1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

TIỂU LUẬN CUỐI kì đặc điểm NGÔN NGỮ TRONG bài CHÒI QUẢNG NAM

31 21 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đặc Điểm Ngôn Ngữ Trong Bài Chòi Quảng Nam
Tác giả Nguyễn Thanh Khang
Người hướng dẫn TS. Tăng Thị Tuyết Mai
Trường học Trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Phong cách học tiếng Việt
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2021
Thành phố Quảng Nam
Định dạng
Số trang 31
Dung lượng 33,64 KB

Cấu trúc

  • 1. Lí do chọn đề tài

  • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

  • 4. Phương pháp nghiên cứu

  • 5. Kết cấu của đề tài

  • 1. Khái quát chung

  • 1.1. Sơ nét về bài chòi Quảng Nam

  • 1.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật

  • 1.3. Chức năng ngôn ngữ trong bài chòi

  • 2. Đặc điểm ngôn ngữ trong bài chòi

  • 2.1. về phương diện từ vựng

  • 2.1.1. Các lớp từ vựng

  • - Từ toàn dân

  • 2.1.2. Các cụm ngữ cố định

  • 2.2. về phương diện ngữ âm

  • 3. Giá trị ngôn ngữ trong bài chòi

  • 3.1. Giá trị giải trí

  • 3.2. Giá trị giáo dục

Nội dung

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Bài chòi là một thể loại nghệ thuật truyền thống, nhưng nghiên cứu về ngôn ngữ trong lời ca bài chòi, đặc biệt là ở Quảng Nam, vẫn còn hạn chế Các công trình hiện có chủ yếu mang tính chất sưu tầm và hệ thống hóa các tác phẩm bài chòi qua các giai đoạn lịch sử Để tìm hiểu sâu hơn về đề tài này, tôi đã khảo sát các tài liệu như cuốn "Bài chòi xứ Quảng" của Đinh Thị Hựu và Trương Đình Quang, cùng với cuốn "Bài chòi và dân ca Liên khu 5" của Hoàng Chương và Nguyễn Có.

Nhiều nghiên cứu đã mở rộng phạm vi tìm hiểu về nguồn gốc, lịch sử và bảo tồn nghệ thuật bài chòi, chủ yếu tập trung vào vùng Phú Yên và Bình Định Một số công trình phân tích nghệ thuật bài chòi qua cách chơi và các làn điệu cơ bản, cũng như mối liên hệ giữa bài chòi và ca dao dân ca Tuy nhiên, số lượng nghiên cứu về đặc trưng ngôn ngữ bài chòi ở Quảng Nam vẫn còn hạn chế.

3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Bài viết này tập trung vào việc phân tích đặc điểm ngôn ngữ trong bài chòi Quảng Nam, một hình thức nghệ thuật dân gian độc đáo của vùng đất này Qua lăng kính ngôn ngữ, nghiên cứu sẽ làm rõ các yếu tố ngữ nghĩa, ngữ âm và cấu trúc ngôn ngữ trong bài chòi, từ đó khẳng định giá trị văn hóa và nghệ thuật của hình thức giải trí truyền thống này.

Trong bài tiểu luận này, tôi sẽ nghiên cứu các vấn đề ngôn ngữ trong bài chòi, tập trung vào ngữ âm, từ vựng lời ca và giá trị của ngôn ngữ bài chòi trong đời sống.

Phương pháp nghiên cứu

Trong bài tiểu luận này, tôi áp dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm khảo sát và thống kê để thu thập tài liệu, phân tích dữ liệu để làm rõ các vấn đề cần thiết, và tổng hợp thông tin nhằm đưa ra kết luận rõ ràng.

Kết cấu của đề tài

Phần 2: Đặc điểm ngôn ngữ trong bài chòi

Phần 3: Giá trị ngôn ngữ trong bài chòi

Khái quát chung

Sơ nét về bài chòi Quảng Nam

Bài chòi là một loại hình diễn xướng dân gian có giá trị âm nhạc đặc sắc, gắn liền với đời sống cộng đồng miền Trung Xuất phát từ vùng đất Phú Yên - Bình Định, bài chòi đã lan rộng khắp miền Trung, tuy nhiên, nguồn gốc cụ thể của bài chòi Quảng Nam vẫn chưa được xác định rõ Với tính chất truyền miệng, bài chòi miền Trung mang những nét tương đồng trong lời ca và ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa cộng đồng.

Hát bài chòi thường diễn ra ngoài trời, tại các sân đình hoặc làng, với hình thức tổ chức đơn giản Người ta dựng một chòi hình chữ nhật, ở giữa là chòi chính, kèm theo hai trống chầu, khay tiền, cờ hiệu và một cây tre có ống để đựng thẻ bài Anh Hiệu, người quản trò, đứng ở vị trí trung tâm sân khấu Trước khi bắt đầu, người chơi cần mua một bản bài có 3 lá bài và lắng nghe anh Hiệu hát dựa trên các lá bài được rút ngẫu nhiên, trong đó tên các lá bài sẽ được nhắc đến trong lời bài hát.

Ví dụ khi anh Hiệu rút được lá “nhì nghèo” thì anh sẽ hô lên câu hát về nhân vật đó như sau:

“Buồn từ trong dạ buồn raBuồn anh ở bạc, buồn cha mẹ nghèo ”.

Những người chơi sở hữu lá bài sẽ hô lên hoặc gõ vào cái mõ trong chòi, và người đưa cờ sẽ phát cho họ một cây cờ màu để đánh dấu Chòi nào có ba cây cờ trước khi hô “tới” sẽ kết thúc ván bài và trao thưởng cho người thắng Hiện nay, để phục dựng văn hóa bài chòi một cách đơn giản và gần gũi hơn, người ta thường không dựng chòi mà chỉ tổ chức xung quanh một chòi chính để người chơi ngồi hoặc đứng tham gia.

Bài chòi Quảng Nam có sự giao thoa văn hóa đặc trưng, dẫn đến sự khác biệt trong tên gọi của bộ bài ở các địa phương Bộ bài chòi tại đây gần giống với bộ bài tổ tôm miền Bắc, nhưng cách chơi đơn giản hơn nhiều Bộ bài gồm 30 con, được chia thành 3 pho: Pho Văn, Pho Vạn, và Pho Sách, mỗi pho có 9 con, tổng cộng 27 con Ngoài ra, còn có ba cặp yêu: Lão, Thang, Chi, với Lão có Ảm trơn, Thang có Thái tử, và Chi có Bạch huê.

Trong 3 pho gồm các con bài:

- Pho Văn: Chín Gối, Tráng Hai (Nhì Bánh), Ba Bụng, Tứ Tượng, Ngũ Rún (Ngũ Rốn), Sáu Miểng (Sáu Ghe), Bảy Liễu (Bảy Dây), Tám Miểng, Chín

Cu (Chín Gan), Ông Ảm.

- Pho Vạn: Nhứt Trò (Học Trò), Nhì Bí, Tam Quăng, Tứ Móc (Tứ Gióng),

Ngũ Trợt, Lục Trạng (Lục Chạng), Thất Vung, Bát Bồng, Cửu Chùa, Bạch Huê.

Trong trò chơi bài Pho Sách, các con bài được phân chia theo bậc và mang tên gọi phản ánh sự vật, con người trong cuộc sống hàng ngày Các quân bài bao gồm Nhứt Ngọc (Ngọc Thược, Yêu Nọc), Nhì Nghèo, Ba Gà, Tứ Cẳng (Tứ Sách), Ngũ Trưa (Ngũ Dụm), Sáu Bường (Sáu Hột), Bảy Thưa (Bảy Hột), Tám Dây (Tám Hột), Cửu Điều, và Thái Tử Điều này không chỉ tạo nên sự phong phú cho trò chơi mà còn giúp người chơi dễ dàng liên tưởng đến những khía cạnh quen thuộc trong cuộc sống.

-Về thứ bậc: Nhất, nhì, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát, cửu.

- Về người: Ông, anh, con, bà, chị, thằng, cô, thầy, học trò,

Trong thế giới tự nhiên và đời sống hàng ngày, chúng ta gặp gỡ nhiều sự vật và động vật thú vị như cái gối, cái ghe, ngà voi, gà, và bụng con vật Ngoài ra, những đặc điểm như mái, cổ, và nọc cũng góp phần tạo nên sự đa dạng Không thể không nhắc đến con rắn, cái móc, lưỡi câu, cái bánh, ve trà, chim cu, và ngôi chùa, tất cả đều mang đến những trải nghiệm phong phú cho cuộc sống của chúng ta.

Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật

Theo Hữu Đạt, phong cách nghệ thuật là một công cụ chức năng để tạo ra hình tượng và tác phẩm nghệ thuật phục vụ nhu cầu tinh thần của con người Các thể loại trong phong cách này được sáng tạo nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần và cũng có tác động trở lại với đời sống con người Ngôn ngữ nghệ thuật, vì vậy, trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống, bên cạnh các phong cách ngôn ngữ khác như báo chí và hành chính.

Chức năng ngôn ngữ trong phong cách nghệ thuật được Hữu Đạt nhận định là yếu tố đặc trưng, phân biệt phong cách này với các phong cách khoa học, báo chí và chính luận.

Ngôn ngữ trong báo chí, khoa học và luận thường mang tính chất khô khan, dựa trên tư duy logic và lí lẽ chặt chẽ nhằm truyền đạt thông tin và thuyết phục người khác Ngược lại, ngôn ngữ trong phong cách nghệ thuật lại phong phú và đa dạng, từ những từ ngữ bình dị, gần gũi đến những câu văn trau chuốt, có khả năng tác động mạnh mẽ đến cảm xúc con người Điều này không chỉ mang lại giá trị về mặt nhận thức và thẩm mỹ mà còn góp phần vào đời sống giải trí và sinh hoạt hàng ngày.

Chức năng ngôn ngữ trong bài chòi

Lời ca bài chòi không chỉ đơn thuần thể hiện kết quả trò chơi mà còn tạo nên sắc thái văn nghệ hấp dẫn, gợi mở và mô tả những con bài trong tâm trí người chơi Khi văn hóa bài chòi được phục dựng trong bối cảnh hiện đại, lời ca cũng đã có sự thay đổi để phù hợp với lối sống ngày nay, bao gồm các nội dung thể hiện tình yêu nước, tuyên truyền về Đảng và Nhà nước Đồng thời, lời ca vẫn phản ánh những giá trị truyền thống trong văn học dân gian như tình yêu quê hương, tình cảm gia đình và tình yêu đôi lứa, giúp bài chòi vừa hiện đại hóa mà vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống.

Có thể thấy như các lời ca về quê hương xứ sở, sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, kế hoạch hóa gia đình:

“Làm người phải biết yêu thương Non sống đất nước quê hương của mình

Văn minh văn hóa gia đình

Vợ chồng chỉ một đến mà hai con Chăm lo nuôi dạy con ngoan Gia đình hạnh phúc vẹn toàn ấm no

Dù trai hay gái đừng loChớ sinh thêm nữa khổ cho bế bồng”

Đặc điểm ngôn ngữ trong bài chòi

Về phương diện từ vựng

Bài chòi, mặc dù mang đậm bản sắc vùng miền, nhưng vẫn sử dụng ngôn ngữ toàn dân, vốn là ngôn ngữ chung của một dân tộc, được áp dụng rộng rãi trong mọi tầng lớp xã hội Ngôn ngữ toàn dân bao gồm những từ ngữ cơ bản và quan trọng, dễ hiểu và phổ biến trong cộng đồng Qua khảo sát 100 lời hát trong cuốn “Bài chòi và dân ca liên khu 5” của GS Hoàng Chương, cùng với các bài hát nghe trực tiếp, chúng ta nhận thấy bên cạnh những từ chỉ sự vật, hiện tượng như mưa, gió, hờn, ghen, giường, thi, thì các từ chỉ quan hệ cũng được lặp lại nhiều lần, thể hiện tính kết nối trong ngôn ngữ bài chòi.

Từ chỉ quan hệ, đặc biệt là các đại từ xưng hô như: “tôi”, “anh”, “em”,

Các đại từ xưng hô như “chàng”, “nàng”, “ông”, “bà”, “vợ”, “chồng” thể hiện sự mạnh mẽ và cá nhân hóa trong giao tiếp Bài chòi, với vai trò trung gian giữa ca dao, trò chơi và đối đáp, thường xuyên xuất hiện các từ xưng hô trong lời ca, tạo nên sự gần gũi và thân thuộc trong văn hóa giao tiếp.

“Gà tơ xào với mướp già

Vợ hai mươi tuổi, chồng đà sáu mươi

Ra đường chúng bạn chê cười Rằng hai ông cháu kết đôi vợ chồng Đêm nằm tưởng cái gối bông Giật mình gối phải râu chồng nằm bên”

Có thương có nhớ không em Sao em chẳng lại, để anh mong đêm nhớ ngày

Tay anh cầm ngòi bút ngọc Đầu anh đội lá đơn vàng

Ba năm anh hỏi chẳng được nàng Rồi đây anh kiện với Ngọc Hoàng cho coi

- Phương ngữ về khái niệm phương ngữ, theo Hoàng Thị Châu trong Phương ngữ học tiếng

Phương ngữ là một khái niệm trong ngôn ngữ học, thể hiện sự biến thể của ngôn ngữ toàn dân tại những địa phương cụ thể, mang những đặc điểm khác biệt so với ngôn ngữ chung hoặc các phương ngữ khác Tại Việt Nam, có ba vùng phương ngữ chính, phản ánh sự đa dạng ngôn ngữ trong cộng đồng.

Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ là ba phương ngữ chính của tiếng Việt, mỗi phương ngữ có sự khác biệt rõ rệt về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp Sự đa dạng này tạo nên sự phong phú trong ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, đồng thời cũng phản ánh đặc trưng vùng miền của từng khu vực Phương ngữ Quảng cũng nằm trong số đó, góp phần làm nổi bật sự đa dạng của tiếng Việt.

Nam trong bài chòi, tôi tiến hành phân tích trên phương diện từ vựng và ngữ âm.

Qua khảo sát ngữ liệu, tôi bắt gặp khá nhiều đại từ xưng hô “bậu”, “nậu”,

“nẩu” mang đậm phương ngữ Quảng Nam trong các lời ca:

“Hò khoan với nậu có chồng

Nó ghen lôi cả cái gông ra cùm Tai nghe mõ đánh lum cum Chị em xúm lại nói giùm một đêm ”.

“Vai mang bị bạc kè kè Nói quấy nói quá nẩu nghe ầm ầm ”.

“Bậu khoe giỏi, sao chẳng đi thi

Cứ ăn xó bếp, ngủ thì chuồng trâu Bậu ơi, tôi chẳng ưng đâu, Trạng gì như thế, có hầu cũng uổng công”.

Lục trạng là những từ xưng hô đặc trưng trong giao tiếp của người dân xứ Quảng, thường xuyên xuất hiện trong lời ăn tiếng nói Một câu ca dao nổi tiếng của Quảng Nam đã nhắc đến điều này.

Câu thơ “Ai về nhắn với nậu nguồn/ Mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên” và “Ai về nhắn với bạn nguồn/ Mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên” tuy có hình thức tương tự nhưng mang ý nghĩa khác nhau Từ “nậu” chỉ những người ở xa với mối quan hệ xa hơn, trong khi “bạn” thể hiện sự gắn kết chặt chẽ hơn Ngoài ra, các từ như “bậu” và “nẩu” cũng chỉ người thứ ba nhưng có sắc thái khác nhau so với tiếng phổ thông Lời hát bài chòi Quảng Nam sử dụng nhiều cách xưng hô đa dạng, mỗi cách đều thể hiện một trạng thái tình cảm riêng Đặc biệt, hiện tượng biến các ngữ thành từ nhân xưng như ổng, ảnh, chỉ, bả, cổ, cẩu mang đến sự thú vị trong ngôn ngữ địa phương.

Từ chỉ sự vật đặc trưng

“Đang ngồi bực lỡ thả câu Chẳng may rớt xuống vựt sâu cái ầm ”

“Sớm mai xách nón lên gò Hai mặt chụm lại, bốn giò tréo ngoe”

“Biết rằng ai có mong ai

Sao trời lại nỡ rẽ hai thế này

Có sao hôm mà lại chẳng có sao mai

Hai đàng hai đứa tình phai hoa tàn.”

Bài chòi là một thể loại nghệ thuật dân gian đặc trưng, trong đó xuất hiện nhiều từ ngữ địa phương chỉ sự vật, hiện tượng Những từ này bao gồm danh từ chỉ con người, đồ vật, cây cối, khái niệm và đơn vị, tất cả đều là những thứ hữu hình và có thể nhận biết được Qua khảo sát tài liệu về bài chòi, tôi đã phát hiện một số từ ngữ địa phương đặc trưng, phản ánh sự phong phú và đa dạng của ngôn ngữ trong nghệ thuật này.

Từ địa phương Từ toàn dân tương ứng

Bực lở Cái bờ bị sạt lở

Vò Hũ đựng (thường dùng đựng rượu)

Lìn Bộ phận sinh dục nữ Đĩ Bộ phận sinh dục nữ (người phụ nữ mại dâm)

Bảng 2.1 Bảng giải nghĩa từ địa phương chỉ sự vật, hiện tượng

Bài chòi không chỉ chứa đựng những từ ngữ mô tả sự vật thông thường mà còn có sự xuất hiện của một số từ nhạy cảm liên quan đến bộ phận sinh dục Điều này tạo nên sự phong phú và đa dạng trong ngôn ngữ của bài chòi, phản ánh những khía cạnh văn hóa đặc trưng.

“Nghèo mà làm bạn với giàu Ngồi xuống, đứng dậy nó đau cái lìn”

Trong bài chòi, các từ chỉ bộ phận cơ thể nhạy cảm như “vú” và “mu” thường xuất hiện, phản ánh sự gần gũi và bình dân của ngôn ngữ dân gian Sự hiện diện của các yếu tố phồn thực trong thể loại này cho thấy một cách tự nhiên về tính dục trong văn hóa địa phương.

Từ chỉ tính chất, hoạt động

Trong lời ca bài chòi, phương ngữ chỉ tính chất và hoạt động xuất hiện với số lượng phong phú nhất Đây là đặc điểm chính giúp nhận diện phương ngữ của từng vùng miền.

“Chầu rày đã có trăng non Để tôi lên xuống có con em bồng”

“Bậu ơi, tôi chẳng ưng đâu, Trạng gì như thế, có hầu cũng uổng công”

“Lấy chồng từ thuở mười lămChồng chê em bé không nằm với em Đến khi mười tám đôi mươi

Em nằm dưới đất ổng lôi lên giường Lên giường ổng nói: anh thương Một anh thương, hai anh thương, ba anh thương

Anh thương chi hung rứa Cho bốn cái cẳng giường nó rung rinh.”

Các từ địa phương trong bài chòi có thể chia thành hai loại: một là những từ khác nhau nhưng có nghĩa tương tự, hai là các biến âm Sự đa dạng này không chỉ làm cho lời ca trở nên quen thuộc và bình dị mà còn tăng sức hấp dẫn nhờ vào lối hiệp vần, tạo ra giá trị nhạc tính cao Điều này giúp người nghe cảm thấy bắt tai, dễ nhớ và dễ lan truyền.

Từ địa phương Từ toàn dân tương ứng

Chầu rày Hôm nay Ưng Đồng ý

Bảng 2.2 Bảng giải nghĩa từ địa phương chỉ tính chất, hoạt động

Tiếng Việt đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tiếng Hán qua các cuộc xâm lăng, dẫn đến sự du nhập của nhiều từ gốc Hán vào ngôn ngữ Sự tiếp xúc này không làm giảm giá trị của tiếng Việt mà còn làm phong phú thêm vốn từ vựng với các loại từ như Hán cổ, Hán - Việt và Hán - Việt Việt hoá Trong các bài chòi, từ Hán - Việt thường được sử dụng với số lượng lớn nhằm tạo sự trang trọng, mặc dù thể loại này thường được xem là bình dân Điều này cho thấy rằng, ngay cả trong giao tiếp hàng ngày, việc sử dụng từ Hán - Việt thay cho từ thuần Việt đồng nghĩa giúp tránh cảm giác thô tục và tạo sự dễ chịu cho người nghe.

“Má ơi đừng có nói oan Con đâu phải đứa lăng loàn hư thân

Má ăn, má ở minh phân Để sau trăm tuổi, khỏi trợt chân xuống hầm ”

Tác giả dân gian đã thay thế từ "hỗn xược" bằng "lăng loàn" trong Hán Việt để tăng tính hàm súc và khái quát cho câu thơ, đồng thời tạo nên sự hiệp vần và nhạc điệu, giúp nội dung trở nên sâu sắc hơn.

Bài chòi không chỉ sử dụng từ Hán Việt mà còn tích hợp nhiều điển cố Trung Quốc, như Ông Tơ - Bà Nguyệt, tào khang, và các nhân vật nổi tiếng như Lưu Bị và Khổng Minh Việc đa dạng hóa các điển tích trong ngôn ngữ bài chòi tạo ra hiệu quả nghệ thuật đặc biệt, làm tăng tính súc tích và thể hiện triết lý nhân sinh sâu sắc, đồng thời nâng cao tính bác học trong nghệ thuật này.

“Ngày thường thiếu áo thiếu cơm Đêm nằm không chiếu, lấy rơm làm giường

Dù dơi, dép bướm chật đường Màn loan, gối phượng ai thương kẻ nghèo?”

2.1.2 Các cụm ngữ cố định

Thành ngữ là những cụm từ có cấu trúc vững chắc và hình ảnh biểu đạt sâu sắc, thường không tạo thành câu hoàn chỉnh Nhờ tính hình tượng và hàm súc, thành ngữ đóng vai trò quan trọng trong việc truyền đạt nội dung, đặc biệt trong ca dao dân ca Ví dụ, trong lời ca bài chòi, thành ngữ giúp người hát dễ thuộc và người nghe dễ tiếp nhận Hơn nữa, thành ngữ tạo sự gần gũi trong lời ca vì chúng là những cụm từ quen thuộc trong giao tiếp hàng ngày.

“Thấy nàng anh cũng muốn thương

Sơ e nhất mã lưỡng cương khó cầm ”

“Ngồi buồn nghĩ chuyện đời nay Trai tài gái sắc sao tày ngày xưa Đời nay ăn sớm ngủ trưa Ngồi lê mách lẻo, bỏ thưa việc nhà”

Về phương diện ngữ âm

Trong phương ngữ Quảng Nam, sự thay đổi âm vị ở vị trí âm chính là điểm dễ nhận diện nhất, chẳng hạn như sự chuyển đổi từ âm "ă" sang âm "e" Những biến đổi này không chỉ phản ánh đặc trưng ngữ âm mà còn góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa ngôn ngữ của vùng miền này.

“oai” sang âm “ua”, từ âm “ao” sang âm “ô”, từ âm “oi” sang âm “ua”, từ âm

Biến âm trong tiếng Quảng Nam thể hiện sự chuyển đổi âm thanh như “ăn” thành “en”, “am” thành “ôm”, và “o” thành “u” Ví dụ như “đi lồm” (đi làm), “en cơm” (ăn cơm), “nhớ hùa” (nhớ hoài), “tồ lô” (tào lao), “xe độp” (xe đạp) Hiện tượng ngữ âm này không chỉ đặc trưng cho ngôn ngữ địa phương mà còn tạo sự gần gũi trong lời hát bài chòi, làm nổi bật bản sắc văn hóa của Quảng Nam so với các vùng miền khác.

Là một thể loại diễn xướng dân gian, lời hát của nó được lấy cảm hứng từ các câu ca dao, dân ca truyền miệng Do đó, trong bài viết này, tôi sẽ ghi nhận những trường hợp ca dao nguyên bản với các yếu tố biến đổi ngữ âm, mặc dù số lượng này không đáng kể.

“Hai tay xách gói theo chồng

Mẹ kêu mược mẹ, thuơng chồng phải theo

Làm thân con gái, chẳng lo Ngủ trưa đúng buổi, dậy đo mặt trời

Quần áo thì rách tả tơi Lấy rơm mà túm, mỗi nơi một đùm ”

Tuy nhiên, ở khi tiếp nhận bài chòi dưới hình thức diễn xướng có thể phát hiện những biến đổi âm điệu trong lời hát như sau:

“Đi đâu mang sách đi hùa (hoài)

Cử nhân chẳng thấy tú tài cũng không”

“Một chàng hai thiếp khó phân Anh về lượng lại để cầm cân cho bèng (bằng) ”

“Tay em đã trắng lại tròn Không cho anh gối, sô (sao) mòn một bên”

Bài Chòi, với sự biến đổi âm thanh từ phát âm địa phương, mang đến bản sắc riêng biệt của từng vùng miền Tuy nhiên, trong quá trình phát triển và khôi phục nghệ thuật này, người hô bài chòi đã giảm thiểu các yếu tố phát âm địa phương để mọi đối tượng, không phân biệt vùng miền hay lứa tuổi, có thể dễ dàng tiếp nhận Việc sử dụng một cách có chừng mực các yếu tố ngữ âm địa phương giúp đáp ứng tốt hơn tâm lý và thói quen tiếp nhận của công chúng.

Giá trị ngôn ngữ trong bài chòi

Giá trị giải trí

Bài chòi là một hình thức diễn xướng dân gian độc đáo, sử dụng lời ca từ các câu ca dao và bài thơ có vần điệu Đặc biệt, bài chòi Quảng Nam nổi bật với ngôn ngữ sôi nổi, hài hước, thể hiện tính gắn kết cộng đồng mạnh mẽ Các từ ngữ trong bài chòi thường được lấy từ giao tiếp hàng ngày của người lao động, đồng thời phản ánh các yếu tố phồn thực một cách tự nhiên.

Ngôn ngữ trong bài chòi không chỉ mang giá trị giải trí mà còn là yếu tố quan trọng trong việc gắn kết cộng đồng Thường được tổ chức trong các dịp lễ hội và Tết, bài chòi tạo cơ hội cho người lao động thư giãn và tham gia các hoạt động cộng đồng Sự hấp dẫn của hát bài chòi nằm ở lời ca phong phú, dẫn dắt tâm trạng và cảm xúc của người xem qua những bất ngờ Các câu hát có thể nhịp nhàng, chậm rãi hoặc mang tính châm biếm, giao duyên, tạo nên một trải nghiệm đa dạng và đầy ý nghĩa cho khán giả.

Giá trị giải trí còn thể hiển trong lời ca trào phúng, châm biếm đầy dí dỏm.

“Trời mưa lộp lộp sân đình Anh đi cho khéo trợt uỳnh xuống đây”

“Đầu rồng, đuôi phượng, cánh tiênNgày năm, bảy vợ, tối ngủ riêng một mình”

Bài chòi Quảng Nam nổi bật giữa các loại hình âm nhạc dân gian khác nhờ vào những đặc trưng riêng biệt về âm nhạc và văn hóa Sự dí dỏm, hài hước trong diễn xuất và lời ca đã tạo nên nét độc đáo cho loại hình nghệ thuật này, phản ánh tinh thần và bản sắc văn hóa của vùng đất Quảng Nam.

Giá trị giáo dục

Giá trị giáo dục trong bài chòi thể hiện qua nội dung của các câu ca, bao gồm nhân cách sống, đạo đức và tình yêu quê hương đất nước Tình yêu quê hương là chủ đề mạnh mẽ nhất trong nghệ thuật, đặc biệt là văn học dân gian, với sự hiện diện từ những câu ca mộc mạc, chân quê đến những lời ca hiện đại Những câu ca này khắc hoạ sâu sắc lòng tự hào về quê hương và tình cảm gắn bó với làng quê.

“Ấm nồng từ một khúc quê

Ta đứng hát giữa mây trời xứ xở Đất mẹ đi qua tháng ngày gian lao cực khổ Con sông quê bao năm trăn trở ngọn nguồn

Một thời khói lửa đạn bomMột tấc giang sơn, một dòng máu đỏQuảng Nam ơi từ trong gian khó

Có niềm tin son sắc vô bờ ”

Ngôn ngữ trong lời ca bài chòi không chỉ mang tính giải trí mà còn thể hiện sự phê phán những vấn đề tiêu cực trong xã hội, từ đó góp phần hướng con người đến những giá trị tích cực và tránh xa những điều xấu.

Có thể là phê phán những con người bạc tình vô ơn, bạc nghĩa trong xã hội, lên án những kẻ biếng lười, rượu chè nghiện ngập,

Đụng anh nghiền như ông tiên nhỏ, cầm gươm bạc như Triệu Tử, miệng ngậm ống như Trương Phi Mắt liếc đèn như Lưu Bị, cẳng tréo hoe như Khổng Minh Trong lúc nghiền, tôi cảm thấy sự bất đắc dĩ khi ruộng trâu đã bán hết, không còn gì để móc tiêm.

Bài chòi, một loại hình nghệ thuật đặc trưng của người xứ Quảng, không chỉ mang lại những lời ca rung động mà còn để lại khoảng lặng trong lòng người nghe Nội dung lời ca thể hiện tính cách chân chất, ngay thẳng của con người nơi đây, đồng thời nổi bật với tính giải trí và giáo dục sâu sắc.

Ngôn ngữ trong bài chòi thể hiện rõ nét đặc trưng phương ngữ, với từ vựng giản dị, gần gũi và dễ hiểu cho người lao động Việc sử dụng từ ngữ mang tính phương ngữ không chỉ phù hợp với đối tượng bình dân mà còn tạo sự gần gũi và nhân văn hơn trong xã hội Phương ngữ trong bài chòi làm nổi bật sắc thái văn hóa và màu sắc địa phương, với lời ca ngắn gọn nhưng giàu biểu cảm, dễ dàng truyền tải tình cảm, phê phán thói hư tật xấu và thảo luận về chính sự Mặc dù mang đặc điểm ngôn ngữ bình dân, bài chòi cũng khéo léo kết hợp từ ngữ Hán Việt, tăng thêm tính trang trọng và bác học, góp phần làm phong phú thêm ngôn ngữ của bài chòi.

Ngôn ngữ bài chòi mang đến sự độc đáo và giúp chúng ta trở về với giá trị truyền thống của dân tộc Mặc dù lời ca có sự thay đổi để phù hợp với ngữ cảnh và đa dạng hóa nội dung, ngữ điệu địa phương vẫn được giữ gìn, tạo nên giá trị thẩm mỹ, giải trí và giáo dục đạo đức sâu sắc Mỗi con bài và giai điệu đều chứa đựng những thông điệp quý giá, góp phần làm phong phú thêm văn hóa dân gian.

Ngày đăng: 30/03/2022, 12:27

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Hoàng Thị Châu. (2004). Phương ngữ học tiếng Việt. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương ngữ học tiếng Việt
Tác giả: Hoàng Thị Châu
Nhà XB: NXB Đạihọc Quốc gia Hà Nội
Năm: 2004
2. Hoàng Chương (chủ biên). (2007). Bài chòi và dân ca Liên khu 5. Hà Nội:NXB Văn hoá thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bài chòi và dân ca Liên khu 5
Tác giả: Hoàng Chương (chủ biên)
Nhà XB: NXB Văn hoá thông tin
Năm: 2007
3. Hữu Đạt. (2006). Phong cách học tiếng Việt hiện đại. Hà Nội: NXB Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phong cách học tiếng Việt hiện đại
Tác giả: Hữu Đạt
Nhà XB: NXB Giáodục
Năm: 2006
4. Đinh Thị Hựu. (2012). Bài chòi xứ Quảng. Hà Nội: NXB Lao động Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bài chòi xứ Quảng
Tác giả: Đinh Thị Hựu
Nhà XB: NXB Lao động
Năm: 2012
5. Hoàng Đình Phương. (2016). Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 6, số 4, 31-37. Đà Nằng: Trường ĐH Sư Phạm Đà Nằng.Tài liệu web Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2.1. Bảng giải nghĩa từ địa phương chỉ sự vật, hiện tượng - TIỂU LUẬN CUỐI kì đặc điểm NGÔN NGỮ TRONG bài CHÒI QUẢNG NAM
Bảng 2.1. Bảng giải nghĩa từ địa phương chỉ sự vật, hiện tượng (Trang 14)
Bảng 2.2. Bảng giải nghĩa từ địa phương chỉ tính chất, hoạt động - TIỂU LUẬN CUỐI kì đặc điểm NGÔN NGỮ TRONG bài CHÒI QUẢNG NAM
Bảng 2.2. Bảng giải nghĩa từ địa phương chỉ tính chất, hoạt động (Trang 17)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w