách hàng.
Trong trường hợp từ chối phát hành thẻ, khách hàng sẽ nhận được thông báo rõ ràng nêu lý do từ chối Đồng thời, chúng tôi sẽ hướng dẫn khách hàng hoàn tất các thủ tục cần thiết nếu vẫn có nhu cầu sử dụng thẻ.
Giao dịch viên tại ngân hàng sau khi hoàn tất thủ tục phê duyệt hồ sơ giấy, sẽ tiến hành đăng ký phát hành thẻ vào hệ thống Corebank và hệ thống quản lý thẻ Dựa trên hồ sơ giấy và dữ liệu hệ thống, cán bộ kiểm soát sẽ phê duyệt đăng ký phát hành thẻ cho khách hàng.
Trung tâm Thẻ tiến hành kiểm tra tính hợp lệ của thông tin thẻ dựa trên dữ liệu Chi nhánh phát hành đã đăng ký Nhân viên tại phòng phát hành thẻ sẽ thực hiện các thao tác cần thiết trên hệ thống quản lý thẻ và máy phát hành thẻ để in thẻ cho khách hàng.
Dựa vào file dữ liệu đăng ký phát hành thẻ từ hệ thống quản lý thẻ của phòng Phát hành Thẻ, cán bộ nghiệp vụ tiến hành in thông báo mã số cá nhân (PIN) Trung tâm Thẻ sẽ gửi thẻ và mã PIN đến chi nhánh phát hành để bàn giao thẻ và mã PIN cho chủ thẻ.
Thanh toán thẻ
1.1.3.1 Khái niệm thanh toán thẻ
Thanh toán thẻ là dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thiết bị chấp nhận thẻ như ATM và EDC, cùng với hệ thống phần mềm bao gồm ngân hàng lõi, hệ thống chuyển mạch thẻ và quản lý thẻ Dịch vụ này giúp chủ thẻ thực hiện các giao dịch như rút tiền, mua sắm, tra cứu thông tin và in sao kê.
1.1.3.2 Tổ chức thanh toán thẻ
Tổ chức thanh toán thẻ (TCTTT) bao gồm ngân hàng và các tổ chức không phải ngân hàng được cấp phép cung cấp dịch vụ thanh toán thẻ Để hoạt động hợp pháp, TCTTT phải tuân thủ các quy định về an toàn tài chính, quản lý rủi ro trong ngân hàng điện tử, và thực hiện kiểm tra, kiểm soát nội bộ theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước Ngoài ra, các tổ chức này cần báo cáo đầy đủ và chính xác thông tin liên quan để chứng minh khả năng thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ, cũng như cung cấp số liệu thống kê phục vụ cho mục tiêu quản lý và giám sát của Ngân hàng Nhà nước.
1.1.3.3 Điều kiện thanh toán đối với TCTTT
Theo quy định của NHNN, TCTTT phải tuân thủ các điều kiện nhu:
- Thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ phù hợp với phạm vi và mục tiêu hoạt động của tổ chức đó;
- Tuân thủ các quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy định của pháp luật;
- B ảo đảm các nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng điện tử đối với việc thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ;
- Tuân thủ các quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nuớc về kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với việc thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ;
Báo cáo đầy đủ và chính xác các thông tin, văn bản liên quan để chứng minh các điều kiện đảm bảo thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ, đồng thời cung cấp các thông tin thống kê phục vụ mục tiêu quản lý và giám sát của Ngân hàng Nhà nước.
1.1.3.4 Các bên tham gia thanh toán thẻ
Quá trình chấp nhận thanh toán thẻ bao gồm 5 bên tham gia: TCPHT (Issuer), TCTTT (Acquirer), Chủ thẻ (Cardholder), Đơn vị chấp nhận thẻ (Merchant) và Tổ chức chuyển mạch thẻ Đơn vị chấp nhận thẻ là tổ chức hoặc cá nhân chấp nhận thanh toán hàng hóa và dịch vụ, cung cấp dịch vụ nạp, rút tiền mặt bằng thẻ Các ĐVCNT phổ biến trên thế giới bao gồm siêu thị, nhà hàng, khách sạn và trung tâm thương mại Với sự phát triển của công nghệ, hình thức ĐVCNT ngày càng đa dạng, bao gồm cả giao dịch xuất trình thẻ và không xuất trình thẻ như E-commerce, MOTO, thanh toán định kỳ và thanh toán qua mobile Tại các nước phát triển, loại hình ĐVCNT tự thanh toán cũng ngày càng trở nên phổ biến.
Chủ thẻ ngày càng ưa chuộng việc tự thao tác thanh toán mà không cần nhân viên bán hàng tại điểm chấp nhận thẻ (ĐVCNT) Sự đa dạng của các loại hình ĐVCNT mang lại nhiều tiện ích cho việc thanh toán hàng hóa và dịch vụ Tại Việt Nam, ĐVCNT chủ yếu tập trung ở những ngành có lượng khách nước ngoài cao, như cửa hàng mỹ nghệ, lưu niệm, trung tâm thương mại, nhà hàng, khách sạn và đại lý bán vé máy bay.
Tổ chức chuyển mạch thẻ nội địa tại Việt Nam có thể là Công ty Cổ phần Chuyển mạch Tài chính Quốc gia (Banknetvn) hoặc Công ty Cổ phần Smartlink Đối với thẻ quốc tế, các tổ chức chuyển mạch có thể bao gồm Visa, MasterCard, Dinner Club, JCB, và nhiều tổ chức khác.
T MasterCard VISA Electron VISA IiIfflKI tarf
Hình 1 2 Một số loại thẻ quốc tế
1.1.3.5.Quy trình chấp nhận thanh toán, bù trừ giao dịch thẻ
Quy trình chấp nhận thanh toán thẻ như được minh họ a ở hình 1.3 bao gồm 8 bước:
1) Chủ thẻ sử dụng thẻ để thanh toán hàng hoá, dịch vụ.
2) ĐVCNT quẹt thẻ qua EDC (đối với thẻ từ)/đưa thẻ vào đầu đọ c thẻ (đối với thẻ Chip), nhập số tiền giao d ch và gửi yêu cầu cấp phép giao d ch tới NHTT.
3) NHTT gửi yêu cầu cấp phép giao dị ch tới máy chủ của Banknetvn/TCTQT.
4) B anknetvn/TCTQT gửi yêu cầu cấp phép giao dịch tới NHPH.
5) NHPH trả lời cấp phép (phê duyệt hoặc từ chối cấp phép giao dịch).Trả lời cấp phép được chuyển tới B anknetvn/TCTQT.
6) Banknetvn/TCTQT chuyển trả lời cấp phép của NHPH cho NHTT.
7) NHTT chuyển trả lời cấp phép tới ĐVCNT.
8) ĐVCNT nhận trả lời cấp phép và hoàn thành giao dịch.
Hình 1 3 Quy trình chấp nhận thanh toán thẻ
Hình 1.4 thể hiện quy trình thanh toán bù trừ giao dị ch thẻ Quy trình thanh toán này bao gồm 5 bước:
1) Sau khi thực hiện giao d ịch thanh toán hàng hoá, dị ch vụ qua thẻ, ĐVCNT giao hàng cho chủ thẻ và nộp hoá đơn giao dị ch tới NHTT.
2) NHTT thanh toán cho ĐVCNT và gửi file đòi tiền giao dị ch thẻ để được thanh quyết toán
3) B anknetvn/TCTQT thực hiện thanh quyết toán cho NHTT, ghi nợNHPH và gửi thông tin giao dịch tới NHPH
4) NHPH hạch toán số tiền giao dịch mua hàng hoá, dịch vụ vào tài khoản của chủ thẻ và gửi sao kê hàng tháng cho chủ thẻ
5) Chủ thẻ nhận sao kê hàng tháng và thực hiện thanh toán cho NHPH.
Hình 1.4 Quy trình thanh toán bù trừ giao dị ch thẻ
Chu trình chấp nhận thanh toán thẻ và thanh toán bù trừ giao dịch thẻ là một quy trình khép kín, bắt đầu từ khi chủ thẻ thực hiện giao dịch cho đến khi nhận được sao kê Các bước trong chu trình này được quy định bởi các Tổ chức chuyển mạch thẻ như Banknetvn và TCTQT Các bên tham gia cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc vận hành, vì bất kỳ vi phạm nào cũng có thể dẫn đến rủi ro và tổn thất cho các bên liên quan.
Chủ thẻ có mối quan hệ trực tiếp với Ngân hàng Phát hành (NHPH) và phải tuân thủ hợp đồng sử dụng thẻ, bao gồm trách nhiệm thực hiện giao dịch đúng quy định và thanh toán số tiền phát sinh Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT) cũng có quan hệ trực tiếp với Ngân hàng Thương mại (NHTT) và phải tuân thủ hợp đồng chấp nhận thanh toán, đảm bảo quy trình chấp nhận thanh toán diễn ra đúng cách Để giảm thiểu rủi ro và tổn thất, ĐVCNT cần kiểm tra tính hợp lệ của thẻ và chủ thẻ, bao gồm việc xác minh tình trạng thẻ, đảm bảo thẻ không bị hư hỏng và kiểm tra các yếu tố bảo mật trên thẻ.
Rủi ro trong nghiệp vụ thẻ tại các Ngân hàng thương mại
Khái niệm về rủi ro
1.2.1.1 Khái niệm về rủi ro
Rủi ro là khả năng gặp phải nguy hiểm từ các tiến trình hoặc sự kiện nhất định Rủi ro có thể được phân loại thành rủi ro động và rủi ro tĩnh.
Rủi ro động là những rủi ro liên quan đến sự biến đổi liên tục, đặc biệt trong nền kinh tế Những rủi ro này có thể mang lại lợi ích nhưng cũng có thể dẫn đến tổn thất Ví dụ, sự thay đổi về thị hiếu khách hàng có thể phù hợp hoặc không với sản phẩm mà doanh nghiệp đang kinh doanh, trong khi sự thay đổi về công nghệ kỹ thuật có thể ảnh hưởng đến khả năng tài chính của doanh nghiệp.
Rủi ro tĩnh là những rủi ro mà hậu quả chỉ liên quan đến việc xảy ra tổn thất mà không có khả năng sinh lời, và không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi trong nền kinh tế Những rủi ro này thường liên quan đến các yếu tố như tài sản, con người và trách nhiệm dân sự.
1.2.1.2 Khái niệm về rủi ro trong nghiệp vụ thẻ
1.2.1.3 Phòng ngừa rủi ro trong nghiệp vụ thẻ
Phòng ngừa rủi ro trong nghiệp vụ thẻ là quá trình xác định và phân tích những nguy cơ tiềm ẩn trong việc phát hành và thanh toán thẻ Các ngân hàng thực hiện việc này bằng cách định lượng các rủi ro, từ đó áp dụng các biện pháp phù hợp nhằm hạn chế tối đa mức độ rủi ro có thể xảy ra.
Phòng ngừa rủi ro trong nghiệp vụ thẻ bao gồm hai bước chính: xác định các rủi ro tiềm ẩn trong phát hành và thanh toán thẻ, cùng với việc xây dựng biện pháp kiểm soát phù hợp Quản trị rủi ro là yếu tố quan trọng đối với ngân hàng, giúp cân nhắc giữa lợi nhuận và khả năng tổn thất Tuy nhiên, việc này rất phức tạp do ảnh hưởng của nhiều yếu tố động.
Rủi ro trong nghiệp vụ thẻ tại các Ngân hàng thương mại
1.2.2.1 Rủi ro phát hành thẻ
Rủi ro phát hành thẻ là những nguy cơ phát sinh từ quá trình phát hành thẻ, bao gồm năm loại chính: rủi ro thông tin phát hành thẻ giả mạo, rủi ro thẻ giả, rủi ro thẻ bị đánh cắp trong quá trình gửi đến chủ thẻ, rủi ro tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng và rủi ro tín dụng Những rủi ro này có thể ảnh hưởng đến sự an toàn và bảo mật của thông tin tài chính của người dùng.
Để được ngân hàng phê duyệt phát hành thẻ, chủ thẻ cần cung cấp thông tin cá nhân và tài chính như mức thu nhập và tài sản bảo đảm Tuy nhiên, việc cung cấp thông tin giả mạo có thể gây ra rủi ro lớn, dẫn đến tổn thất tín dụng cho ngân hàng khi chủ thẻ không đủ khả năng thanh toán hoặc cố tình lừa đảo để chiếm đoạt tiền.
❖ Thẻ giả: Rủi ro phát sinh khi thẻ giả được sử dụng để thanh toán.
Thẻ giả được tạo ra từ việc đánh cắp dữ liệu của thẻ thật qua nhiều phương thức khác nhau, như sao chép thông tin khi thẻ được sử dụng tại các thiết bị chấp nhận thẻ hoặc xâm nhập vào hệ thống quản lý thông tin thẻ của ngân hàng Loại tội phạm này thường liên quan đến công nghệ cao và hiểu biết sâu sắc về quy trình phát hành và thanh toán thẻ Giao dịch từ thẻ giả rất khó phát hiện và có thể được ngân hàng cấp phép chuẩn chi, chỉ được phát hiện khi khách hàng khiếu nại về các giao dịch không thực hiện Tội phạm có thể làm giả thẻ hoàn toàn, bao gồm cả hình thức và nội dung, hoặc chỉ sao chép băng từ dựa trên dữ liệu của thẻ thật.
Trong quá trình gửi thẻ và mã PIN cho khách hàng qua bưu điện, thẻ có thể bị đánh cắp, tạo điều kiện cho tội phạm lợi dụng thông tin này Các ngân hàng cần cẩn trọng khi thay đổi thông tin địa chỉ của chủ thẻ, bởi việc này có thể dẫn đến việc mất mát hàng hóa mà chủ thẻ đã thanh toán Nếu ngân hàng không xác thực thông tin trực tiếp từ chủ thẻ trước khi thực hiện thay đổi, họ sẽ phải chịu toàn bộ tổn thất phát sinh do sự sơ suất này.
Rủi ro tín dụng xảy ra khi chủ thẻ không thể thanh toán cho các giao dịch đã thực hiện, dẫn đến tình trạng không đủ khả năng thanh toán Để giảm thiểu rủi ro này, ngân hàng phát hành cần thiết lập quy trình thẩm định tín dụng chặt chẽ và chính xác Hạn mức tín dụng của thẻ tín dụng thường thấp hơn so với các khoản vay thế chấp thông thường.
1.2.2.2 Rủi ro thanh toán thẻ
Rủi ro thanh toán thẻ là những rủi ro trong hoạt động thẻ phát sinh từ nghiệp vụ thanh toán thẻ Các loại rủi ro thanh toán thẻ gồm:
Skimming và Phishing là hai hình thức đánh cắp dữ liệu thẻ phổ biến Skimming xảy ra khi tội phạm sử dụng thiết bị gọi là “Skimmer” để sao chép thông tin từ thẻ gốc tại các điểm giao dịch Sau khi thu thập dữ liệu, họ bán lại cho các tội phạm khác, những người sử dụng thông tin này để tạo ra các trang web giả mạo, trông giống như của ngân hàng thực sự Khi chủ thẻ nhận được email giả mạo và cung cấp thông tin cá nhân, tội phạm có thể nhanh chóng lợi dụng tài khoản của họ Hình thức này rất nguy hiểm vì nó lợi dụng sự tin tưởng của người dùng và có thể xảy ra chỉ trong vài giờ.
Rủi ro gian lận tại ĐVCNT xảy ra khi ĐVCNT thông đồng với tội phạm để sao chép dữ liệu thẻ của chủ thẻ trong quá trình giao dịch Tội phạm sau đó sử dụng dữ liệu bị đánh cắp để tạo thẻ giả và thực hiện giao dịch tại các ĐVCNT khác Khi NHTT/TCTQT phát hiện các ĐVCNT có hành vi gian lận này, họ sẽ được đưa vào danh sách CPP (Common Purchase Point) hoặc POC.
(Point of Compromise) để điều tra nhằm ngăn chặn gian lận tiếp tục phát sinh.
B ên cạnh đó, ĐVCNT còn gian lận trong việc cố tình tạo ra các hoá đơn giả hoặc giao d ch giả mạo.
Rủi ro khi chủ thẻ thực hiện giao dịch tại các đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT) ở những khu vực có độ rủi ro cao là điều cần lưu ý Việc xuất trình thẻ trong những tình huống này có thể dẫn đến những nguy cơ về an ninh và bảo mật thông tin cá nhân Do đó, người dùng cần thận trọng và cân nhắc kỹ trước khi thực hiện giao dịch tại những địa điểm này.
Giao dịch quẹt thẻ để thanh toán hàng hóa và dịch vụ cho chủ thẻ có mức độ rủi ro rất thấp Tuy nhiên, rủi ro có thể gia tăng trong trường hợp ngân hàng gửi thẻ và PIN qua bưu điện mà không tuân thủ quy tắc gửi trong hai phong bì tách rời vào thời điểm khác nhau Nếu thẻ và PIN bị đánh cắp trong quá trình này, ngân hàng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Rủi ro sử dụng vượt hạn mức là mối nguy hiểm đối với Ngân hàng Phát triển khi chủ thẻ lợi dụng quy định về hạn mức cấp phép Họ có thể thực hiện nhiều giao dịch dưới mức cần xin phép, dẫn đến tổng số tiền sử dụng vượt quá hạn mức được cấp một cách đáng kể.
NHPH chỉ phát hiện ra khi tổng kết các hoá đơn do NHTT cung cấp hay khi sao kê thanh toán.
Rủi ro từ việc lợi dụng tính chất và quy định sử dụng thẻ để lừa gạt ngân hàng chủ yếu xảy ra với thẻ tín dụng quốc tế Khác với giao dịch rút tiền tại ATM, giao dịch tại EDC không yêu cầu mã PIN, mà chỉ cần kiểm tra chữ ký của người sử dụng thẻ với chữ ký mẫu Chủ thẻ có thể thông đồng với người khác, giao thẻ và PIN để sử dụng ở nước ngoài, trong khi cố tình tạo chứng cứ pháp lý chứng minh sự có mặt của mình tại nhà Việc chữ ký trên hóa đơn có thể là của thẻ bị mất cắp, dẫn đến việc làm thẻ giả bằng cách dập nổi và mã hóa lại băng từ với thông tin giả mạo Chủ thẻ cũng có thể gian lận bằng cách báo mất thẻ và sau đó tiếp tục sử dụng thẻ đó.
Khi chủ thẻ thông báo thẻ bị thất lạc cho Ngân hàng Phát hành (NHPH) nhưng chưa kịp đăng ký vào danh sách thẻ cấm lưu hành, họ có thể lợi dụng tình huống này để ký hóa đơn bằng chữ ký khác so với chữ ký trên thẻ Điều này có thể dẫn đến việc chủ thẻ thoái thác trách nhiệm đối với hành vi gian lận, đặc biệt nghiêm trọng nếu họ cấu kết với ĐVCNT.
Rủi ro có thể xuất hiện tại các chi nhánh ngân hàng phát hành, chi nhánh ngân hàng thanh toán, ngân hàng đại lý và Trung tâm Thẻ trong quá trình xử lý giao dịch và thực hiện quy trình nghiệp vụ hàng ngày Mỗi nghiệp vụ trong hoạt động kinh doanh thẻ tại ngân hàng cần tuân thủ nghiêm ngặt quy trình nghiệp vụ đã đề ra, vì bất kỳ sai sót nào, dù là vô tình hay cố ý, đều có thể gây thiệt hại cho cả ngân hàng và khách hàng.
Rủi ro kỹ thuật trong hệ thống quản lý thẻ liên quan đến sự cố xử lý dữ liệu, kết nối, bảo mật cơ sở dữ liệu và an ninh Những sự cố này không chỉ ảnh hưởng đến một khách hàng hay ngân hàng mà còn tác động đến toàn bộ tổ chức thẻ trong nước và quốc tế, cũng như các khách hàng tham gia Tổn thất từ những sự cố này có thể rất lớn và khó kiểm soát Do đó, việc đảm bảo hệ thống vận hành chính xác và liên tục là yêu cầu hàng đầu đối với các thành viên trong ngành nghiệp vụ thẻ.
Trong tất cả các nguyên nhân tiềm ẩn rủi ro, nguyên nhân liên quan đến con người trong nội bộ ngân hàng là nguy hiểm nhất Mọi khâu trong nghiệp vụ thẻ đều có thể dẫn đến rủi ro nếu cán bộ lợi dụng hiểu biết và vị trí công tác để thực hiện các hành vi gian lận Những hành vi này thường được che giấu kỹ lưỡng, gây khó khăn trong việc phát hiện và có thể dẫn đến tổn thất lớn cho ngân hàng Ví dụ, vào năm 2006, tại Ngân hàng Eximbank, một cựu nhân viên đã lợi dụng chuyên môn và quan hệ để lừa đảo 60 bác sĩ tại bệnh viện 103, rút hơn 5 tỷ đồng của ngân hàng.
Các nhân tố dẫn đến rủi ro trong nghiệp vụ thẻ tại các Ngân hàng thương m ại
Nhân tố chủ quan
1.3.1.1 Nhân tố thuộc về chiến lược phát triển sản phẩm, dịch vụ của các Ngân hàng thương mại
Trong kinh doanh, việc xây dựng chiến lược là rất quan trọng để xác định mục tiêu và giải pháp thực hiện Chiến lược của các ngân hàng thương mại (NHTM) có ảnh hưởng lớn đến hoạt động thẻ và có thể dẫn đến rủi ro nếu không được hoạch định đúng cách Những quyết định sai lầm hoặc chậm trễ trong ra quyết định có thể gây ra sự phân bổ và sử dụng nguồn lực không hiệu quả, dẫn đến tổn thất Nguyên nhân của vấn đề này thường là do thiếu thông tin, không đánh giá đầy đủ các yếu tố rủi ro, hoặc do các nguyên nhân bất khả kháng khác.
Hiện nay, liên minh giữa các ngân hàng trong hoạt động thẻ đang trở nên phổ biến, với Vietcombank là ngân hàng tiên phong trong lĩnh vực này Được thành lập vào cuối năm 2003, liên minh thẻ Vietcombank đã thu hút nhiều ngân hàng thành viên, tạo ra một mạng lưới kết nối ổn định và hiệu quả Vietcombank, với hệ thống công nghệ hiện đại và kinh nghiệm dày dạn, đã đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chuyển mạch thẻ và hỗ trợ các ngân hàng thương mại cổ phần trong việc phát hành và thanh toán thẻ Để nâng cao chuyên nghiệp hóa hoạt động quản lý hệ thống chuyển mạch thẻ và phát triển các kênh thanh toán điện tử, Vietcombank cùng các ngân hàng thành viên đã quyết định thành lập một công ty mới nhằm tăng cường mối quan hệ hợp tác đa phương và mở rộng phát triển.
Cổ phần dịch vụ thẻ Smartlink, do Vietcombank làm ngân hàng đầu mối, chính thức hoạt động từ ngày 25/10/2007 Liên minh thẻ ATM mang thương hiệu VNB C (VietNam Bank Card) đã ra mắt vào ngày 28/01/2005, với sự tham gia tiên phong của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương (SaiGon Bank) và Ngân hàng TMCP Đông Á (EAB) Liên minh này kết nối hệ thống ATM/EDC trên toàn quốc và sau đó đã thu hút thêm nhiều ngân hàng TMCP khác gia nhập, trong đó có Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà Đồng.
The Mekong Delta is home to several prominent banks, including Habubank, a commercial bank focused on housing development in Hanoi, United Overseas Bank, PetroVietnam Commercial Bank, and the Commonwealth Bank of Australia, along with Dai A Commercial Bank.
Các ngân hàng Việt Nam phát hành thẻ ATM chủ yếu tham gia vào hai liên minh thẻ lớn, bao gồm liên minh thẻ qua Công ty Cổ phần Chuyển mạch Tài chính quốc gia Việt Nam (Banknetvn) và liên minh thẻ qua Công ty Cổ phần dịch vụ thẻ Smartlink.
Vào ngày 07/11/2012, Công ty Cổ phần dịch vụ thẻ Smartlink đã ký kết biên bản ghi nhớ về việc sáp nhập vào Công ty Cổ phần Chuyển mạch Tài chính quốc gia Việt Nam (Banknetvn) Ngoài Smartlink, Công ty cổ phần thẻ thông minh VINA (VNBC) cũng dự kiến sẽ hoàn tất sáp nhập vào Banknetvn trong năm 2013.
B anknetvn sẽ trở thành công ty chuyển mạch thẻ lớn nhất trên thị trường, thay thế cho hai cái tên Smartlink và VNB C Công ty này sẽ sở hữu 25% vốn từ Ngân hàng Nhà nước, đánh dấu sự tập trung trong lĩnh vực chuyển mạch thẻ tại Việt Nam.
Với việc tập trung tất cả giao dịch thẻ về một đầu mối duy nhất, Ngân hàng Nhà nước sẽ quản lý các giao dịch thanh toán thẻ liên ngân hàng một cách hiệu quả hơn Qua đó, Nhà nước cũng có thể điều hành chính sách tiền tệ tốt hơn Đối với các ngân hàng, việc kết nối với chức năng chuyển mạch duy nhất sẽ giúp tiết kiệm chi phí, thời gian và nguồn lực trong hoạt động kinh doanh thẻ.
Banknetvn thực hiện thanh quyết toán qua Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước, cho phép các ngân hàng sử dụng tài khoản tại Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước để thực hiện giao dịch Điều này giúp các ngân hàng bảo mật thông tin và tránh phân tán nguồn vốn Đối với chủ thẻ, họ sẽ được hưởng lợi từ chất lượng dịch vụ ngày càng cải thiện nhờ thời gian xử lý giao dịch nhanh chóng Ngoài ra, việc tất cả hệ thống thẻ của các ngân hàng tập trung tại một Công ty chuyển mạch duy nhất sẽ rút ngắn thời gian giải quyết khiếu nại cho khách hàng.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của thị trường thẻ, các ngân hàng thương mại (NHTM) đang tích cực hợp tác với các đối tác chiến lược để mở rộng và phát triển nghiệp vụ thẻ Điều này không chỉ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn góp phần giảm thiểu chi phí đầu tư cho phần mềm và phần cứng trong lĩnh vực thẻ.
1.3.1.2 Nhân tố thuộc về hạ tầng công nghệ của các Ngân hàng thương mại
Ngành ngân hàng hiện đại đang chuyển mình mạnh mẽ với sự phát triển của nghiệp vụ thẻ, khác biệt so với các dịch vụ truyền thống như tín dụng hay thanh toán quốc tế Các ngân hàng đã đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống phần cứng và phần mềm hiện đại, giúp nâng cao khả năng cạnh tranh Công nghệ thẻ không chỉ giúp đa dạng hóa sản phẩm mà còn gia tăng tiện ích dịch vụ, thu hút khách hàng và tạo cơ hội bán chéo giữa các sản phẩm Hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã trang bị hệ thống ngân hàng lõi hiện đại, cùng với các hệ thống chuyển mạch và quản lý thẻ tiên tiến Tuy nhiên, rủi ro vẫn tồn tại khi hệ thống có thể gặp trục trặc, gây ảnh hưởng đến việc phát hành và sử dụng thẻ Ngoài ra, vấn đề bảo mật công nghệ và dữ liệu cũng là nguyên nhân dẫn đến những rủi ro nghiêm trọng.
1.3.1.3 Nhân tố thuộc về quy trình phát hành và thanh toán thẻ
Các ngân hàng thương mại (NHTM) không chỉ thiết lập phần cứng và phần mềm cho hệ thống thẻ mà còn ban hành quy định chi tiết về quy trình phát hành và thanh toán thẻ ngay từ đầu Mục tiêu chính của các quy trình này là hướng dẫn cán bộ vận hành thực hiện các thao tác liên quan đến phát hành thẻ, thanh toán, xử lý khiếu nại, và xác định quyền hạn, trách nhiệm của các bên liên quan Tuy nhiên, việc ban hành quy trình cần phải chặt chẽ và cập nhật để tránh sơ hở có thể bị lợi dụng cho gian lận thẻ Ngoài ra, các NHTM cũng xây dựng quy định về an ninh dữ liệu thẻ, xử lý rủi ro và trích lập dự phòng rủi ro thẻ Do đó, các ngân hàng cần thường xuyên rà soát và điều chỉnh quy trình phát hành và thanh toán thẻ nhằm giảm thiểu rủi ro tiềm tàng.
1.3.1.4 Nhân tố thuộc về nhân lực của các Ngân hàng thương mại Để vận hành hệ thống thẻ một cách hiệu quả, các NHTM đều phải quan tâm đến yếu tố con người Nhân lực tham gia vào hoạt động thẻ không chỉ vận hành mà còn phải biết khai thác hệ thống do vậy phải là những ng ời có kiến thức, tư duy về công nghệ, có khả năng tiếp cận với công nghệ mới. Ngoài việc nắm bắt nghiệp vụ thẻ, cán bộ thẻ còn phải am hiểu rất nhiều nghiệp vụ khác như thanh toán, tín dụng, marketing B ên cạnh đó, do nghiệp vụ thẻ cũng có găn liền đến nhiều đối tác quốc tế như: Tổ chức thẻ quốc tế,NHPH, NHTT tại các nước trên thế giới nên phải thường xuyên nghiên cứu các tài liệu nước ngoài, trao đổi Email, điện thoại với các ngân hàng khác, do vậy, cán bộ thẻ cần phải trau dồi trình độ ngoại ngữ Như vậy, nhân lực trong lĩnh vực thẻ đòi hỏi sự có kiến thức tổng hợp, sự nhanh nhạy, linh hoạt, thích nghi với môi trường thanh toán hiện đại Rủi ro đạo đức có thể phát sinh do đạo đức nghề nghiệp của một số nhân viên ngân hàng lợi d ng sự hiểu biết nghiệp vụ, vị trí công tác để khai thác những lỗ hổng trong quy trình tác nghiệp nhằm thực hiện các hành vi gian lận, giả mạo thẻ.
Nhân tố khách quan
1.3.2.1 Nhân tố thuộc về môi trường pháp lý
Các chính sách và quy định pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh thẻ không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường thẻ mà còn tác động trực tiếp đến rủi ro trong nghiệp vụ thẻ Việc ban hành các văn bản pháp luật nhằm thiết lập và duy trì hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh thẻ là rất cần thiết Quy định càng rõ ràng và chặt chẽ, phù hợp với điều kiện thực tế, sẽ càng hạn chế rủi ro trong quá trình kinh doanh thẻ của ngân hàng Tuy nhiên, khi thị trường thẻ phát triển, số lượng chủ thẻ và doanh số sử dụng thẻ tăng lên, thì nguy cơ rủi ro tiềm ẩn cũng gia tăng Hiện nay, vẫn chưa có quy định cụ thể về xử phạt đối với các hành vi gian lận thương mại điện tử và tội phạm thẻ, dẫn đến việc các hacker chỉ bị xử phạt theo các điều luật hình sự về lừa đảo chiếm đoạt tài sản Những lỗ hổng trong khung pháp lý chính là nguyên nhân khiến tội phạm thẻ tiếp tục gia tăng.
1.3.2.2 Ý thức của người dân khi sử dụng thẻ
Mặc dù thẻ thanh toán đã xuất hiện tại Việt Nam từ những năm 90, nhưng chỉ trong vài năm gần đây mới thực sự phát triển Các ngân hàng vẫn chưa chú trọng đến việc hướng dẫn và cung cấp thông tin về thẻ cho người dân, khiến nhiều người sử dụng thẻ vẫn chưa nắm rõ kiến thức cơ bản Điều này tạo ra sự chủ quan trong việc sử dụng thẻ và bảo mật thông tin cá nhân, tạo cơ hội cho kẻ xấu thực hiện các giao dịch giả mạo Để giảm thiểu rủi ro trong nghiệp vụ thẻ, các ngân hàng cần chú trọng nâng cao kiến thức về thẻ cho người dân, vì chỉ khi người dân hiểu rõ về thẻ, nghiệp vụ thẻ mới có thể phát triển bền vững.
1.3.2.3 Sự tiến bộ của khoa học công nghệ
Hoạt động của nghiệp vụ thẻ dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, giúp nâng cao tính bảo mật và khó khăn trong việc làm giả thẻ Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, tội phạm thẻ cũng dễ dàng tiếp cận thông tin và thiết bị cần thiết để giả mạo thẻ Do đó, các thủ đoạn giả mạo ngày càng tinh vi và khó phát hiện hơn Cuộc chiến giữa việc nghiên cứu phát triển sản phẩm thẻ mới và các phương thức gian lận thẻ của tội phạm là một cuộc chiến khắc nghiệt, ảnh hưởng lớn đến rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ thẻ của ngân hàng.
1.4 Kinh nghiệm của một số nước trong việc hạn chế rủi ro trong nghiệp vụ thẻ và b ài học đối với các Ngân hàng thương m ại ViệtNam
Rủi ro trong nghiệp vụ thẻ tại các nước trên thế giới
Sự gia tăng nhanh chóng về số lượng thẻ phát hành và giá trị giao dịch đã khiến rủi ro tổn thất thẻ trở thành mối lo ngại lớn đối với các ngân hàng thương mại Hàng năm, các tổ chức thẻ quốc tế gửi báo cáo toàn cầu về tình trạng rủi ro và tổn thất thẻ đến các ngân hàng thành viên để cảnh báo về mức độ nghiêm trọng của gian lận và giả mạo thẻ Các chuyên gia đã áp dụng lý thuyết Điểm cơ bản (Basic Point) trong phân tích rủi ro, với công thức tính toán: Điểm cơ bản (BP) = Số tiền rủi ro, tổn thất thẻ/doanh số thanh toán thẻ x 10.000 Điều này giúp đánh giá mức độ rủi ro và tổn thất phát sinh, từ đó xây dựng các giải pháp hiệu quả nhằm ngăn ngừa rủi ro Rủi ro trong hoạt động phát hành thẻ của ngân hàng toàn cầu từ năm 2009-2012 được thể hiện rõ qua biểu đồ 1.1.
Biểu đồ 1.1: Rủi ro gian lận, giả mạo, giao dịch không xuất trình thẻ, thẻ b ị mất/bị đánh cắp Đ ơn vị: Điểm c ơ bản
Theo báo cáo của MasterCard trong các năm 2009-2012, xu hướng rủi ro thẻ đang gia tăng, với rủi ro từ thẻ giả dao động từ 1 đến 2 điểm Tuy nhiên, nhờ vào việc một số khu vực trên thế giới đã tích cực phát hành thẻ chip theo tiêu chuẩn EMV, số lượng tổn thất từ thẻ giả đã giảm đáng kể Việc phát hành thẻ chip giúp ngăn chặn tội phạm sao chép dữ liệu để tạo ra thẻ giả, từ đó nâng cao tính bảo mật trong giao dịch thẻ.
Kể từ năm 2009, rủi ro liên quan đến thẻ không xuất trình đã gia tăng đáng kể, với điểm gian lận tăng từ 6 lên trên 9, trong khi thẻ không xuất trình cũng tăng từ dưới 3 lên trên 4 điểm Mặc dù hạ tầng thanh toán không ngừng phát triển và các phương thức thanh toán không dùng thẻ ngày càng phổ biến, nhưng tổn thất từ giao dịch không xuất trình thẻ vẫn là một vấn đề nghiêm trọng Bảo mật dữ liệu trong các giao dịch này trở nên quan trọng, yêu cầu các ngân hàng thương mại phải đầu tư vào hệ thống bảo mật hiện đại, điều này không phải ngân hàng nào cũng có khả năng thực hiện Theo báo cáo của TCTQT MasterCard, thiệt hại trung bình cho mỗi giao dịch gian lận trong năm 2012 là 165 USD cho thẻ có tài khoản bị lợi dụng, 110 USD cho thẻ bị mất/đánh cắp, và 280 USD cho thẻ giả mạo Tổn thất chủ yếu tập trung ở các quốc gia có khả năng bảo mật thấp, đặc biệt là ở các nước Latinh Các ngân hàng phát hành thẻ cần tuân thủ nguyên tắc chuyển trách nhiệm để giảm thiểu thiệt hại, mặc dù chi phí chuyển đổi sang thẻ chip là cao, nhưng nhiều ngân hàng vẫn có kế hoạch thực hiện trong thời gian sớm nhất để phòng ngừa rủi ro.
Biểu đồ 1.2: Rủi ro tại các nước phát hành thẻ Đ ơn vị: Điểm c ơ bản
Theo báo cáo của MasterCard trong các năm 2011-2012, phân tích khu vực chấp nhận thanh toán thẻ cho thấy sự gia tăng đáng kể trong việc sử dụng thẻ thanh toán tại các điểm chấp nhận trong khu vực Biểu đồ 1.2 minh họa rõ ràng xu hướng này, phản ánh sự phát triển của hạ tầng thanh toán và thói quen tiêu dùng của người dân.
Mỹ hiện đang đối mặt với mức độ rủi ro cao nhất, tiếp theo là các quốc gia ở khu vực Latin, Canada và Châu Âu Khu vực Trung Cận Đông cũng có mức độ rủi ro đáng kể, trong khi đó khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có mức độ rủi ro thấp nhất.
Số lượng giao dịch lớn và việc thiết bị chấp nhận thanh toán thẻ chưa được nâng cấp công nghệ chip là nguyên nhân chính gây ra nhiều rủi ro liên quan đến thẻ.
Mỹ và các nước Latin hiện đang đối mặt với rủi ro an ninh thẻ thanh toán, khi 100% thẻ phát hành tại Mỹ là thẻ từ và các thiết bị chấp nhận thẻ chưa tuân theo chuẩn EMV Điều này dẫn đến nguy cơ thẻ sẽ bị chuyển dịch từ những quốc gia có công nghệ thanh toán tiên tiến sang những nơi có công nghệ thấp hơn.
Biểu đồ 1.3: Rủi ro tại các nước thanh toán thẻ Đ ơn vị: Điểm c ơ bản
Theo báo cáo của MasterCard năm 2011-2012, tổng tổn thất do thẻ VISA tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vào năm 2012 ước tính đạt 280 triệu USD, trong khi thẻ MasterCard khoảng 175 triệu USD Trước đây, tỷ lệ tổn thất thẻ chủ yếu xảy ra tại Malaysia và Thái Lan Tuy nhiên, sau khi Malaysia chuyển đổi sang thẻ chip, mức độ rủi ro thẻ đã giảm đáng kể Thái Lan, với ngành công nghiệp du lịch phát triển mạnh mẽ, có số lượng giao dịch thanh toán thẻ của khách du lịch nước ngoài rất lớn, trở thành mục tiêu hấp dẫn cho tội phạm thẻ Hạ tầng thanh toán thẻ trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương cũng đang được cải thiện.
Dương được đánh giá ở mức trung bình toàn cầu, trong khi đó, các doanh nghiệp và người tiêu dùng vẫn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc phòng ngừa rủi ro liên quan đến thẻ Hơn nữa, việc thiếu một khung pháp lý vững chắc cho các hoạt động thanh toán thẻ cũng là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tổn thất thẻ trong khu vực.
Kinh nghiệm của một số nước trong việc hạn chế rủi ro trong nghiệp vụ thẻ
Malaysia đang trở thành điểm nóng về tội phạm thẻ tín dụng do công nghệ phát hành và thanh toán thẻ còn hạn chế Với doanh số giao dịch thẻ cao, quốc gia này thu hút sự chú ý của tội phạm, dẫn đến việc hàng năm thu giữ hơn 10.000 thẻ giả và thiệt hại lên tới 26,5 triệu USD từ giao dịch gian lận Tội phạm sử dụng dữ liệu thẻ tín dụng bị đánh cắp từ các ĐVCNT ở Malaysia để tiêu thụ tại nhiều quốc gia, bao gồm Nepal, Thụy Sĩ, Mỹ, Anh và Việt Nam Sau khi thanh toán tại Malaysia, các chủ thẻ được các ngân hàng thương mại khuyến cáo nên phát hành lại thẻ để bảo vệ dữ liệu của mình.
Trong giai đoạn 2004 - 2005, Chính phủ Malaysia đã thực hiện các biện pháp can thiệp mạnh mẽ để đối phó với tội phạm thẻ, bao gồm việc áp dụng chính sách trừng phạt nghiêm khắc và xử phạt nặng các đối tượng vi phạm Họ đã phát động các chiến dịch truyền thông qua phương tiện thông tin đại chúng, phát tờ rơi tại các địa điểm công cộng và cửa khẩu, đồng thời hợp tác với các quốc gia lân cận như Thái Lan và Singapore Ngân hàng Nhà nước cùng các ngân hàng và tổ chức thẻ đã quyết liệt thay đổi công nghệ, bao gồm việc mã hóa tín hiệu truyền về ngân hàng để ngăn chặn việc trộm cắp thông tin và áp dụng tiêu chuẩn EMV cho các thiết bị EDC tại điểm chấp nhận thẻ, chuyển đổi toàn bộ thẻ ngân hàng từ thẻ từ sang thẻ chip.
Malaysia đã chuyển mình từ một quốc gia có tỷ lệ gian lận và giả mạo thẻ cao thành một điểm đến an toàn, với tỷ lệ thẻ bị đánh cắp và giả mạo giảm xuống mức rất thấp.
Australia có hơn 20 công ty tài chính, cả trong và ngoài nước, với các ngân hàng lớn có chi nhánh tại các thành phố và trung tâm khu vực Hầu hết các trung tâm thương mại đều trang bị máy rút tiền tự động (ATM), cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch rút tiền hoặc gửi tiền bất cứ lúc nào Tại các cửa hàng và siêu thị, thiết bị chấp nhận thẻ EDC giúp khách hàng thanh toán dễ dàng bằng thẻ ngân hàng Thẻ tín dụng rất phổ biến trong giao dịch mua bán, với các loại thẻ như American Express, Bankcard, Diners International, Mastercard, Visa và nhiều thẻ khác được chấp nhận rộng rãi tại các cơ sở thương mại.
Australia là một quốc gia phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực dịch vụ như du lịch và du học, đồng thời được biết đến là một trong những nơi bình yên nhất trên thế giới Hàng năm, Australia thu hút hàng ngàn doanh nhân, khách du lịch, học sinh và sinh viên từ khắp nơi trên thế giới Sự gia tăng nhanh chóng trong số lượng phát hành thẻ tín dụng tại Australia trong những năm gần đây chủ yếu là nhờ vào các chính sách ưu đãi về lãi suất và phí thường niên từ các ngân hàng địa phương.
Tại Australia, số lượng thẻ tín dụng phát hành đã vượt qua 16 triệu thẻ, dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng trong các giao dịch và rủi ro gian lận thẻ Cảnh sát Australia đã phát hiện nhiều đường dây sản xuất và phân phối thẻ tín dụng giả, trong đó có một vụ đáng chú ý liên quan đến hơn 1.200 thẻ giả được sử dụng để mua hàng hóa trị giá lên đến 6 triệu đô la Australia (AUD).
Các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Australia đã cảnh báo chủ thẻ về nguy cơ gian lận trong hoạt động thẻ và cung cấp thông tin về bảo quản, bảo mật thẻ Đồng thời, các NHTM cũng đã triển khai phát hành thẻ chip để giảm thiểu nguy cơ sao chép dữ liệu thẻ Sự phối hợp chặt chẽ giữa các NHTM trong việc phòng chống tội phạm liên quan đến nghiệp vụ thẻ đã mang lại hiệu quả cao tại Australia.
THỰC TRẠNG RỦI RO CỦA NGHIỆP VỤ THẺ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Kết quả hoạt động của nghiệp vụ thẻ tại các NHTM Việt Nam
2.1 Tổng quan về nghiệp vụ thẻ tại các NHTM Việt Nam
2.1.1 Sự ra đời của nghiệp vụ th ẻ tại các NHTM Việt Nam
Dịch vụ thanh toán thẻ ngân hàng đã được giới thiệu tại Việt Nam từ năm 1990, khởi nguồn từ Vietcombank, nhằm phục vụ nhu cầu thanh toán hàng hóa và dịch vụ của khách du lịch cùng các nhà đầu tư nước ngoài.
Do ảnh hưởng của chính sách cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam, Vietcombank đã phải tìm cách thiết lập quan hệ đại lý thanh toán thẻ thông qua các ngân hàng và công ty tài chính nước ngoài để đảm bảo hoạt động thanh toán được diễn ra thuận lợi.
Tháng 6 năm 1990, Vietcombank và Ngân hàng BFCE Singapore ký Hợp đồng đại lý thanh toán thẻ Đây là bước đi đầu tiên của thị trường thẻ Việt Nam Ngay sau đó, tháng 7/1990, Sài gòn Công thương - Ngân hàng liên doanh với một Công ty con của Tyndall Group của Anh - thành lập nên Trung tâm Thanh toán VISA tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Vào tháng 7 năm 1991, Vietcombank đã ký kết hợp đồng đại lý thanh toán thẻ tín dụng quốc tế MasterCard với Công ty thẻ MBF Malaysia Tiếp theo, vào tháng 9 năm 1991, NHNT đã ký kết hợp đồng đại lý thanh toán thẻ JCB trực tiếp với JCB International Co Ltd Nhật Bản.
Vào tháng 7/1993, Vietcombank đã khởi đầu nghiệp vụ phát hành thẻ với việc ra mắt thẻ Vietcombank Card Đến tháng 02/1994, ngân hàng này ký hợp đồng đại lý thanh toán thẻ AMEX với American Express Cùng năm, Ngân hàng Liên doanh Indovina cũng bắt đầu chấp nhận thanh toán thẻ Inter Club, trong khi các ngân hàng khác như Vietinbank và Eximbank tham gia vào thị trường thanh toán thẻ với các loại thẻ VISA và MasterCard.
Năm 1995, Vietcombank đã phát hành thí điểm thẻ Vietcombank Card và triển khai thẻ ATM tại 04 điểm giao dịch Đến năm 1996, thị trường thẻ Việt Nam trở nên sôi động với sự tham gia của nhiều ngân hàng thương mại trong nước và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài Tháng 4 năm 1996, thị trường phát hành thẻ và thanh toán thẻ Việt Nam chính thức hình thành khi NHNN cho phép 04 ngân hàng thương mại, gồm Eximbank, First Vina Bank (nay là Chohung Vina Bank), Vietcombank và ACB, trở thành thành viên của hai tổ chức tài chính quốc tế lớn là VISA và MasterCard, thực hiện phát hành thẻ nội địa và quốc tế.
B ên cạnh đó, trong lĩnh vực thanh toán thẻ có các ngân hàng khác như Vietinbank, Sài Gòn B ank, UOB , Hongbank, ANZ, v.v
Tháng 8 năm 1996, Hội các ngân hàng thanh toán thẻ Việt Nam (VBCA) đã chính thức ra đời với tôn chỉ cùng hợp tác tương trợ lẫn nhau, thống nhất ý chí và hành động đảm bảo các bên cùng có lợi để phát triển thị trường thẻ Ngân hàng Việt nam.
Năm 1997, Vietcombank và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu chính thức trở thành thành viên của TCTQT Visa Trong hai năm 1997 và 1998, cả hai ngân hàng đã giới thiệu sản phẩm thẻ tín dụng quốc tế Visa ra thị trường.
Năm 1998, thẻ Iners Club được ngân hàng liên doanh Indovina đưa vào thị trường Việt Nam, và sau đó, Vietcombank cũng trở thành ngân hàng chấp nhận thanh toán loại thẻ này.
Năm 2003, Vietcombank đã ký hợp đồng với Công ty thẻ American Express, trở thành ngân hàng duy nhất tại Việt Nam có quyền phát hành và thanh toán thẻ American Express.
Từ năm 2000, thị trường thẻ tại Việt Nam đã trải qua nhiều biến đổi tích cực với sự tham gia của hầu hết các ngân hàng thương mại và chi nhánh ngân hàng nước ngoài Nhiều sản phẩm thẻ, bao gồm cả thẻ quốc tế và nội địa, đã được giới thiệu, trong khi hệ thống ATM/EDC cũng được đầu tư mạnh mẽ để phục vụ khách hàng Khái niệm thẻ ngân hàng ngày càng trở nên quen thuộc với công chúng, tạo ra tiềm năng lớn cho ngân hàng trong việc thay đổi thói quen sử dụng tiền mặt, nâng cao dân trí và thúc đẩy sản xuất hàng hóa cũng như dịch vụ Hiện nay, mạng lưới thanh toán thẻ tại Việt Nam đã sẵn sàng chấp nhận các thẻ mang thương hiệu hàng đầu thế giới như Visa, MasterCard, American Express, JCB, Diners Club, CUP và DiscoverCard.
Từ giữa năm 2008, mạng lưới ATM tại Việt Nam đã được liên thông nhờ sự hợp tác giữa các công ty chuyển mạch thẻ như Smartlink, Banknetvn và VNB C, cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch trên ATM của các ngân hàng khác một cách dễ dàng Đồng thời, mạng lưới POS tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng đã hoàn tất kết nối và đang mở rộng ra các tỉnh thành khác, hướng tới việc thống nhất mạng lưới POS toàn quốc tương tự như mạng lưới ATM.
2.1.2 Ket qu ả ho ạt đ ộ ng của nghiệp vụ th ẻ tại các NHTM Việt Nam
2.1.2.1 Kết quả hoạt động của nghiệp vụ phát hành thẻ tại các Ngân hàng
S ố lượng thẻ phát hành luỹ kế (th ẻ)
Thẻ nội địa Thẻ quốc tế Tong cộng
Thị trường thẻ Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ nhờ nỗ lực của các tổ chức phát hành, với 48 tổ chức tham gia vào lĩnh vực này tính đến ngày 31/12/2012 Theo thống kê của Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam, tổng số lượng thẻ phát hành đạt 54,903 triệu thẻ, tăng 12,6 triệu thẻ (29,7%) so với năm 2011 và tăng 39,9 triệu thẻ so với năm 2008 Thẻ nội địa chiếm tỷ trọng lớn với 92,31%, trong khi thẻ quốc tế chỉ chiếm khoảng 7,67%.
Biểu 2.1: Tổng số thẻ phát hành tại các NHTM Việt Nam qua các năm Đơn vị: 1.000 thẻ
Theo báo cáo Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2008-2012, Vietinbank dẫn đầu thị trường thẻ với 23,1% thị phần, tương đương 12,6 triệu thẻ Agribank đứng ở vị trí thứ hai với 19,4% thị phần và hơn 10,6 triệu thẻ.
Vietcombank chiếm 13,8% thị phần (7,5 triệu thẻ), vị trí thứ tư là NHTMCP Đông Á chiếm 12,62% thị phần (6,9 triệu thẻ), BIDV đứng ở vị trí thứ năm với 8,9% thị phần (4,9 triệu thẻ), v.v
Thẻ ghi nợ nội địa là sản phẩm chủ yếu của các ngân hàng, chiếm tới 92,31% tổng số lượng thẻ phát hành trên toàn thị trường.
Thực trạng rủi ro trong nghiệp vụ phát hành thẻ
Trước năm 2002, hiện tượng lừa đảo giả mạo thẻ tại Việt Nam hầu như không tồn tại do thị trường thẻ chưa phát triển và giao dịch thanh toán bằng thẻ còn hạn chế Tuy nhiên, từ năm 2003 trở đi, theo khuyến cáo của các tổ chức thẻ quốc tế, tình hình giả mạo thẻ thông qua việc đánh cắp dữ liệu (Skimming) đã gia tăng đáng kể, bao gồm cả Việt Nam Đồng thời, việc tin tặc xâm nhập vào hệ thống xử lý dữ liệu và đường truyền để đánh cắp thông tin khách hàng cũng đã trở thành mối nguy hiểm hiện hữu trong thời gian gần đây.
Năm 2005, các tổ chức thẻ quốc tế Visa và MasterCard đã cảnh báo các ngân hàng thương mại Việt Nam về việc cần thiết phải tăng cường các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động thẻ của mình.
Việt Nam được cảnh báo sẽ trở thành "vùng trũng" cho các loại tội phạm liên quan đến thẻ quốc tế, do nền kinh tế đang phát triển và tiềm ẩn nhiều rủi ro Sự gia tăng nghiệp vụ thẻ đi kèm với sự bùng nổ của các tội phạm thẻ Các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện đang phát hành thẻ từ, dẫn đến lo ngại về rủi ro trong quá trình này Mặc dù chưa ghi nhận tình trạng đánh cắp dữ liệu thẻ tại các ngân hàng Việt Nam để làm thẻ giả ở nhiều quốc gia, nhưng thiệt hại từ thẻ giả đã xảy ra với một số ngân hàng phát hành thẻ.
Rủi ro phát hành Năm
1 Giả mạo thẻ do các NHTM
2 Giả mạo khu vực Châu Á
Năm 2012, tình hình rủi ro gian lận trong nghiệp vụ thẻ tại Việt Nam diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng mạnh mẽ, với tổng giá trị gian lận lên tới gần 6,5 triệu USD Trong đó, lĩnh vực phát hành thẻ ghi nhận gần 554.714 USD gian lận, tăng 2,79 lần so với cuối năm trước.
Năm 2008, gian lận thẻ tại Việt Nam chiếm 0,07% giá trị gian lận khu vực và 0,0044% giá trị toàn cầu, với 5,9 triệu USD gian lận trong lĩnh vực thanh toán thẻ, tăng hơn 4 lần so với năm 2010 Tỷ lệ gian lận thẻ tại Việt Nam, bao gồm thẻ Visa và Mastercard, thường xuyên cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới Đặc biệt, trong quý II/2011, tỷ lệ gian lận thẻ tại Việt Nam cao gấp gần 5 lần so với toàn cầu và 17 lần so với khu vực.
Biểu đồ 2.7: Doanh số gian lận nghiệp vụ phát hành thẻ tại các NHTM VN Đơn vị: USD
(Nguồn: B áo cáo Hội Thẻ Ngân hàng Việt Nam năm 2012)
2.2.3.1 Rủi ro phát hành thẻ tại các NHTM Việt Nam so với các khu vực
Theo thống kê từ TCTQT Visa và MasterCard, trong khi tình hình gian lận thẻ tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương không có nhiều biến động, thì gian lận thẻ quốc tế tại thị trường Việt Nam lại có xu hướng tăng đều với tỷ lệ trung bình khoảng 33% mỗi năm Đặc biệt, năm 2012 ghi nhận sự gia tăng mạnh mẽ với mức tăng 80% so với năm 2011 và 117% so với năm 2010.
B ảng 2.4: Giả mạo thẻ do các NHTM Việt Nam phát hành so với khu vực Đ ơn vị: Điểm trung bình
(Nguồn: B áo cáo của TCTQT Visa, Mastercard các năm 2009-2012)
Tại Việt Nam, tỷ lệ rủi ro phát hành thẻ ở mức trung bình 1-1,4%, cao hơn so với mức 0,069% của khu vực Châu Á Thái Bình Dương Dù tổn thất thẻ không lớn, nhưng với số lượng thẻ phát hành tăng 120-150% mỗi năm, rủi ro thẻ trở thành thách thức lớn cho thị trường thẻ non trẻ Tổn thất thẻ đã tăng trung bình trên 20% so với cùng kỳ năm trước, và sự gia tăng này rất rõ rệt qua các quý, từ 24.000 USD đến 25.000 USD trong quý I và II năm 2012, lên gần gấp đôi vào quý IV.
Tổn thất do gian lận và giả mạo thẻ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam đã gia tăng đáng kể, với nhu cầu chi tiêu và mua sắm của chủ thẻ thay đổi liên tục Trong khi đó, mức độ tổn thất thẻ tại các nước Đông Nam Á chỉ đạt trung bình 4 triệu USD, thấp hơn nhiều so với trung bình 34 triệu USD của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương Nguyên nhân một phần là do nhiều quốc gia trong khu vực đã đầu tư vào công nghệ cá thể hóa thẻ và chuyển đổi sang thẻ chip theo chuẩn EMV.
2.2.3.2 Rủi ro phát hành thẻ tại các NHTM Việt Nam theo loại rủi ro tổn thất
Biểu đồ 2.8 cho thấy rủi ro từ thẻ giả tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, với mức phát sinh 59.196 USD vào năm 2010, giảm xuống 51.566 USD năm 2011, nhưng lại tăng lên 74.418 USD vào năm 2012 Điều này chứng tỏ hiện tượng Skimming đã bắt đầu quay trở lại Việt Nam.
Rủi ro liên quan đến thẻ tín dụng đang gia tăng đáng kể trong những năm qua Cụ thể, thiệt hại do thẻ bị mất cắp đã tăng từ 58.818 USD năm 2010 lên 159.867 USD năm 2012, gần gấp ba lần Bên cạnh đó, rủi ro từ việc lợi dụng tài khoản cũng có xu hướng tăng mạnh, với thiệt hại từ 60.669 USD năm 2010 lên 98.045 USD năm 2011, và đạt 211.614 USD năm 2012, tăng hơn gấp đôi so với năm trước đó.
Biểu đồ 2.8: Rủi ro phát hành thẻ tại các NHTM VN theo loại rủi ro tổn thất Đơn vị: USD
(Nguồn: VISA Report các năm 2010-2012)
2.2.3.3 Thẻ của các NHTM Việt Nam bị gian lận
Các ngân hàng phát hành khuyến cáo chủ thẻ cần bảo quản thẻ và mã PIN cẩn thận, vì thẻ thanh toán giống như ví tiền điện tử của họ Chủ thẻ phải đảm bảo an toàn cho thẻ và không cho phép người khác sử dụng Việc bảo mật mã PIN rất quan trọng; không nên chọn mã PIN theo thông tin dễ đoán như biển số xe hay ngày sinh Tuy nhiên, theo biểu đồ phân loại rủi ro thẻ Địa bàn I tại các NHTM Việt Nam, mức độ tổn thất do gian lận thẻ vẫn còn cao.
Tỷ lệ gian lận trong nghiệp vụ phát hành thẻ tại Việt Nam tương đương với khu vực AP, nhưng đến năm 2012, gian lận tại Việt Nam tăng đột biến hơn 40% so với khu vực Đây là một dấu hiệu cảnh báo nghiêm trọng đối với ngành phát hành thẻ tại Việt Nam.
2.2.3.4 Thẻ của các NHTM Việt Nam bị giả mạo
Theo thống kê từ các ngân hàng thương mại Việt Nam, thẻ giả mạo chủ yếu xuất phát từ việc sao chép dữ liệu khi giao dịch tại ATM (skimming), dẫn đến tội phạm lợi dụng tài khoản của chủ thẻ Các ngân hàng như Vietcombank, ACB, Sacombank và Agribank ghi nhận số lượng thẻ giả mạo lớn Mặc dù một số ngân hàng đã lắp đặt thiết bị chống sao chép dữ liệu tại ATM (anti-skimming) để ngăn chặn tình trạng này, nhưng nếu chỉ một vài ngân hàng đầu tư vào công nghệ này, thì việc ngăn chặn thẻ giả mạo vẫn chưa hiệu quả.
2.2.3.5 Thẻ của các NHTM Việt Nam bị mất, đánh cắp
Tỷ lệ tổn thất từ thẻ mất và thẻ bị đánh cắp tại các ngân hàng thương mại Việt Nam đang ở mức cao Nguyên nhân chính là do chủ thẻ không thông báo kịp thời cho ngân hàng phát hành để khóa thẻ và phong tỏa tài khoản Tội phạm thường lợi dụng thẻ bị mất hoặc đánh cắp để thực hiện các giao dịch mua hàng tại các điểm chấp nhận thẻ mà không cần mã PIN, từ đó khai thác số dư và hạn mức tín dụng của thẻ Do đó, chủ thẻ phải chịu trách nhiệm về các tổn thất phát sinh từ tình huống này.
Rủi ro trong quá trình phát hành thẻ có thể dẫn đến tổn thất nghiêm trọng, do đó, các ngân hàng phát hành thẻ cần áp dụng biện pháp hạn chế rủi ro hiệu quả Việc xây dựng hệ thống quản lý rủi ro và hệ thống cảnh báo giao dịch gian lận kịp thời là rất quan trọng Hơn nữa, duy trì liên lạc thường xuyên giữa ngân hàng phát hành và chủ thẻ sẽ giúp phối hợp tốt hơn trong việc giảm thiểu rủi ro liên quan đến nghiệp vụ thẻ.
Biểu đồ 2.9: Sự thay đổi về tỷ lệ các loại hình giả mạo tại các NHTM VN
(Nguồn: VISA Report các năm 2011-2012)
2.2.3.6 Rủi ro thẻ do các NHTM Việt Nam phát hành tại các nước
B ảng 2.6: Tổn thất do thẻ b ị thất lạc phân theo địa lý Đơn vị: USD
(Nguồn: VISA Report các năm 2011-2012)
Thực trạng rủi ro trong nghiệp vụ thanh toán thẻ
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, với sự gia tăng đáng kể số lượng dự án thu hút vốn đầu tư nước ngoài Việt Nam đang trở thành một thị trường mới đầy tiềm năng cho các doanh nhân toàn cầu Ngành công nghiệp không khói, đặc biệt là du lịch, nhận được sự đầu tư và quan tâm lớn từ Chính phủ, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế Chính phủ đã triển khai gói kích cầu hàng nghìn tỷ đồng, hỗ trợ các doanh nghiệp du lịch giảm giá gói dịch vụ để thu hút khách hàng Doanh số thanh toán trong các ngành như công nghiệp, tiêu dùng và giải trí cũng tăng trưởng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, đặc biệt là thanh toán thẻ.
Lĩnh vực thanh toán thẻ tại Việt Nam đang đối mặt với nhiều rủi ro do cơ sở hạ tầng còn lạc hậu và thiết bị chấp nhận thanh toán chưa đạt tiêu chuẩn EMV An ninh bảo mật dữ liệu thẻ chưa được chú trọng đầy đủ, và nhiều đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT) vẫn chưa ý thức rõ về tầm quan trọng của việc bảo vệ thông tin khách hàng Mặc dù một số điểm bán hàng có ý thức bảo vệ dữ liệu, nhưng hiểu biết về các tiêu chuẩn quốc tế trong bảo mật thanh toán thẻ vẫn còn hạn chế.
Từ năm 2011, rủi ro gian lận trong thanh toán thẻ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam đã gia tăng đáng kể Cụ thể, tổng giá trị gian lận năm 2012 đạt gần 5,9 triệu USD, tăng 116.166 USD so với năm 2011, tương ứng với mức tăng gần 4,2 lần so với năm 2010 và hơn 6,8 lần so với năm 2008.
Biểu đồ: 2 10 Doanh số gian lận nghiệp vụ thanh toán thẻ tại các NHTM VN Đơn vị: USD
Năm 2011 đánh dấu sự bùng nổ của nạn thẻ giả thanh toán tại Việt Nam Theo báo cáo của Tiểu ban rủi ro Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam, cơ quan Công an đã phối hợp với các ngân hàng thương mại Việt Nam để ngăn chặn thành công 3 nhóm đối tượng sử dụng thẻ giả tại các điểm chấp nhận thanh toán.
Hà Nội và TP.HCM với tổng số lượng thẻ giả thu được là 350 thẻ.
Năm 2012, Bộ Công an Việt Nam đã phát hiện và bắt giữ nhiều nhóm tội phạm nước ngoài liên quan đến gian lận thẻ tín dụng Vào tháng 5, một số đối tượng người Malaysia bị bắt giữ tại Đà Nẵng khi sử dụng thẻ giả để mua hàng Đến tháng 7, C50 phối hợp với công an Hà Nội bắt giữ 3 đối tượng người Trung Quốc sử dụng thông tin thẻ tín dụng trái phép, thu hồi 1,58 tỷ đồng cùng nhiều thiết bị làm thẻ giả Tháng 8, một đối tượng người Rumani bị bắt khi rút tiền tại ATM với 285 thẻ giả và thiết bị liên quan Ngoài ra, Bộ Công an cũng đã triệt phá nhiều ổ nhóm người Việt Nam thực hiện gian lận thẻ, trong đó có vụ Lê Nguyên Thắng và đồng bọn sử dụng thiết bị chuyên dụng để lấy cắp thông tin thẻ tín dụng của công dân nước ngoài, chiếm đoạt gần 17 tỷ đồng Các vụ án khác liên quan đến Đinh Văn Long và Trần Hoàng cũng đã bị khởi tố, với tổng số tiền chiếm đoạt lên đến hàng triệu đồng.
Vụ án liên quan đến Dương Văn Bách và Nguyễn Công Cẩm cùng đồng bọn đã thực hiện hành vi trộm cắp thông tin thẻ của người nước ngoài để mua vé máy bay trực tuyến và bán lại nhằm thu lợi bất chính, gây thiệt hại khoảng 2 tỷ đồng cho các chủ thẻ Visa, Mastercard từ nhiều ngân hàng Vào ngày 26/03/2013, C50 đã phối hợp với công an thành phố để điều tra vụ việc.
Hải Phòng đang tiến hành điều tra một nhóm đối tượng người Trung Quốc kết hợp với người Việt Nam để làm giả thẻ tín dụng và thực hiện các giao dịch thanh toán khống nhằm rút tiền chia nhau Theo thông tin điều tra ban đầu, nhóm này đã thực hiện thành công nhiều giao dịch với tổng trị giá lên đến hơn 5,6 tỷ đồng Trong quá trình điều tra, cơ quan chức năng đã thu giữ nhiều thiết bị chuyên dụng như máy đọc dữ liệu thẻ, thẻ tín dụng, phôi thẻ và thông tin thẻ.
Trong những tháng đầu năm 2013, bên cạnh rủi ro gian lận thẻ giả, đã xuất hiện tình trạng nhân viên tại các đơn vị chấp nhận thẻ cố tình đánh cắp thông tin thẻ thanh toán để thực hiện giao dịch gian lận, gây thiệt hại khoảng 40 triệu đồng cho chủ thẻ Một số ngân hàng thương mại Việt Nam đã thu giữ thẻ trắng tại ATM, điều này cho thấy nguy cơ ATM Skimming có thể quay trở lại Việt Nam trong thời gian tới.
Theo thống kê của Hội Thẻ Ngân hàng Việt Nam, rủi ro gian lận trong thanh toán thẻ tại Việt Nam đã tăng mạnh vào năm 2011 nhưng có dấu hiệu giảm trong năm 2012 Giao dịch gian lận bằng thẻ giả là vấn đề nổi bật trong lĩnh vực thanh toán thẻ, đặc biệt trong năm 2011 Các đối tượng tội phạm thẻ chủ yếu nhắm đến các đơn vị chấp nhận thẻ kinh doanh mặt hàng như vàng bạc, đá quý, vận chuyển hàng không và điện tử.
2.2.4.1 Rủi ro thanh toán thẻ tại các NHTM Việt Nam so với khu vực
Xu hướng gian lận và giả mạo thẻ thanh toán đang gia tăng tại Việt Nam, khiến đất nước trở thành mục tiêu hấp dẫn cho tội phạm trong lĩnh vực dịch vụ thẻ So với các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á, tỷ lệ rủi ro tổn thất tại Việt Nam khá cao, với tỷ lệ gian lận giả mạo ghi nhận là 0,25% trong quý I năm 2012 và 0,17% trong những quý tiếp theo.
Trong năm 2012, tỷ lệ tổn thất do gian lận và giả mạo thẻ ở các ngân hàng thương mại Việt Nam có sự biến động nhẹ, với các mức 0,15% trong quý I, 0,09% trong quý II, 0,19% trong quý III và 0,17% trong quý IV So với doanh số thanh toán của các ngân hàng, tỷ lệ này cho thấy một xu hướng ổn định nhưng cần được chú ý để nâng cao tính an toàn trong giao dịch.
Theo thống kê của Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam, 80% giao dịch tranh chấp giữa NHPH và NHTT liên quan đến gian lận, giả mạo Tuy nhiên, NHTT không phải chịu trách nhiệm cho tất cả các giao dịch gian lận, giả mạo; nếu giao dịch đã được NHPH chấp thuận, rủi ro thuộc về NHPH Các TCTQT xây dựng hệ thống theo dõi toàn cầu để đánh giá mức độ rủi ro của các nước và ĐVCNT, từ đó cung cấp thông tin cảnh báo cho NHPH nhằm bảo vệ chủ thẻ Việc dự đoán mức độ giao động của giao dịch gian lận là thách thức lớn đối với các NHTM, do đó, xây dựng hệ thống quản trị rủi ro thẻ được xem là chiến lược lâu dài của các ngân hàng.
B ảng 2.8: Gian lận, giả mạo thẻ trong thanh toán thẻ tại các NHTM Việt Nam Đ ơn vị: Nghìn
4 Cửa hàng đồ lưu niệm 4.48
5 Cửa hàng quần áo đồ hiệu 7.64
7 Nhà trọ/ khách sạn/ khu nghỉ mát 11.23
8 Vận chuyển hàng không và hàng không dân dụng
11 Các tổ chức tài chính/ máy rút tiền tự động 13.91
(Nguồn: VISA Report các năm 2011-2012)
2.2.4.2 Rủi ro thanh toán thẻ tại các NHTM Việt Nam theo loại hình ĐVCNT
Tội phạm thẻ thường nhắm đến các ĐVCNT như cửa hàng điện tử, trang sức và các mặt hàng cao cấp khác như quần áo, túi xách, cùng với nhà hàng và khách sạn Những ĐVCNT này kinh doanh hàng hóa có giá trị cao, dễ dàng tiêu thụ lại trên thị trường.
Bảng 2.9: Rủi ro tổn thất thanh toán thẻ theo loại hình ĐVCNTĐơn vị: USD
1 Cty Cao su Móng Cái Quảng
6 B ảo Kim E-commerce Hà Nội 14.928 $ 164 91,02 $ 5.98%
8 Shop Le Viet LVT HCM 8.407 $ 4 2.101,86 $ 3.37%
9 CN CTy TNHH Phân phối FPT HCM 16.822$ 23 731,39 $ 1.44%
10 Gia Linh Travel Hà Nội 4.120 $ 2 2.060 $ 1.65%
Giao dịch tại ATM có mức độ rủi ro thấp hơn so với giao dịch tại ĐVCNT, vì yêu cầu nhập mã PIN để xác thực chủ thẻ, trong khi ĐVCNT chỉ xác thực qua chữ ký Mặc dù rủi ro giao dịch ATM thấp, nhiều ngân hàng thương mại tại Việt Nam vẫn gặp phải tổn thất Điển hình, vào năm 2011, Vietcombank đã ghi nhận trường hợp thẻ giả mạo tại ATM với tổng số tiền thiệt hại hơn 300 triệu đồng, nhưng ngân hàng không phải chịu tổn thất do giao dịch đã được NHPH cấp phép.
Bảng 2.10 liệt kê các ĐVCNT tại Việt Nam có rủi ro cao nhất năm 2012, chủ yếu do khách hàng nước ngoài thực hiện giao dịch bằng thẻ giả TCTQT đã cảnh báo các NHTT cần có biện pháp phòng ngừa đặc biệt đối với những ĐVCNT này Hầu hết các NHTT đã xây dựng hệ thống cảnh báo tức thời cho các giao dịch nghi ngờ, dựa trên các tiêu chí như số tiền giao dịch vượt mức theo dõi, tần suất giao dịch, và sự gia tăng đột biến về doanh số hay giá trị giao dịch Khi phát hiện giao dịch đáng ngờ, NHTT sẽ liên hệ với NHPH để xác thực thông tin chủ thẻ, nhằm giảm thiểu tổn thất cho các bên liên quan.
Kết quả đạt được
Các ngân hàng thương mại Việt Nam đã thiết lập bộ phận Quản lý Rủi ro trong các phòng thẻ hoặc trung tâm thẻ, nhằm thống kê, báo cáo và triển khai các biện pháp cảnh báo để ngăn chặn gian lận thẻ.
Các ngân hàng đã thiết lập hệ thống cảnh báo giao dịch thẻ nghi ngờ và thông báo tới NHPH, NHTT và TCTQT Họ phân loại ĐVCNT theo mức độ rủi ro để theo dõi và kiểm tra, bao gồm ĐVCNT thường và ĐVCNT có độ rủi ro cao như kinh doanh vàng, bạc, đá quý, đồng hồ, đồ hiệu, hàng điện tử, du lịch và hàng không Các tiêu chí kiểm tra cơ bản bao gồm số tiền giao dịch, tần suất giao dịch, và sự gia tăng đột biến về doanh số, số lượng giao dịch và nhiều giao dịch.
Một số ngân hàng tại Việt Nam đã phát triển hệ thống cảnh báo để phát hiện giao dịch bất thường dựa trên các tiêu chí như tần suất, số tiền và thời gian giao dịch Hệ thống này cho phép các ngân hàng theo dõi và kiểm tra hoạt động sử dụng thẻ hàng ngày, không chỉ đối với thẻ do ngân hàng phát hành mà còn cả thẻ từ các ngân hàng khác Nhờ vào những nỗ lực này, việc phát hiện và giảm thiểu rủi ro trong nghiệp vụ thẻ của các ngân hàng thương mại Việt Nam đã được cải thiện đáng kể.
Các ngân hàng thương mại Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với các cơ quan liên quan như Cơ quan công an, Cảnh sát quốc tế Interpol và các cơ quan báo chí Sự phối hợp này đã góp phần quan trọng trong việc phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động thẻ, mang lại nhiều chuyển biến tích cực.
Trong năm qua, quy trình phát hành và thanh toán thẻ tại các ngân hàng đã được thực hiện một cách chặt chẽ, đảm bảo an toàn và bảo mật cho dữ liệu khách hàng cũng như các giao dịch thẻ, tuân thủ theo các tiêu chuẩn quốc tế.
Các ngân hàng thương mại Việt Nam đã hợp tác chặt chẽ trong việc cảnh báo về gian lận và giả mạo, nhờ vào việc trao đổi thông tin giữa các ngân hàng, giúp nâng cao hiệu quả phòng chống gian lận thẻ Họ cũng thường xuyên cập nhật các chương trình phòng ngừa rủi ro từ các tổ chức tài chính quốc tế và thực hiện chúng một cách kịp thời.
Các ngân hàng thương mại Việt Nam đã bắt đầu đầu tư vào nguồn nhân lực có kinh nghiệm trong lĩnh vực thẻ, nhằm quản lý rủi ro hiệu quả Họ cũng đang xây dựng các chiến lược và giải pháp cụ thể để phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động thẻ.
Các đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT) có tỷ lệ rủi ro cao được theo dõi chặt chẽ, trong khi ngân hàng thường xuyên hỗ trợ và tổ chức các khóa đào tạo nghiệp vụ thanh toán thẻ cho giao dịch viên Bên cạnh việc trang bị kiến thức, ngân hàng còn cung cấp các công cụ phát hiện thẻ giả cho ĐVCNT.