1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) quản trị đại học tại các trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở việt nam hiện nay

85 53 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quản Trị Đại Học Tại Các Trường Đại Học Tư Thục Theo Mô Hình Công Ty Cổ Phần Ở Việt Nam Hiện Nay
Tác giả Lê Anh Vân
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Tâm
Trường học Học viện Khoa học Xã hội
Chuyên ngành Luật Kinh tế
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2020
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 85
Dung lượng 1,07 MB

Cấu trúc

  • Chương 1 (15)
    • 1.1. Khái quát về quản trị đại học trong các trường đại học tư thục (15)
      • 1.1.1. Đại học và trường đại học (15)
      • 1.1.2. Đại học và quản trị đại học (16)
      • 1.1.3. Các mô hình quản trị đại học (18)
      • 1.1.4. Trường đại học tư thục ở Việt Nam (20)
    • 1.2. Khái quát về mô hình quản trị công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam và các nước 13 1. Khái niệm công ty cổ phần (22)
      • 1.2.2. Khái niệm quản trị công ty cổ phần (23)
      • 1.2.3. Các mô hình quản trị công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam (23)
      • 1.2.4. Các mô hình quản trị công ty cổ phần theo pháp luật một số nước (24)
    • 1.3. Khái quát pháp luật về quản trị đại học và trường đại học tư thục (26)
      • 1.3.1. Pháp luật và thể chế quản trị đại học ở một số nước trên thế giới (26)
      • 1.3.2. Pháp luật và thể chế quản trị đại học ở Việt Nam trước và sau đổi mới (28)
      • 1.3.3. Lược sử pháp luật Việt Nam về trường đại học tư thục (30)
  • Chương 2 (35)
    • 2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về quản trị đại học trong các trường đại học tư thục 26 1. Có nhiều biến đổi trong trong quy định về cơ cấu tổ chức và quản trị đại học đối với trường đại học tư thục theo pháp luật Việt Nam từ trước đến nay (35)
      • 2.1.2. Nhà đầu tư là một cấp quản trị độc lập trong mô hình quản trị đại học đối với các trường đại học tư thục (36)
      • 2.1.3. Mô hình quản trị đại học trong các trường đại học tư thục có sự khác biệt trong các trường hợp trường được sở hữu bởi một hay nhiều nhà đầu tư (38)
      • 2.1.4. Hội đồng trường trong mô hình quản trị trường đại học tư thục có sự tương đồng so với hội đồng quản trị của công ty cổ phần (42)
    • 2.3. Thực tiễn thi hành pháp luật về quản trị đại học trong các trường đại học tư thục ở Việt Nam hiện nay (46)
      • 2.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội và sự tác động đến việc thi hành pháp luật về quản trị đại học (46)
      • 2.2.2. Thực tiễn quản trị đại học và quản trị đại học trong trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở Việt Nam (49)
      • 2.2.3. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về quản trị đại học trong trường đại học tư thục (59)
  • Chương 3 (67)
    • 3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về quản trị đại học trong trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở Việt Nam (67)
    • 3.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về quản trị đại học trong trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở Việt Nam (69)
    • 3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản trị đại học trong trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở Việt Nam (71)
  • KẾT LUẬN (80)

Nội dung

Khái quát về quản trị đại học trong các trường đại học tư thục

1.1.1 Đại học và trường đại học Ở Việt Nam, đại học và trường đại học là hai khái niệm khác nhau Trong văn bản “Giới thiệu luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học” phát hành ngày 11 tháng 12 năm 2018, BGDĐT nhận định “luật đã quy định rõ hệ thống cơ sở giáo dục đại học gồm đại học và trường đại học, tiện cận với thông lệ quốc tế, phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam, khắc phục một số vấn đề bất cập nhưng vẫn đảm bảo ổn định hệ thống để phát triển” Cụ thể, luật này quy định “trường đại học” là cơ sở giáo dục đại học đào tạo, nghiên cứu nhiều ngành, được cơ cấu tổ chức bao gồm các hội đồng; hiệu trưởng và các phó hiệu trưởng; các khoa, phòng chức năng, thư viện, tổ chức khoa học và công nghệ, tổ chức phục vụ đào tạo khác; các trường, phân hiệu, viện nghiên cứu, cơ sở dịch vụ, doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh và đơn vị khác (nếu có) theo nhu cầu phát triển của trường đại học (Khoản 2, điều 4 và điều 14, Luật Giáo dục đại học 2018) Trong khi đó, “đại học” là cũng cơ sở giáo dục đại học đào tạo được luật định nghĩa và cơ cấu là tương tự như “trường đại học”; điểm khác biệt cơ bản là “đại học” thì bao gồm các “trường đại học” thành viên trong cơ cấu của mình (Khoản 3, điều 4 và điều 15, Luật GDĐH 2018)

Mặc dù Luật Giáo dục Đại học 2018 đã có hiệu lực, vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều về mô hình đại học hai cấp tại Việt Nam Tại kỳ họp thứ 6 của Quốc hội khóa XIV, đại biểu Nguyễn Tuấn Anh (Long An) đã nhấn mạnh rằng mô hình này chỉ tồn tại ở Việt Nam và không có ở bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới Hiện nay, Việt Nam có năm đại học hoạt động từ trước khi Luật này được ban hành, trong đó có Đại học Quốc gia.

Hà Nội, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh cùng ba đại học vùng là Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế và Đại học Đà Nẵng là những cơ sở giáo dục quan trọng Điều này cho thấy sự phát triển và ảnh hưởng của Luật Giáo dục Đại học trong hệ thống giáo dục Việt Nam.

Luật Giáo dục Đại học 2018 đã chính thức công nhận mô hình "đại học trong đại học", phản ánh xu hướng toàn cầu trong việc hình thành các hệ thống đại học liên ngành nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển khoa học công nghệ Tại Việt Nam, hiện có năm đại học công lập được điều chỉnh bởi luật này, trong khi chưa có "đại học tư thục" chính thức, mặc dù gần 60 trường đại học tư thục đã hoạt động và một số trường đang chuyển đổi từ loại hình dân lập sang tư thục Những trường đại học tư thục này đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển của giáo dục và bảo vệ tổ quốc Luật mới cho phép tái tổ chức các khoa thành các trường, tạo điều kiện cho cả trường công và tư phát triển Do đó, nghiên cứu này sẽ tập trung vào "trường đại học tư thục" mà chưa mở rộng đến "đại học tư thục".

1.1.2 Đại học và quản trị đại học

Khái niệm "đại học" trong "quản trị đại học" có nhiều cách hiểu khác nhau tùy theo quốc gia và thời đại Xuất phát từ châu Âu Kitô giáo Trung cổ, đại học là một định chế giáo dục cao, đánh dấu sự thức tỉnh của một nền văn minh mới sau một thời gian dài thiếu vắng tri thức Đại học, hay universitas, là sự kết hợp tự nguyện giữa thầy và trò nhằm phát triển tri thức cao, với tính độc lập và tự chủ đáng kể Trong khi mô hình đại học nghiên cứu theo kiểu Humboldt từng được xem là lý tưởng, ngày nay, các trường đại học đã trở thành những thực thể đa dạng hơn.

Nhiều trường đại học hiện nay đã thay đổi mục tiêu và phương thức hoạt động, không chỉ tập trung vào đào tạo cho một thiểu số mà còn hướng đến việc huấn luyện kỹ năng cho số đông Các trường đã mở rộng ra toàn cầu, không còn giới hạn trong khuôn viên hay quốc gia, và áp dụng hình thức học trực tuyến Đại học không còn là nguồn duy nhất tạo ra và truyền đạt tri thức, đồng thời phải tìm kiếm nguồn tài chính từ nhiều nguồn khác nhau do sự giảm sút hỗ trợ từ nhà nước Khái niệm "đại học vì lợi nhuận" ngày càng được chấp nhận, đặc biệt tại các nước Đông Á Quản trị đại học trở thành một vấn đề phức tạp, bao gồm nhiều lĩnh vực như quản trị hệ thống, chiến lược, đào tạo, khoa học và công nghệ, nhân sự, tài chính và cơ sở vật chất Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về quản trị đại học, từ truyền thống đến hiện đại, chú trọng đến hiệu quả, chất lượng và con người trong quá trình quản lý.

Quản trị đại học được Nguyễn Đông Phong và Nguyễn Hữu Huy Nhựt định nghĩa là quá trình thiết lập và tổ chức các quy tắc, hệ thống để quản lý toàn bộ hoạt động của trường đại học, với trách nhiệm của nhà quản trị đối với trường, cộng đồng và người học về tính tin cậy, thích ứng và hiệu quả chi phí Phạm Thị Thanh Hải cùng các cộng sự nhấn mạnh rằng quản trị đại học liên quan đến quyền quyết định hợp pháp trong các cấu trúc quản trị và tổ chức, nhằm làm rõ lợi ích chung và nhận diện mục tiêu, đồng thời xác định giới hạn thẩm quyền trong lý luận và thực tiễn.

1.1.3 Các mô hình quản trị đại học

Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới về xu hướng toàn cầu trong quản trị đại học, hiện có bốn mô hình chính: nhà nước kiểm soát, bán tự trị, bán độc lập và độc lập Ngoài ra, mô hình quản trị đại học còn được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau Dựa trên lý thuyết hệ thống, Burton Clark đã đưa ra ba mô hình quản trị đại học: quản trị dựa vào giới khoa học hàn lâm, quản trị dựa vào nhà nước và quản trị dựa vào thị trường.

Mô hình quản trị đại học dựa vào giới khoa học nhấn mạnh tầm quan trọng của tự do học thuật trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập Một ví dụ điển hình là trường Đại học Berlin, được thành lập năm 1810 bởi giáo sư Wilhelm Von Humboldt, với mục tiêu đào tạo và nghiên cứu khoa học độc lập, không bị ảnh hưởng bởi các mục tiêu từ nhà nước hay thị trường Giới khoa học hàn lâm có quyền tự quản lý đại học, đồng thời vẫn nhận được tài trợ từ ngân sách nhà nước mà không bị điều tiết bởi chính quyền.

Mô hình quản trị đại học tại Việt Nam trước đổi mới chủ yếu dựa vào nhà nước, tương tự như các nước như Pháp, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Quốc Trong bối cảnh kinh tế được quản lý theo cơ chế tập trung và bao cấp, giáo dục đại học cũng chịu sự chi phối mạnh mẽ từ các cơ quan quản lý nhà nước, dẫn đến vai trò hạn chế của giới khoa học hàn lâm Các trường đại học hoạt động như những đơn vị phụ thuộc, chỉ thực hiện các nhiệm vụ theo mệnh lệnh từ cấp trên, với ngân sách và nguồn lực được phân bổ trực tiếp từ nhà nước.

Hình 1.1 Quản trị đại học Việt Nam trước đổi mới mang đặc thù rõ nét của mô hình quản trị đại học dựa vào nhà nước

Mô hình quản trị đại học dựa vào thị trường, hay còn gọi là mô hình quản trị tập đoàn, phổ biến tại Hoa Kỳ, Canada và Australia, nhấn mạnh nguyên tắc “thị trường tối đa, nhà nước tối thiểu” Mô hình này đề cao hiệu quả tối ưu của “bàn tay vô hình”, phản ánh quy luật kinh tế thị trường trong lĩnh vực giáo dục đại học.

Mô hình giáo dục hiện nay thường bị chỉ trích vì nguy cơ thương mại hóa, khiến bằng cấp đại học trở thành hàng hóa, sinh viên trở thành khách hàng và giảng viên biến thành nhân viên bán hàng Tại Hoa Kỳ, có nhiều lời kêu gọi cảnh giác với các biểu hiện của quản trị đại học kiểu tập đoàn để bảo vệ quyền lợi của sinh viên và giảng viên Trên thế giới, mô hình này đã được khuyến khích áp dụng tại các trường đại học công lập kém hiệu quả, đặc biệt trong bối cảnh cắt giảm ngân sách nhà nước, và hiện tượng này đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam.

Mô hình quản trị đại học Việt Nam đã trải qua những thay đổi đáng kể sau đổi mới, đặc biệt là dưới áp lực tự chủ tài chính trong bối cảnh cắt giảm ngân sách Các cơ sở giáo dục đại học đang chuyển dần từ sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước sang việc tìm kiếm nguồn tài chính từ thị trường.

1.1.4 Trường đại học tư thục ở Việt Nam

Trước năm 1975, miền Nam Việt Nam đã có sự phát triển của giáo dục đại học với nhiều trường đại học tư thục được thành lập, đóng góp vào hệ thống giáo dục trong khu vực.

Trong thập niên 1950 và 1960, nhiều viện đại học tại Việt Nam được thành lập, bắt đầu với Viện Đại học Đà Lạt vào ngày 8/8/1957, tiền thân là một chủng viện Công giáo, bao gồm 4 phân khoa: Chính trị kinh doanh, khoa học sư phạm, thần học và văn khoa Năm 1970, Viện Đại học Minh Đức do Hội Minh Trí thành lập với 5 phân khoa: Nhân văn và Nghệ thuật, Kinh thương, Y khoa, Kỹ thuật Canh nông, và Khoa học Kỹ thuật Bên cạnh đó, Viện Đại học Vạn Hạnh, thành lập vào ngày 17/10/1964 tại TP Hồ Chí Minh, có 4 phân khoa: Phật học, Giáo dục, Văn học và Khoa học Nhân văn, Khoa học Xã hội Ngoài ra, còn có Viện Đại học Hòa Hảo ở Long Xuyên và Viện Đại học Cao Đài ở Tây Ninh, cả hai đều được thành lập vào năm 1971 Các viện đại học tư thục trong giai đoạn này chủ yếu do các hội tôn giáo thành lập với sự hỗ trợ tài chính từ các nhà hảo tâm.

Khái quát về mô hình quản trị công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam và các nước 13 1 Khái niệm công ty cổ phần

Hình thức công ty cổ phần đã trở thành một phần thiết yếu của nền kinh tế, giúp các tổ chức và cá nhân huy động vốn từ nhiều nguồn để mở rộng quy mô kinh doanh Tại Việt Nam, sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra cơ hội cho các tổ chức và cá nhân tối ưu hóa khả năng sản xuất kinh doanh, dẫn đến sự phổ biến ngày càng tăng của công ty cổ phần và vai trò tích cực của nó trong nền kinh tế Pháp luật Việt Nam hiện hành đã thiết lập nhiều quy định về quản trị công ty cổ phần, cung cấp cơ sở pháp lý cho các nhà quản trị áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty.

1.2.1 Khái niệm công ty cổ phần

Công ty cổ phần, mặc dù có khái niệm khác nhau theo pháp luật các nước, đều được xem là loại hình công ty đặc trưng với sự tách bạch tài sản giữa công ty và cổ đông Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ của công ty trong giới hạn vốn góp của mình Vốn cơ bản của công ty được chia thành các cổ phần, và trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần có thể phát hành chứng khoán để huy động vốn.

Pháp luật Việt Nam và pháp luật của nhiều quốc gia khác có sự tương đồng trong việc định nghĩa khái niệm công ty cổ phần, theo quy định tại Điều 110 Luật Doanh Nghiệp.

Theo quy định trong Luật Doanh nghiệp 2014, công ty cổ phần được định nghĩa là doanh nghiệp có vốn điều lệ chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần Cổ đông của công ty có thể là tổ chức hoặc cá nhân và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp Luật này không đưa ra định nghĩa tổng quát về công ty cổ phần mà chỉ liệt kê các dấu hiệu pháp lý để nhận diện và phân biệt công ty cổ phần với các loại hình doanh nghiệp khác.

1.2.2 Khái niệm quản trị công ty cổ phần

Quản trị công ty, bao gồm cả quản trị công ty cổ phần, được hiểu theo nhiều cách khác nhau Theo Ngân hàng Thế giới, quản trị công ty là hệ thống các yếu tố pháp luật, thể chế và thông lệ quản lý giúp công ty thu hút tài chính và nhân lực hiệu quả, từ đó tạo ra giá trị kinh tế bền vững cho cổ đông, đồng thời tôn trọng quyền lợi của các bên liên quan và xã hội Những đặc điểm cơ bản của quản trị công ty bao gồm tính minh bạch trong thông tin và giám sát nội bộ, bảo đảm thực thi quyền của tất cả cổ đông, và sự độc lập của các thành viên trong hội đồng quản trị khi đưa ra quyết định.

Quản trị công ty có thể được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa hẹp và nghĩa rộng Nghĩa hẹp đề cập đến cơ chế quản lý và giám sát của chủ sở hữu đối với người quản lý công ty, nhằm đạt được các mục tiêu và định hướng của họ Trong khi đó, nghĩa rộng liên quan đến quyền lợi của nhiều bên, bao gồm chủ sở hữu, chủ nợ, nhà cung cấp, người lao động và khách hàng Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), quản trị công ty là hệ thống các cơ chế và hành vi quản lý, xác định quyền và nghĩa vụ giữa cổ đông, hội đồng quản trị, các chức danh quản lý và các bên có lợi ích liên quan, đồng thời quy định quy trình ra quyết định kinh doanh.

Quản trị công ty cổ phần, từ góc độ luật học, là hệ thống thiết chế tổ chức quản lý công ty dựa trên sự phân định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu, người quản lý và các bên có lợi ích liên quan Điều này được thực hiện thông qua các nguyên tắc và trình tự thủ tục nhằm đảm bảo hoạt động của công ty diễn ra hiệu quả nhất.

1.2.3 Các mô hình quản trị công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam

Mô hình quản trị công ty cổ phần được quy định bởi Luật doanh nghiệp 2005 và 2014, bao gồm các cơ quan chính như Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc.

Tổng giám đốc của công ty cổ phần có trên mười một cổ đông cá nhân hoặc cổ đông tổ chức sở hữu trên 50% cổ phần phải có Ban kiểm soát Cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần có thể theo hai mô hình: có hoặc không có ban kiểm soát Mô hình có ban kiểm soát cho phép phân công, phân nhiệm và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan quản lý, điều hành Đây là mô hình truyền thống, phù hợp cho các công ty cổ phần với đông đảo cổ đông Ngược lại, đối với công ty có ít cổ đông, mô hình này có thể gây cồng kềnh Trong mô hình có ban kiểm soát, Hội đồng quản trị bao gồm cả thành viên điều hành và thành viên độc lập, với ít nhất 20% là thành viên độc lập, thực hiện chức năng giám sát và kiểm soát quản lý điều hành công ty.

Hình 1.3 Mô hình quản trị công ty cổ phần có hoặc không có ban kiểm soát theo Luật doanh nghiệp 2005 và 2014

1.2.4 Các mô hình quản trị công ty cổ phần theo pháp luật một số nước Để phân loại các mô hình quản trị công ty trên thế giới, các nhà nghiên cứu thường dựa vào mục đích quản trị công ty hoặc theo cấu trúc quản trị nội bộ của công ty theo luật định Khi đó, trên thế giới hiện nay tồn tại chủ yếu hai mô hình cấu trúc quản trị nội bộ công ty cổ phần cơ bản là cấu trúc hội đồng kép hay còn gọi là hội đồng hai tầng, đa hội đồng và mô hình hội đồng đơn hay còn gọi là hội đồng một tầng Để thấy rõ các đặc trưng của từng loại mô hình quản trị công ty cổ phần

[16, tr.20-39], có thể so sánh một số mô hình quản trị công ty cổ phần trên thế giới như sau:

1.2.4.1 Mô hình quản trị CTCP điển hình cho cấu trúc một tầng ở Anh

Mô hình quản trị công ty cổ phần của Anh đại diện cho kiểu quản trị Anh-Mỹ, với sự tách biệt rõ ràng giữa quản lý và sở hữu vốn Cấu trúc quản trị nội bộ bao gồm đại hội đồng cổ đông và hội đồng giám đốc, trong đó đại hội đồng cổ đông bầu chọn từ 20 đến 30 thành viên cho hội đồng giám đốc, những người nắm giữ quyền lực lớn Đặc biệt, mô hình này không có cơ quan giám sát chuyên trách như ban kiểm soát theo quy định của luật công ty ở Việt Nam, Nhật Bản hay Đức.

1.2.4.2 Mô hình quản trị CTCP điển hình cho cấu trúc hai tầng ở Đức

Cấu trúc hội đồng kép theo luật công ty Đức có hai đặc điểm chính: (i) hệ thống quản trị và điều hành với hai hội đồng theo thứ bậc, và (ii) sự tham gia của đại diện người lao động vào hội đồng giám sát Cụ thể, cấu trúc này bao gồm đại hội đồng cổ đông, hội đồng giám sát và hội đồng quản trị, trong đó hội đồng giám sát nằm ở tầng trên Mặc dù đại hội đồng cổ đông bầu chọn thành viên hội đồng giám sát, nhưng người lao động cũng có quyền bầu chọn một tỷ lệ thành viên nhất định, tùy thuộc vào số lượng lao động của công ty Do đó, hội đồng giám sát trong cấu trúc hai tầng của Đức khác biệt với ban kiểm soát và hội đồng quản trị trong các công ty cổ phần ở Việt Nam Sự tham gia của người lao động vào quản trị công ty là một yếu tố quan trọng có thể áp dụng vào quản trị đại học.

1.2.4.3 Mô hình quản trị CTCP điển hình cho cấu trúc hỗn hợp ở Nhật Bản

Mô hình quản trị công ty cổ phần (CTCP) tại Nhật Bản không hoàn toàn tuân theo mô hình hội đồng đơn hoặc kép Cấu trúc quản trị bao gồm đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị và ban kiểm soát Khác với hội đồng giám sát trong mô hình hội đồng kép, ban kiểm soát của CTCP Nhật Bản chủ yếu tập trung vào việc giám sát các hoạt động của hội đồng quản trị mà không tham gia vào việc đưa ra các quyết định quan trọng của công ty.

Khái quát pháp luật về quản trị đại học và trường đại học tư thục

1.3.1 Pháp luật và thể chế quản trị đại học ở một số nước trên thế giới

Nghiên cứu về quản trị đại học hiện nay đã chuyển hướng tiếp cận trường đại học như một doanh nghiệp, với các phương pháp quản trị khoa học như Quản trị tinh gọn, Quản trị chất lượng tổng thể, và Balanced Scorecard được áp dụng thành công Tuy nhiên, trong các mô hình quản trị đại học truyền thống, sự hiện diện của quản lý nhà nước vẫn rất rõ ràng, đặc biệt ở các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á, nơi quyền lực nhà nước ảnh hưởng lớn đến chương trình học, nhân sự và quyết định quan trọng của trường Để thích ứng với xu hướng quản trị hiện đại, cần chuyển sang mô hình quản trị đa tầng, nơi có sự tham gia của nhiều đối tượng và chịu ảnh hưởng của cạnh tranh thị trường, thay vì sự can thiệp trực tiếp của nhà nước.

Mô hình quản trị đại học được xây dựng vào năm 2007 bao gồm năm chiều kích chính: quy định của nhà nước, tự quản của nhà trường, sự dẫn dắt từ bên ngoài, cạnh tranh trên thị trường và tự quản học thuật.

1.3.1.1 Pháp luật và thể chế quản trị đại học ở Hoa Kỳ

Theo Phạm Thị Thanh Hải và các cộng sự, quản lý các cơ sở giáo dục đại học ở Hoa Kỳ được giám sát bởi chính quyền tiểu bang theo mô hình định hướng thị trường Mô hình này dựa trên giả thiết rằng các trường đại học hoạt động hiệu quả hơn khi vận hành như các tập đoàn doanh nghiệp, đạt hiệu quả tối đa trong môi trường cạnh tranh và thị trường tự do Mặc dù hầu hết các tiểu bang cấp giấy phép cho các tổ chức giáo dục đại học mà không yêu cầu công nhận, nhưng tiêu chí cấp kinh phí của chính phủ cho các tổ chức này và sinh viên lại phụ thuộc vào sự công nhận từ các cơ cấu kiểm định.

1.3.1.2 Cơ chế quản trị đại học như doanh nghiệp ở Singapore

Singapore nổi bật với dịch vụ giáo dục hàng đầu ở Đông Nam Á và có thứ hạng cao trên toàn cầu Hệ thống các trường đại học tại đây bao gồm các trường công lập, các cơ sở của những học viện danh tiếng và các trường tư thục Đại học Quốc gia Singapore (NUS) là ví dụ tiêu biểu cho thành công của mô hình quản trị tự chủ cao, bắt đầu từ những năm 1990 và chuyển sang cơ chế hoạt động như doanh nghiệp vào năm 2006 Sự tự chủ này thể hiện qua các chính sách tăng lương, thưởng và phụ cấp, cũng như cấu trúc quản trị cho phép NUS tự quyết định chế độ đãi ngộ linh hoạt dựa trên thành tích nghiên cứu quốc tế, nhằm thu hút nhân tài hàng đầu Cấu trúc quản trị phân quyền giúp các khoa chủ động trong việc phân bổ thời gian giảng dạy, cho phép giảm tải để tập trung vào nghiên cứu khoa học cho những giảng viên xuất sắc.

1.3.1.3 Thiết chế đặc biệt về quản trị đại học theo kiểu phường hội thuần túy của một số đại học truyền thống ở Anh quốc

Đại học Oxford và đại học Cambridge, hai trường đại học lâu đời nhất của Anh quốc, là những ví dụ điển hình cho mô hình quản trị phường hội thuần túy, dựa vào giới học thuật và phù hợp với văn hóa chuyên môn Pháp luật Anh cho phép hai trường này có điều lệ hoạt động riêng và bảo vệ khỏi sự can thiệp bên ngoài Tuy nhiên, lịch sử và lợi thế lâu đời của họ, cùng với nguồn tài sản phong phú, giúp họ tách khỏi áp lực bên ngoài để theo đuổi các mục đích vô vị lợi Những đặc thù này khiến mô hình quản trị của Oxford và Cambridge không dễ dàng để áp dụng cho các trường đại học khác.

1.3.2 Pháp luật và thể chế quản trị đại học ở Việt Nam trước và sau đổi mới

Pháp luật và thể chế quản trị đại học tại Việt Nam đã có sự thay đổi rõ rệt từ sau thời kỳ đổi mới năm 1986 Trước đổi mới, quản trị đại học được thực hiện theo mô hình tập trung hành chính, với sự chỉ đạo tuyệt đối từ nhà nước, dẫn đến việc các trường đại học trở thành công lập và trực thuộc các bộ ngành Mô hình này thiếu vắng yếu tố thị trường, khiến cho quyền lực quản trị đại học bị lệch hoàn toàn về phía nhà nước, tạo nên một "trường đại học khổng lồ" do Bộ Giáo dục và Đào tạo đứng đầu.

Luật Giáo dục lần đầu tiên được ban hành năm 1998 đã có quy định rõ về

Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục là một quá trình trong đó nhà nước và nhà trường giữ vai trò chủ đạo, trong khi gia đình và xã hội cũng tham gia tích cực Mặc dù Chính phủ đã tăng cường đầu tư cho giáo dục đại học sau đổi mới, nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu bùng nổ trong lĩnh vực này Theo Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg ngày 26/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ, quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng giai đoạn 2006-2020 dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2020.

Đến cuối năm 2015, Việt Nam đã có 234 trường đại học, cho thấy mô hình tập trung hóa không còn phù hợp với hệ thống giáo dục đại học hiện nay Những hạn chế trong quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với gánh nặng ngân sách đã thúc đẩy nhà nước triển khai chính sách phát triển các trường đại học tư thục.

Mô hình quản trị trường đại học tư thục theo Quy chế tổ chức và hoạt động 2005 tương thích với hình mẫu quản trị công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2005.

Đến năm 2005, pháp luật về quản trị đại học tư thục Việt Nam đã được định hình rõ ràng thông qua Quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học tư thục, được ban hành tại Quyết định số 14/2005/QĐ-TTg ngày 17/1/2005 của Thủ tướng Chính phủ Quy chế này đã xác định rằng khu vực đại học ngoài công lập chỉ còn lại loại hình trường đại học tư thục, từ đó tạo ra một khung pháp lý đơn giản hơn cho các trường này Cụ thể, Điều 14 của Quy chế quy định về cơ cấu tổ chức Đại hội đồng cổ đông, góp phần nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý.

Hội đồng quản trị Hội đồng quản trị

Mô hình quản trị trường ĐH tư thục theo Quy chế Tổ chức Hoạt động 2005

Mô hình quản trị công ty cổ phần theo

Tổng Giám đốc và Hiệu trưởng của trường đại học tư thục bao gồm các thành phần như Hội đồng quản trị, Hiệu trưởng, các Phó Hiệu trưởng, Ban Kiểm soát, cùng với các Hội đồng, phòng, ban, khoa và bộ môn.

Quy chế tổ chức và hoạt động 14/2005/QĐ-TTg chịu ảnh hưởng từ mô hình quản trị trường đại học tư thục theo kiểu công ty cổ phần, thể hiện qua các điều khoản như Điều 15 quy định về Đại hội đồng cổ đông với quyền biểu quyết của cổ đông; Điều 16 quy định về Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý và đại diện quyền sở hữu của trường; và Điều 18 quy định về Ban Kiểm soát có từ 3 đến 5 thành viên, trong đó ít nhất một người có chuyên môn kế toán Mô hình quản trị này tương đồng với mô hình quản trị công ty cổ phần theo LDN 2005 và duy trì tính tương đồng cho đến Luật Giáo dục đại học 2012 và Điều lệ trường đại học 2014, trước khi xuất hiện những khác biệt về tên gọi trong Luật Giáo dục đại học 2018, mặc dù nội hàm vẫn giữ sự tương đồng.

1.3.3 Lược sử pháp luật Việt Nam về trường đại học tư thục

1.3.3.1 Tổng quan pháp luật Việt Nam về trường đại học tư thục và quản trị đại học trong trường đại học tư thục

Sau năm 1975, việc phát triển các trường đại học tư thục chỉ bắt đầu khi có chính sách xã hội hóa giáo dục từ Đảng và Nhà nước Năm 1988, Bộ Đại học đã ban hành Quyết định số 1687/KH-TV cho phép thí điểm mô hình đại học ngoài công lập, dẫn đến sự ra đời của trường đại học dân lập đầu tiên mang tên Trung tâm Đại học Dân lập Thăng Long.

Năm 1993, Quyết định số 240/1993/QĐ-TTg về Quy chế đại học tư thục được ban hành, quy định hình thức sở hữu tư nhân cho các trường đại học tư thục dựa vào cổ phần của các nhà đầu tư Mô hình quản trị đại học yêu cầu 2/3 thành viên Hội đồng quản trị là đại diện cho nhà đầu tư, đồng thời Hội đồng quản trị được tự chủ toàn diện về tổ chức và tài chính Tuy nhiên, không có trường đại học tư thục nào ra đời theo quy định này do văn bản được thay thế bởi quy chế 196 chỉ sau chưa đầy một năm.

Năm 1994, Bộ trưởng BGDĐT ban hành “Quy chế tạm thời Đại học dân lập” qua Quyết định số 196/TCCB, có nội dung tương tự Quyết định 240 nhưng thay từ

Khái niệm "tư thục" tương đương với "dân lập", đã dẫn đến sự ra đời của nhiều trường đại học dân lập trong giai đoạn đầu, chủ yếu tập trung tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Thực trạng pháp luật Việt Nam về quản trị đại học trong các trường đại học tư thục 26 1 Có nhiều biến đổi trong trong quy định về cơ cấu tổ chức và quản trị đại học đối với trường đại học tư thục theo pháp luật Việt Nam từ trước đến nay

2.1.1 Có nhiều biến đổi trong trong quy định về cơ cấu tổ chức và quản trị đại học đối với trường đại học tư thục theo pháp luật Việt Nam từ trước đến nay

2.1.1.1 Cơ cấu tổ chức và quản trị của trường đại học theo Điều lệ trường đại học 2003 và Quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học tư thục 2005

Năm 2003, Việt Nam chưa có luật riêng về giáo dục đại học, mà vẫn áp dụng Luật giáo dục 1998 Sau đó, giáo dục đại học được cụ thể hóa qua điều lệ trường đại học theo Quyết định số 153/2003/QĐ-TTG ngày 30/7/2003 và Quy chế tổ chức trường đại học tư thục theo Quyết định số 14/2005/QĐ-TTg ngày 17/01/2005 Cơ cấu tổ chức và quản trị của trường đại học tư thục bao gồm Hội đồng quản trị, Hiệu trưởng và các Phó Hiệu trưởng, Hội đồng khoa học và đào tạo, cùng các phòng chức năng, khoa và bộ môn Ngoài ra, còn có các tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam, và các đoàn thể xã hội.

2.1.1.2 Cơ cấu tổ chức và quản trị của trường đại học theo Luật Giáo dục đại học 2012 và Điều lệ trường đại học 2014 Đến khi Luật giáo dục đại học 2012 được thông qua và điều lệ trường đại học năm 2014 được tiếp tục ban hành trên hành lang pháp lý của Luật giáo dục đại học 2012, cơ cấu tổ chức và quản trị của trường đại học tư thục đã có một số thay đổi gồm: (1) Không còn đặt “tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam” và “các đoàn thể và tổ chức xã hội” nằm trong cơ cấu tổ chức và quản trị của trường đại học tư thục;

Trong các trường đại học tư thục, một yếu tố quan trọng đã được bổ sung là "ban kiểm soát", cho thấy xu hướng quản trị đại học đang dần chuyển mình theo mô hình công ty cổ phần hoặc công ty TNHH với nhiều thành viên.

2.1.1.3 Cơ cấu tổ chức và quản trị của trường đại học theo Luật GDĐH 2018

Luật Giáo dục Đại học 2018, có hiệu lực từ năm 2019, đã đơn giản hóa cơ cấu tổ chức và quản trị của trường đại học tư thục thành 5 nhóm Một trong những thay đổi quan trọng là việc thống nhất tên gọi cơ quan quản trị thành “hội đồng trường”, thay vì “hội đồng quản trị” như trước Điều này thể hiện nỗ lực rút ngắn khoảng cách giữa trường đại học công lập và tư thục Hơn nữa, Luật cũng không yêu cầu bắt buộc phải có ban kiểm soát trong cơ cấu quản trị, mà việc thành lập này sẽ do nhà đầu tư quyết định theo quy định tại Điểm g, Khoản 2, Điều 16a.

2.1.2 Nhà đầu tư là một cấp quản trị độc lập trong mô hình quản trị đại học đối với các trường đại học tư thục

2.1.2.1 Khái niệm nhà đầu tư

Luật Giáo dục đại học 2012 quy định rằng Hội đồng quản trị là tổ chức đại diện duy nhất cho chủ sở hữu của nhà trường, mà không xác định cơ cấu nào khác để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư Thuật ngữ “nhà đầu tư” chỉ được nhắc đến một lần trong bối cảnh quản lý tài chính của trường đại học tư thục, với quy định rằng 75% chênh lệch giữa thu và chi từ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học nếu được phân phối cho nhà đầu tư và người lao động thì phải nộp thuế theo quy định của pháp luật.

Luật Giáo dục Đại học 2018 đã xác định nhà đầu tư là một yếu tố quan trọng trong cơ cấu quản trị các trường đại học tư thục Điều 16a, một điều khoản mới, quy định rõ về vai trò của nhà đầu tư trong các cơ sở giáo dục đại học tư thục Theo đó, nhà đầu tư có thể là tổ chức hoặc cá nhân, cả trong nước lẫn nước ngoài, tham gia đầu tư để thành lập và vận hành các cơ sở giáo dục đại học tư thục không vì lợi nhuận, sử dụng nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước.

2.1.2.2 Phân loại nhà đầu tư

Theo Khoản 1, Điều 16a của Luật Giáo dục Đại học 2018, nhà đầu tư có thể là tổ chức hoặc cá nhân trong nước và nước ngoài Điều 7, Khoản 2 cũng khẳng định rằng cơ sở giáo dục đại học tư thục có thể được đầu tư bởi nhà đầu tư trong nước hoặc nước ngoài Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ này, nghiên cứu chỉ tập trung vào các trường đại học tư thục thuộc sở hữu của nhà đầu tư trong nước.

Về tư cách pháp lý của nhà đầu tư, một nhà đầu tư trong nước bao gồm tổ chức trong nước hoặc cá nhân trong nước

Theo Luật Giáo dục Đại học 2018, nhà đầu tư có thể là người sở hữu duy nhất hoặc đồng sở hữu trường đại học tư thục Khi là chủ sở hữu duy nhất, nhà đầu tư được gọi là "chủ sở hữu" Trong trường hợp có nhiều nhà đầu tư, họ sẽ cùng nhau sở hữu trường đại học tư thục.

2.1.2.3 Hội nghị nhà đầu tư

Hội nghị nhà đầu tư là sự kiện quan trọng tập hợp tất cả các nhà đầu tư của trường đại học tư thục Mặc dù Luật Giáo dục Đại học 2018 chưa đề cập chi tiết đến điều kiện, hình thức tổ chức và hoạt động của hội nghị này, nhưng luật yêu cầu các vấn đề này phải được quy định cụ thể trong quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục đại học Đặc biệt, quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học tư thục phải được thông qua bởi hội nghị nhà đầu tư, theo quy định tại Điểm đ, Khoản 2, Điều 16a của Luật GDĐH 2018.

Điểm b, Khoản 4, Điều 8, Nghị định 99 đã giải quyết vấn đề liên quan đến hội nghị nhà đầu tư bằng cách cho phép tiến hành hợp pháp khi có ít nhất 65% tổng số vốn góp tham dự Nếu lần triệu tập đầu tiên không đạt tỷ lệ này, từ lần triệu tập thứ hai trở đi, cần có ít nhất 51% tổng số vốn góp tham dự để hội nghị được tổ chức.

Hội nghị nhà đầu tư cần được ghi biên bản và thông qua ngay tại chỗ, có chữ ký của người chủ trì và thư ký Nghị quyết sẽ được thông qua khi ít nhất 65% tổng số vốn góp của các thành viên tham dự hội nghị đồng ý, thông qua biểu quyết hoặc bỏ phiếu kín.

2.1.3 Mô hình quản trị đại học trong các trường đại học tư thục có sự khác biệt trong các trường hợp trường được sở hữu bởi một hay nhiều nhà đầu tư

2.1.3.1 Trường hợp trường đại học tư thục thuộc sở hữu bởi một nhà đầu tư Đối với trường hợp một nhà đầu từ là người sở hữu duy nhất đối với trường đại học tư thục thì nhà đầu tư đó được gọi là chủ sở hữu Tên gọi khiến người ta dễ liên hệ đến trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân (Điều 184, LDN 2014), hay chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên (Khoản 1, Điều 73, LDN 2014) Sự so sánh này là hoàn toàn có căn cứ xét trên đặc điểm tỷ lệ sở hữu vốn là 100%, chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên, hay chủ sở hữu trường đại học tư thục đều có thể ra các quyết định quản trị một cách đơn phương Tuy vậy, nếu như chủ doanh nghiệp tư nhân hay chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên có quyền lực hầu như tối thượng đối với doanh nghiệp một chủ do mình làm chủ sở hữu, thì đặc điểm quản trị chủ sở hữu trường đại học tư thục có khác biệt cơ bản do quy định đặc thù của Luật Giáo dục đại học

Thực tiễn thi hành pháp luật về quản trị đại học trong các trường đại học tư thục ở Việt Nam hiện nay

2.2.1 Điều kiện kinh tế - xã hội và sự tác động đến việc thi hành pháp luật về quản trị đại học trong các trường đại học tư thục ở Việt Nam hiện nay

2.2.1.1 Về định hướng và chủ trương ủng hộ của Đảng và Nhà nước

Giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là sự phát triển của các trường đại học tư thục, đáp ứng nhu cầu học tập và cung cấp đội ngũ nhân lực cho sự phát triển của đất nước Đảng và Nhà nước Việt Nam đã khẳng định trách nhiệm phát triển giáo dục, bao gồm giáo dục đại học, là nhiệm vụ chung của toàn dân Theo Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII và Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP, Chính phủ đã thúc đẩy xã hội hóa giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao, huy động nhiều nguồn lực từ các thành phần kinh tế và xã hội Nghị quyết số 29-NQ/TW đã chỉ ra sự cần thiết phải đổi mới toàn diện giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, và hội nhập quốc tế, trong đó việc cải cách quản lý giáo dục và phát triển đội ngũ giáo viên là yếu tố then chốt Ngày 02/11/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP nhằm cải cách giáo dục đại học, với mục tiêu nâng cao chất lượng và quy mô, trong đó có 40% sinh viên học tại các cơ sở ngoài công lập.

2.2.1.2 Về cơ chế chính sách và hành lang pháp lý còn nhiều bất cập

Quản lý nhà nước về giáo dục đại học đang gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là trong chính sách phát triển các trường đại học tư thục Hệ thống văn bản pháp luật về giáo dục đại học tư thục còn thiếu sót, dẫn đến việc thành lập các trường không được khảo sát kỹ lưỡng, thiếu điều kiện đảm bảo chất lượng Cơ chế chính sách của Nhà nước chưa tạo ra sự công bằng trong phát triển các trường đại học tư thục, với các chính sách đầu tư tài chính, đất đai và phát triển đội ngũ giảng viên chưa hợp lý, không đảm bảo sự bình đẳng giữa giáo dục đại học công lập và tư thục.

Việc phát triển các trường đại học tư thục ở Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn do khung pháp lý chưa hoàn thiện Chính sách xã hội hóa giáo dục thiếu các chỉ tiêu cụ thể, dẫn đến việc thực hiện mục tiêu này trở nên khó khăn Hơn nữa, cơ chế ưu đãi hiện tại tạo ra sự bất bình đẳng giữa các trường đại học công lập và tư thục Cuối cùng, quyền tài sản tại các trường đại học tư thục vẫn chưa rõ ràng, đặc biệt là liên quan đến lợi nhuận tích lũy hàng năm và tài sản chung không chia.

2.2.1.3 Về tồn tại định kiến xã hội đối với loại hình trường đại học tư thục

Trường đại học tư thục đã được quy định từ sớm trong lịch sử pháp lý, nhưng do định kiến xã hội và tranh cãi về ngôn ngữ, đã có giai đoạn phải chuyển qua loại hình trường đại học dân lập Sau đó, Quyết định số 122/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã cho phép 19 trường đại học chuyển đổi từ dân lập sang tư thục.

Mặc dù chưa chiếm thị phần cao trong số lượng sinh viên, các trường đại học tư thục đã trở thành một mô hình phổ biến và có đóng góp quan trọng trong giáo dục Tuy nhiên, xã hội vẫn còn thiếu niềm tin vào mô hình này, coi đó là vấn đề nhức nhối hiện nay Sự thiên kiến này có phần oan uổng, bởi trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực chính thúc đẩy chất lượng phục vụ, và giáo dục đại học cũng không nằm ngoài quy luật đó Trong bối cảnh hệ thống giáo dục đại học Việt Nam chưa đủ điều kiện phát triển, các trường tư thục phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ các trường công lập, vốn có nhiều lợi thế về lịch sử và thiên kiến xã hội.

2.2.1.4 Về nền tảng kinh nghiệm và không gian phát triển của trường đại học tư thục Việt Nam

Mặc dù gặp nhiều khó khăn và thiếu công bằng, nhiều trường đại học tư thục tại Việt Nam đã phát triển cơ sở vật chất hiện đại, với một số trường đạt tiêu chuẩn quốc tế như Trường Đại học Quốc tế Miền Đông, Trường Đại học Thăng Long và Trường Đại học FPT Quy mô đào tạo của các trường này lên tới hơn 253 nghìn sinh viên, chiếm 13,16% tổng số sinh viên đại học cả nước, với đội ngũ giảng viên khoảng 20.500 người Đa số các trường đều chú trọng vào đào tạo thực hành và ứng dụng, trong đó một số trường như Trường Đại học FPT và Trường Đại học Nguyễn Tất Thành đã đạt chuẩn 3 sao về cơ sở vật chất Nhiều trường cũng đang đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng, với mức đầu tư từ 1.000 - 2.000 tỷ đồng, như Trường Đại học Quốc tế Miền Đông, Trường Đại học Công nghệ TP.HCM và Trường Đại học Văn Lang.

Hoạt động nghiên cứu khoa học tại các trường đại học tư thục đã có sự tiến bộ rõ rệt trong những năm gần đây Năm 2018, Trường Đại học Duy Tân đã đạt thứ hạng cao về số lượng bài đăng trên các tạp chí quốc tế uy tín Nhiều nhà khoa học trẻ từ Đại học Nguyễn Tất Thành và Đại học Công nghệ TP.HCM đã vinh dự nhận giải thưởng Quả cầu vàng do Bộ Khoa học và Công nghệ trao tặng, cùng với nhiều giải thưởng quốc tế khác Trường Đại học PHENIKAA cũng đã thành lập 8 nhóm nghiên cứu mạnh trong nhiều lĩnh vực, góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học tại Việt Nam.

2.2.2 Thực tiễn quản trị đại học và quản trị đại học trong trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở Việt Nam

Xu hướng quản trị hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hóa đã dẫn đến nhiều thay đổi trong quản trị đại học ở cả thế giới và Việt Nam Các cơ sở giáo dục đại học ngày càng thành lập các hội đồng trường với nhiều thành viên không thuộc giới học giả, phản ánh sự chuyển đổi vai trò của các trường Đồng thời, các trường đại học đang đối mặt với áp lực lớn để thích ứng với những thay đổi kinh tế và xã hội nhanh chóng, đặc biệt khi ngân sách tài trợ của chính phủ giảm và nhu cầu về chất lượng giáo dục đại học ngày càng tăng.

2.2.2.1 Khái quát thực tiễn quản trị đại học ở Việt Nam

Về thực trạng quản trị đại học ở Việt Nam, Nguyễn Đăng Minh cho rằng

Phương thức quản trị đại học tại Việt Nam thay đổi chậm so với yêu cầu của nền kinh tế - xã hội Trong một thời gian dài, hệ thống giáo dục đại học cần được cải cách để đáp ứng tốt hơn với những biến chuyển của thị trường và nhu cầu của người học.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, cùng với các cơ quan quản lý trường học, giữ vai trò quan trọng trong việc quản trị và đưa ra các quyết định then chốt liên quan đến giáo dục.

Nguyễn Hữu Huy Nhựt cho rằng phương pháp quản trị hiện tại tại các trường đại học không còn phù hợp với mô hình kinh tế thị trường Do đó, cần thực hiện những thay đổi nhanh chóng và toàn diện để đáp ứng yêu cầu của thị trường.

Từ năm 2007-2008 đến năm 2017-2018, số lượng trường đại học tại Việt Nam đã tăng từ 160 lên 236 trường, trong đó số trường tư thục và dân lập tăng từ 39 lên 60 Tuy nhiên, sự phân bổ các trường đại học không đồng đều, với vùng đồng bằng sông Hồng dẫn đầu về số lượng trường với 102 trường, chiếm hơn 43% tổng số trường cả nước Kế tiếp là vùng Đông Nam Bộ với 55 trường, chiếm hơn 23%, trong khi vùng Tây Nguyên chỉ có 4 trường đại học.

Quản trị đại học trong các trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần cho thấy sự đa dạng về số lượng cổ đông Chẳng hạn, Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh có tới 439 cổ đông, trong khi Trường Đại học Hoa Sen và Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn lần lượt có 88 và 79 cổ đông Ngược lại, một số trường như Trường Đại học Thành Đông, Trường Đại học Hùng Vương TP.HCM, và Trường Đại học Công nghệ Miền Đông lại chỉ có từ 03 đến 10 cổ đông Điều này phản ánh sự khác biệt trong cơ cấu sở hữu và quản lý tại các trường đại học tư thục hiện nay.

2.2.2.2 Thực tiễn quản trị đại học trong trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở Việt Nam qua một số trường hợp

Pháp luật về quản trị đại học là một lĩnh vực phức tạp, liên quan đến hệ thống quản lý, sở hữu và chiến lược của các trường, khiến việc tiếp cận thông tin trở nên khó khăn Mặc dù một số thông tin theo quy định của luật giáo dục đại học cần phải công khai, nhưng nhiều trường vẫn không cung cấp dữ liệu đầy đủ, gây cản trở cho nghiên cứu chuyên ngành luật Tác giả đã tiến hành khảo sát một số trường đại học tư thục áp dụng mô hình công ty cổ phần, bao gồm Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, Trường Đại học Thái Bình Dương và Trường Đại học Hoa Sen, nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan về quản trị đại học tại ba miền Bắc, Trung, Nam Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội đã duy trì mô hình quản trị theo hình thức công ty cổ phần từ giai đoạn dân lập cho đến nay.

Ngày đăng: 30/03/2022, 17:37

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bùi Thành Dũng (2018), Pháp luật vê thành lập và hoạt động của trường đại học tư thục theo mô hình doanh nghiệp, luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật vê thành lập và hoạt động của trường đại học tư thục theo mô hình doanh nghiệp
Tác giả: Bùi Thành Dũng
Năm: 2018
2. Bùi Thùy Loan (2013), Phác thảo bức tranh tự chủ đại học hiện nay, Tạp chí Phát triển và Hội nhập số 3 (13) 71-75 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển và Hội nhập
Tác giả: Bùi Thùy Loan
Năm: 2013
4. Chuyên mục Giáo dục (2016), Phát triển đại học ngoài công lập ở Việt Nam, Tạp chí Tia Sáng ngày 24/03/2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tia Sáng
Tác giả: Chuyên mục Giáo dục
Năm: 2016
5. Dương Quang Châu (2015), Quá trình tư nhân hóa giáo dục đại học và sự phát triển hệ thống giáo dục đại học tư thục Việt Nam, Giáo dục đại học & chuyên nghiệp, Viện giáo dục London Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quá trình tư nhân hóa giáo dục đại học và sự phát triển hệ thống giáo dục đại học tư thục Việt Nam
Tác giả: Dương Quang Châu
Năm: 2015
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết Hội nghị TWĐCS Việt Nam lần thứ hai (khóa VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị quyết Hội nghị TWĐCS Việt Nam lần thứ hai (khóa VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 1998
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2011
9. Đặng Văn Định (2019), Phân tích cơ chế chính sách phát triển giáo dục đại học tư thục Việt Nam thời kỳ 1988 – 2018, Tạp chí Giáo dục và Xã hội, Hà Nội 10. Hoàng Công Minh (2018), Tổ chức quản lý công ty cổ phần theo pháp luật ViệtNam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật, Đại học Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo dục và Xã hội", Hà Nội 10. Hoàng Công Minh (2018), "Tổ chức quản lý công ty cổ phần theo pháp luật Việt "Nam
Tác giả: Đặng Văn Định (2019), Phân tích cơ chế chính sách phát triển giáo dục đại học tư thục Việt Nam thời kỳ 1988 – 2018, Tạp chí Giáo dục và Xã hội, Hà Nội 10. Hoàng Công Minh
Năm: 2018
11. Hoàng Thị Mai (2015), Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản trị công ty cổ phần, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản trị công ty cổ phần
Tác giả: Hoàng Thị Mai
Năm: 2015
12. Hùng Trung Nguyên (2018), Cả thế giới chỉ Việt Nam có trường đại học trong đại học, Báo Lao Động, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, số ra ngày 06/11/2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cả thế giới chỉ Việt Nam có trường đại học trong đại học
Tác giả: Hùng Trung Nguyên
Năm: 2018
13. Hùng Trung Nguyên (2018), Ở Việt Nam, đại học và trường đại học là 2 khái niệm khác nhau, Báo Lao Động, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, số ra ngày 06/11/2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ở Việt Nam, đại học và trường đại học là 2 khái niệm khác nhau
Tác giả: Hùng Trung Nguyên
Năm: 2018
14. Lam Phương (2014), Vụ Đại học Hoa Sen: Các góc nhìn khác nhau, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số ngày Thứ Tư, 6/8/2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vụ Đại học Hoa Sen: Các góc nhìn khác nhau
Tác giả: Lam Phương
Năm: 2014
16. Lê Văn Hưng (2018), Quản trị CTCP theo mô hình không có ban kiểm soát theo LDN2014, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quản trị CTCP theo mô hình không có ban kiểm soát theo LDN2014
Tác giả: Lê Văn Hưng
Năm: 2018
17. Mai Đăng Khoa (2016), Đổi mới quản trị đại học theo hướng tự chủ tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đổi mới quản trị đại học theo hướng tự chủ tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN
Tác giả: Mai Đăng Khoa
Năm: 2016
18. Maurice Cozian & Alain Viandier (1998), Tổ chức công ty, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tổ chức công ty
Tác giả: Maurice Cozian & Alain Viandier
Năm: 1998
19. Nguyễn Đông Phong & Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2013), Quản trị đại học và mô hình cho trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 8 (18) tháng 01-2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển và Hội nhập
Tác giả: Nguyễn Đông Phong & Nguyễn Hữu Huy Nhựt
Năm: 2013
20. Nguyễn Đăng Minh (2018), Xây dựng mô hình quản trị đại học tinh gọn tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 34, Số 3 (2018) 1-11 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khoa học ĐHQGHN
Tác giả: Nguyễn Đăng Minh
Năm: 2018
21. Nguyễn Thị Lan Hương (2009), Một số so sánh về CTCP theo Luật cạnh tranh Nhật Bản và Luật DN Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, số 25 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khoa học ĐHQGHN
Tác giả: Nguyễn Thị Lan Hương
Năm: 2009
22. Nguyễn Thị Mai Lan (2019), Quản trị tài chính trong các trường đại học trực thuộc Bộ Công thương trong điều kiện tự chủ, luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội năm 2019 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quản trị tài chính trong các trường đại học trực thuộc Bộ Công thương trong điều kiện tự chủ
Tác giả: Nguyễn Thị Mai Lan
Năm: 2019
23. Phạm Thị Lan Phượng (2015), Dịch chuyển cơ chế quản trị GDĐH trên toàn cầu và suy ngẫm về Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số 3 (68) 25-36 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả: Phạm Thị Lan Phượng
Năm: 2015
24. Phạm Thị Thanh Hải và các cộng sự (2019), Quản trị đại học - Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam, VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 3 (2019) 32-45 Sách, tạp chí
Tiêu đề: VNU Journal of Science: Education Research
Tác giả: Phạm Thị Thanh Hải và các cộng sự
Năm: 2019

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Trong khi đó, mô hình quản trị đại học dựa vào nhà nước và biến thể của nó là quản trị kiểu nhà nước quản lý toàn diện, có thể được tìm thấy ở Pháp, Nga, Thổ  Nhĩ  Kỳ,  Trung  Quốc  và  một  số  nước - (LUẬN văn THẠC sĩ) quản trị đại học tại các trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở việt nam hiện nay
rong khi đó, mô hình quản trị đại học dựa vào nhà nước và biến thể của nó là quản trị kiểu nhà nước quản lý toàn diện, có thể được tìm thấy ở Pháp, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc và một số nước (Trang 19)
Hình 1.2. Mô hình quản trị đại học Việt Nam sau đổi mới, dưới áp lực của tự chủ tài chính trong điều kiện cắt giảm ngân sách, chuyển dần từ dựa vào nhà - (LUẬN văn THẠC sĩ) quản trị đại học tại các trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở việt nam hiện nay
Hình 1.2. Mô hình quản trị đại học Việt Nam sau đổi mới, dưới áp lực của tự chủ tài chính trong điều kiện cắt giảm ngân sách, chuyển dần từ dựa vào nhà (Trang 20)
Hình 1.3. Mô hình quản trị công ty cổ phần có hoặc không có ban kiểm soát theo Luật doanh nghiệp 2005 và 2014 - (LUẬN văn THẠC sĩ) quản trị đại học tại các trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở việt nam hiện nay
Hình 1.3. Mô hình quản trị công ty cổ phần có hoặc không có ban kiểm soát theo Luật doanh nghiệp 2005 và 2014 (Trang 24)
Hình 1.4. Mô hình quản trị trường đại học tư thục theo Quy chế tổ chức và hoạt động 2005 hầu như tương thích với hình mẫu từ mô hình quản trị công ty - (LUẬN văn THẠC sĩ) quản trị đại học tại các trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở việt nam hiện nay
Hình 1.4. Mô hình quản trị trường đại học tư thục theo Quy chế tổ chức và hoạt động 2005 hầu như tương thích với hình mẫu từ mô hình quản trị công ty (Trang 29)
chủ sở hữu mà mô hình quản trị công ty TNHH một thành viên có thể có hội đồng thành viên và thậm chí là có thể xuất hiện thêm Kiểm soát viên hoặc Ban kiểm soát - (LUẬN văn THẠC sĩ) quản trị đại học tại các trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở việt nam hiện nay
ch ủ sở hữu mà mô hình quản trị công ty TNHH một thành viên có thể có hội đồng thành viên và thậm chí là có thể xuất hiện thêm Kiểm soát viên hoặc Ban kiểm soát (Trang 39)
khác nha uở cấp quản trị nhà đầu tư của mô hình quản trị đại học trong trường đại học tư thục - (LUẬN văn THẠC sĩ) quản trị đại học tại các trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở việt nam hiện nay
kh ác nha uở cấp quản trị nhà đầu tư của mô hình quản trị đại học trong trường đại học tư thục (Trang 40)
Hình 2.3. So với hội đồng thành viên của công ty TNHH từ hai thành viên trở lên thì hội đồng trường chưa phải là một cấp quản trị cao nhất - (LUẬN văn THẠC sĩ) quản trị đại học tại các trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở việt nam hiện nay
Hình 2.3. So với hội đồng thành viên của công ty TNHH từ hai thành viên trở lên thì hội đồng trường chưa phải là một cấp quản trị cao nhất (Trang 43)
Hình 2.4. So với hội đồng quản trị của công ty cổ phần thì hội đồng trường có sự tương đồng về thẩm quyền quản trị cũng như về cơ cấu thành viên - (LUẬN văn THẠC sĩ) quản trị đại học tại các trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở việt nam hiện nay
Hình 2.4. So với hội đồng quản trị của công ty cổ phần thì hội đồng trường có sự tương đồng về thẩm quyền quản trị cũng như về cơ cấu thành viên (Trang 44)
Hình 2.5. Trường Đai học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội nhất quán quản trị theo mô hình công ty cổ phần từ thời kỳ dân lập cho đến thời kỳ tư thục - (LUẬN văn THẠC sĩ) quản trị đại học tại các trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở việt nam hiện nay
Hình 2.5. Trường Đai học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội nhất quán quản trị theo mô hình công ty cổ phần từ thời kỳ dân lập cho đến thời kỳ tư thục (Trang 52)
c) Trường Đai học Hoa Sen với cơ cấu quản trị theo mô hình công ty cổ phần một cách rõ nét trong bối cảnh khuôn khổ pháp lý về loại hình trường đại học  phi lợi nhuận chưa rõ ràng - (LUẬN văn THẠC sĩ) quản trị đại học tại các trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở việt nam hiện nay
c Trường Đai học Hoa Sen với cơ cấu quản trị theo mô hình công ty cổ phần một cách rõ nét trong bối cảnh khuôn khổ pháp lý về loại hình trường đại học phi lợi nhuận chưa rõ ràng (Trang 54)
Bảng 2.2. Lịch sử lộ trình tăng vốn điều lệ và chia tài sản tích lũy cho cổ đông thông qua phát hành thêm cổ phiếu thưởng tại Trường Đai học Hoa Sen - (LUẬN văn THẠC sĩ) quản trị đại học tại các trường đại học tư thục theo mô hình công ty cổ phần ở việt nam hiện nay
Bảng 2.2. Lịch sử lộ trình tăng vốn điều lệ và chia tài sản tích lũy cho cổ đông thông qua phát hành thêm cổ phiếu thưởng tại Trường Đai học Hoa Sen (Trang 56)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w