1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) giải pháp phát triển mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch việt nam

99 211 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giải Pháp Phát Triển Mô Hình Kinh Tế Chia Sẻ Trong Ngành Du Lịch Việt Nam
Tác giả Lê Xuân Bách
Người hướng dẫn PGS, TS Đỗ Thị Loan
Trường học Trường Đại Học Ngoại Thương
Chuyên ngành Quản trị kinh doanh
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2019
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 99
Dung lượng 2,19 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH KINH TẾ CHIA SẺ TRONG NGÀNH DU LỊCH (18)
    • 1.1. Tổng quan về mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch (18)
      • 1.1.1 Khái niệm kinh tế chia sẻ (18)
      • 1.1.2. Khái niệm mô hình kinh tế chia sẻ (20)
      • 1.1.3. Khái niệm mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch (21)
    • 1.2. Các loại hình kinh tế chia sẻ chính (22)
      • 1.2.1. Dịch vụ cho vay ngang hàng (Peer – to – peer lending) (23)
      • 1.2.2. Hoạt động gọi vốn cộng đồng (Crowdfunding) (23)
      • 1.2.3. Dịch vụ cho thuê nhà/căn hộ (24)
      • 1.2.4. Dịch vụ thuê chung xe (25)
      • 1.2.5. Hoạt đông thuê không gian làm việc chung (Coworking) (26)
      • 1.2.6. Thương mại (26)
      • 1.2.7. Chia sẻ tài năng và kiến thức (Knowledge and Talent Sharing) (27)
      • 1.2.8. Dịch vụ mô hình kinh tế chia sẻ ngách (Cho thuê xe đạp) (27)
    • 1.3. Động cơ thúc đẩy kinh tế chia sẻ (28)
      • 1.3.1. Sự phát triển của công nghệ (28)
      • 1.3.2. Thương mại “cộng đồng” (29)
      • 1.3.3. Tình hình kinh tế khó khăn (30)
      • 1.3.4. Sự bấp bênh trong giá cả các nguồn tài nguyên thiên nhiên (31)
    • 1.4. Nội dung phát triển mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch (33)
      • 1.4.1. Xây dựng mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch (33)
      • 1.4.2. Phát triển mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch (38)
      • 1.5.1 Tích cực (40)
      • 1.5.2. Tiêu cực (42)
    • 1.6. Kinh nghiệm phát triển mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch của một số quốc gia trên thế giới – Bài học kinh nghiệm cho ngành du lịch Việt Nam (45)
      • 1.6.1. Kinh nghiệm phát triển mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch của một số quốc gia trên thế giới (45)
      • 1.6.2. Bài học kinh nghiệm cho ngành du lịch Việt Nam (55)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH KINH TẾ CHIA SẺ (58)
    • 2.1. Thực trạng ngành du lịch Việt Nam hiện nay (58)
      • 2.1.1. Điểm mạnh của ngành du lịch Việt Nam (62)
      • 2.1.2. Cơ hội ngành du lịch Việt Nam cần năm bắt (64)
      • 2.1.3. Điểm yếu của ngành du lịch Việt Nam (65)
      • 2.1.4. Thách thức ngành du lịch Việt Nam phải đối mặt (67)
    • 2.2. Thực trạng mô hình kinh tế chia sẻ áp dụng vào ngành du lịch Việt Nam (69)
      • 2.2.1. Thực trạng phát triển mô hình kinh tế chia sẻ tại Việt Nam (69)
      • 2.2.2. Các mô hình kinh tế chia sẻ chính đang có mặt trong ngành du lịch Việt (71)
      • 2.2.3. Ảnh hưởng của mô hình kinh tế chia sẻ với ngành du lịch Việt Nam (75)
    • 2.3. Nhận xét chung (78)
      • 2.3.1. Mặt tích cực (78)
      • 2.3.2. Mặt còn tồn tại và nguyên nhân (79)
  • CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH KINH TẾ CHIA SẺ (83)
    • 3.1. Định hướng phát triển mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch Việt Nam (83)
    • 3.2. Đề xuất một số giải pháp phát triển mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch Việt Nam (84)
  • KẾT LUẬN (95)

Nội dung

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH KINH TẾ CHIA SẺ TRONG NGÀNH DU LỊCH

Tổng quan về mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch

1.1.1 Khái niệm kinh tế chia sẻ

Nền kinh tế chia sẻ, mặc dù còn mới mẻ, đã chứng kiến sự tăng trưởng ấn tượng trong những năm gần đây Các công ty khởi nghiệp như Uber và Airbnb đã thu hút hàng triệu khách hàng, mở rộng hoạt động ra hàng trăm thành phố toàn cầu và đạt giá trị hàng chục tỷ đô la.

Sự phát triển của Internet và dữ liệu lớn đã thu hẹp khoảng cách giữa những người sở hữu tài sản nhàn rỗi và những người có nhu cầu sử dụng chúng Sự gia tăng các nền tảng trực tuyến và di động đã kết nối hiệu quả cá nhân và tổ chức, cho phép họ quảng cáo, bán hàng hóa, dịch vụ và tìm kiếm khách hàng thông qua mạng lưới Internet rộng lớn.

Việc trao đổi giữa cá nhân và tổ chức có thể diễn ra trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bên trung gian như cửa hàng, trang web hay ứng dụng, cả trực tuyến lẫn ngoại tuyến, với hình thức miễn phí hoặc có phí Trong nền kinh tế chia sẻ, người tiêu dùng không chỉ là bên thụ hưởng mà còn là bên cung cấp tài nguyên, thể hiện vai trò đa dạng của họ trong quá trình giao dịch.

Mặc dù kinh tế chia sẻ đã nhanh chóng phát triển và trở nên phổ biến, nhưng vẫn chưa có định nghĩa chính thức cho khái niệm này Nó còn được gọi bằng nhiều tên khác như kinh tế hợp tác, kinh tế sản xuất ngang hàng, và kinh tế ngang hàng Theo Christopher Koopman, Matthew Mitchell, và Adam Thierer trong bài viết "Nền kinh tế chia sẻ và quy định bảo vệ người tiêu dùng: Trường hợp thay đổi chính sách", kinh tế chia sẻ được định nghĩa là "bất kỳ thị trường nào tập hợp các mạng lưới phân tán của các cá nhân để chia sẻ hoặc trao đổi các tài sản không được sử dụng, bao gồm tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ được chia sẻ hoặc trao đổi vì lợi ích tiền tệ và phi tiền tệ."

Theo Koen Frenken (2017) trong bài viết "Viễn cảnh nền kinh tế chia sẻ", nền kinh tế chia sẻ được định nghĩa là mô hình trong đó người tiêu dùng cung cấp quyền truy cập tạm thời vào tài sản vật chất nhàn rỗi cho nhau, có thể được thực hiện với mục đích kiếm tiền.

Kinh tế chia sẻ, theo Benita Matofska (2016), là một hệ sinh thái kinh tế xã hội tập trung vào việc chia sẻ tài nguyên vật chất và con người Nó bao gồm các hoạt động như tạo ra, sản xuất, phân phối, thương mại và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ từ nhiều cá nhân và tổ chức khác nhau.

Sự đa dạng trong định nghĩa về nền kinh tế chia sẻ có thể dẫn đến sự mơ hồ và tranh cãi Một ví dụ rõ ràng về sự bất đồng giữa các học giả là việc xác định xem các dịch vụ cá nhân như giúp việc hay trông trẻ, được cung cấp qua các nền tảng như TaskRabbit, hay dịch vụ vận chuyển từ Grab và Uber, có thuộc về nền kinh tế chia sẻ hay không Một số chuyên gia cho rằng những dịch vụ này nên được phân loại là nền kinh tế theo yêu cầu.

Trong nền kinh tế chia sẻ, các định nghĩa về đối tượng tham gia có sự khác biệt rõ rệt Một số định nghĩa chỉ tập trung vào "các cá nhân", trong khi những định nghĩa khác mở rộng khái niệm này để bao gồm cả giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp.

Theo Koen Frenken và Juliet Schor (2016), nền kinh tế chia sẻ được xác định bởi ba đặc điểm chính: “tương tác giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng”, “quyền truy cập tạm thời” và “hàng hóa vật chất” Trong bối cảnh này, dịch vụ đi chung xe hoặc quá giang xe được xem là một phần của nền kinh tế chia sẻ, vì người tiêu dùng không chỉ sử dụng dịch vụ đi lại mà còn “bán” hoặc “trao đổi” những tài sản rảnh rỗi của mình (chỗ ngồi còn lại) để nhận lại giá trị vật chất khác, như giảm chi phí di chuyển.

Nếu không có khách hàng gọi Grab hay Uber, sẽ không có chuyến đi nào từ các tài xế của hai hãng này Do đó, sự phát triển của Grab, Uber và các dịch vụ vận tải khác liên quan đến "thuê xe" hơn là "chia sẻ xe" Điều này chứng tỏ rằng các giao dịch giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng đang tách biệt khỏi nền kinh tế chia sẻ.

Dịch vụ cho thuê nhà ở giữa người tiêu dùng trên nền tảng Airbnb phù hợp với mô hình kinh tế chia sẻ Tuy nhiên, việc một cá nhân mua căn nhà thứ hai để cho khách du lịch thuê không được xem là một giao dịch thuộc nền kinh tế chia sẻ.

Theo định nghĩa của Koen Frenken và Juliet Schor, eBay, một nền tảng giao dịch lớn, không thực sự hoạt động trong khuôn khổ nền kinh tế chia sẻ, vì các giao dịch giữa người tiêu dùng với nhau dẫn đến việc sở hữu hàng hóa một cách "vĩnh viễn" thay vì chia sẻ tạm thời.

Kinh tế chia sẻ được định nghĩa là việc chia sẻ tài sản vật chất rảnh rỗi giữa cá nhân và tổ chức nhằm mục đích lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận Theo quan điểm của Koen Frenken và Juliet Schor, kinh tế chia sẻ chỉ tồn tại khi có yếu tố "chia sẻ" Cụ thể, khi một chủ sở hữu muốn chia sẻ tài sản của mình với người khác, đó chính là kinh tế chia sẻ Ví dụ, một người sử dụng xe ô tô cho mục đích cá nhân nhưng sau đó quyết định làm tài xế Grab hay Uber để tận dụng thời gian rảnh rỗi của xe, thì đây là một hình thức của kinh tế chia sẻ Ngược lại, nếu người đó mua xe chỉ để phục vụ công việc lái xe mà không có yếu tố chia sẻ, thì không còn được coi là kinh tế chia sẻ.

1.1.2 Khái niệm mô hình kinh tế chia sẻ

Kinh tế chia sẻ, hay còn gọi là mô hình chia sẻ, đã tồn tại từ lâu nhưng chỉ thực sự bùng nổ từ năm 2009 khi nền kinh tế Mỹ gặp khủng hoảng Trong bối cảnh khó khăn, người tiêu dùng buộc phải thay đổi thói quen tiêu dùng, dẫn đến việc tận dụng các tài nguyên sẵn có thông qua các ứng dụng công nghệ Mô hình này không chỉ mang lại lợi ích cho người cung cấp dịch vụ mà còn cho cả người thuê và sử dụng tài nguyên, tạo ra những khoản lợi nhuận khổng lồ.

Một số ví dụ về mô hình kinh tế chia sẻ nổi bật trên thế giới như:

Mô hình RelayRides là một hình thức chia sẻ xe ô tô trong cộng đồng, giúp tối ưu hóa nguồn tài nguyên đang bị lãng phí từ những chiếc xe ô tô thuộc sở hữu tư nhân.

- Mô hình Airbnb: Mô hình Airbnb chia sẻ nhà ở cho người đi du lịch, tận dụng nguồn tài nguyên đang lãng phí là những căn phòng không dùng đến

Các loại hình kinh tế chia sẻ chính

Với sự bùng nổ của kinh tế chia sẻ, cả cá nhân lẫn tổ chức đang ngày càng mở rộng hình thức "chia sẻ" đối với nhiều loại vật chất và dịch vụ khác nhau Bài viết này sẽ khám phá một số loại hình phổ biến trong lĩnh vực này và cung cấp các ví dụ cụ thể, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam.

1.2.1 Dịch vụ cho vay ngang hàng (Peer – to – peer lending) Đây là mô hình trong đó các đối tượng trong cộng đồng cho vay lẫn nhau, không thông qua trung gian là ngân hàng Ví dụ, các làng xã, khu dân phố thành lập quỹ chung dùng để hỗ trợ cho người trong khu gặp việc khẩn cấp Hiện nay, cùng với sự phát triển của Công nghệ tài chính (Fintech), loại hình này được mở rộng và hoạt động dựa trên nền tảng tực tuyến Qua loại hình này, mọi người được cung cấp các dịch vụ cho vay trực tuyến với chi phí dịch vụ thấp hơn so với chi phí dịch vụ cho vay theo kiểu truyền thống, vì chi phí hoạt động công ty cho vay P2P thấp Nhờ đó, nhà đầu tư (người cho vay) sẽ thu được lợi nhuận cao hơn so với gửi tiết kiệm hay đầu tư vào bất cứ một sản phẩm nào khác của ngân hàng Trong khi đó, người vay lại được hưởng lãi suất thấp hơn (cho dù công ty cho vay ngang hàng đã khấu trừ chi phí xây dựng hệ thống kết nối và đánh giá tín nhiệm online) Một trong những lợi ích của mô hình này là mở ra cơ hội tiếp cận vốn cho nhiều khách hàng, đặc biệt những người không đủ tiêu chuẩn vay vốn ngân hàng Khách hàng có thể vay nhanh từ 1 đến 30 triệu đồng, thủ tục đơn giản, chỉ cần điền vào một mẫu đơn xin vay trực tuyến có sẵn, chụp ảnh một số giấy tờ liên quan, chờ xác nhận và khoản vay có thể được phê duyệt chỉ sau 15-30 phút Nhờ tính nhanh chóng và tiện lợi này mà hiện nay, loại hình kinh tế chia sẻ này đang phát triển rất rộng rãi trên thế giới với những cái tên như Lending club, Prosper (Mỹ), Zopa, Funding Circle (Anh), Dianrong, Lufax, Ppdai (Trung Quốc) Ở Việt Nam, mặc dù chưa có tài liệu cấp phép nào cho nền tảng P2P, một số doanh nghiệp như Tima, Vaymuon.vn, Mofin hay Lenbiz thực ra đang hoạt động dựa trên nền tảng này

1.2.2 Hoạt động gọi vốn cộng đồng (Crowdfunding)

Gọi vốn cộng đồng (Crowdfunding) là hình thức gây quỹ tập thể, trong đó cá nhân đóng góp tiền qua Internet để hỗ trợ các dự án hoặc sáng kiến từ người khác hoặc tổ chức Hình thức này được áp dụng cho nhiều hoạt động khác nhau như cứu trợ thiên tai, hỗ trợ nghệ sĩ, chiến dịch chính trị, sản xuất phim, phát triển phần mềm tự do, nghiên cứu khoa học và các dự án phúc lợi Mô hình gây quỹ này bao gồm ba yếu tố chính: người khởi xướng dự án, những người ủng hộ ý tưởng và một nền tảng kết nối các bên để hiện thực hóa ý tưởng.

Trong vài năm qua, hình thức gọi vốn cộng đồng đã phát triển mạnh mẽ và hiện diện trong hầu hết các lĩnh vực, miễn là có dự án khả thi và được cộng đồng ủng hộ Các trang web quốc tế như KickStarter, IndieGoGo, GoFundMe và CircleUp cung cấp đa dạng dự án từ phim ảnh, chương trình từ thiện đến nghiên cứu khoa học và khởi nghiệp Tại Việt Nam, nhiều trang web như Firststep.vn, Fundingvn.com và Fundstart.vn đã ra đời để phát triển mô hình này, mỗi trang có mục tiêu riêng: Firststep.vn tập trung vào các ý tưởng cộng đồng, trong khi Fundingvn.com chuyên về nguồn vốn và kinh doanh.

1.2.3 Dịch vụ cho thuê nhà/căn hộ

Dịch vụ cho thuê nhà/căn hộ hoạt động trên nền tảng chia sẻ, cho phép chủ nhà tận dụng những căn phòng không sử dụng để cho khách du lịch thuê, qua đó nhận lại giá trị vật chất hoặc phi vật chất Khác với các chuỗi khách sạn truyền thống, những nơi ở này do cá nhân cung cấp và được kết nối thông qua Airbnb, một công ty có trụ sở tại San Francisco Airbnb không chỉ là một nền tảng cho phép chủ nhà và người thuê gặp gỡ và ký kết hợp đồng, mà còn cho phép họ đánh giá lẫn nhau sau giao dịch Hiện nay, Airbnb đã đạt giá trị gần 20 tỷ USD và có mặt tại nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam.

Mô hình Airbnb mang lại lợi ích vượt trội so với cho thuê truyền thống bằng cách tận dụng nguồn tài nguyên rảnh rỗi, với giá thuê thường thấp hơn so với phòng khách sạn Người thuê không chỉ tiết kiệm chi phí mà còn được sử dụng các tiện ích như bếp và máy giặt mà không bị tính thêm phí, hoặc với chi phí thấp hơn so với dịch vụ khách sạn Lợi thế này đã giúp Airbnb phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu, cạnh tranh quyết liệt với các dịch vụ khách sạn truyền thống, đặc biệt trong phân khúc tầm thấp và trung Tại Việt Nam, Luxstay là một đại diện tiêu biểu, được đầu tư bởi quỹ Nhật Genesia Ventures.

1.2.4 Dịch vụ thuê chung xe

Nếu Airbnb là đại diện tiêu biểu cho dịch vụ cho thuê nhà, thì Uber và Grab nổi bật trong lĩnh vực thuê chung xe tại Việt Nam, đã tạo ra một cuộc cách mạng trong thói quen sử dụng xe của người dân Hai công ty này tận dụng nguồn tài nguyên ô tô và xe gắn máy chưa được khai thác, đồng thời tạo ra cơ hội việc làm cho cộng đồng Ban đầu, Uber chỉ cung cấp xe hạng sang, nhưng sau đó đã mở rộng sang các loại xe bình dân, SUV và dịch vụ vận chuyển khác Mức giá của Uber thường cạnh tranh hơn so với các dịch vụ truyền thống, và hiện tại, giá trị của Uber đã đạt 18,2 tỷ USD.

Mô hình dịch vụ gọi xe hiện đại cho phép chủ sở hữu ô tô và xe máy đăng ký trên nền tảng, thực hiện bài kiểm tra khả năng lái xe Khách hàng sử dụng ứng dụng Uber để đặt xe, chọn địa điểm đi và đến, sau đó ứng dụng sẽ tự động tìm phương tiện gần nhất Khi kết nối, lái xe và khách hàng liên lạc để xác nhận điểm đón qua điện thoại Sau chuyến đi, cả hai bên có thể đánh giá lẫn nhau, giúp tăng cường sự minh bạch và chất lượng dịch vụ Khách hàng biết trước chi phí chuyến đi, giảm thiểu rủi ro bị chèn ép giá so với taxi truyền thống Uber và Grab đã xây dựng đội ngũ lái xe lớn mà không cần đầu tư nhiều như taxi truyền thống, nhờ vào việc tận dụng lực lượng lái xe nhàn rỗi Ngoài Uber và Grab, nhiều hãng xe khác tại Việt Nam như GoViet và Be cũng đang nỗ lực cạnh tranh trong thị trường này.

1.2.5 Hoạt đông thuê không gian làm việc chung (Coworking)

Trước tình hình nguồn cung văn phòng hạn chế và nhu cầu ngày càng tăng, đặc biệt là sự bùng nổ của xu hướng khởi nghiệp, không gian làm việc chung đã trở thành một giải pháp hiệu quả tại Việt Nam trong những năm gần đây.

Theo JLL, một công ty bất động sản hàng đầu của Mỹ, nhu cầu doanh nghiệp đối với không gian làm việc chung được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố quan trọng như tính linh hoạt trong việc điều chỉnh số lượng nhân viên, dịch vụ tiện lợi, môi trường làm việc sáng tạo và hỗ trợ đồng đội, cùng với tính cộng đồng từ các hoạt động và sự kiện Bên cạnh đó, mô hình này còn mang lại hiệu quả chi phí cao Nhờ những ưu điểm này, không gian làm việc chung đã thu hút sự quan tâm mạnh mẽ từ cộng đồng khởi nghiệp và người làm nghề tự do.

JLL Việt Nam dự báo rằng đến năm 2030, khoảng 30% danh mục đầu tư của các công ty sẽ bao gồm không gian làm việc chung Mặc dù không gian linh hoạt ban đầu được thiết kế cho người lao động tự do và khởi nghiệp, các nhà điều hành đang điều chỉnh sản phẩm của họ để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp Ông Stephen Wyatt, Tổng giám đốc JLL Việt Nam, nhận định rằng loại hình này có tiềm năng phát triển lớn tại Việt Nam và dự đoán xu hướng này sẽ tiếp tục mạnh mẽ trong 5 năm tới.

Thương mại trong nền kinh tế chia sẻ đang phát triển mạnh mẽ, với eBay là một trong những nhà tiên phong trong lĩnh vực thị trường ngang hàng Nền tảng này cho phép người dùng mua và bán hàng hóa đã qua sử dụng hoặc mới, cung cấp giao diện dễ sử dụng và hỗ trợ vận chuyển trực tiếp đến nhà Người tiêu dùng có thể tìm kiếm nhiều sản phẩm với giá cả và điều kiện khác nhau, tạo cơ hội cho bất kỳ ai trở thành người bán, không chỉ riêng các doanh nghiệp Điều này không chỉ trao quyền cho người tiêu dùng mà còn mang lại sự thuận tiện và hiệu quả trong việc mua sắm Tại Việt Nam, mô hình này cũng đang phát triển với sự nổi bật của các trang điện tử như Shopee, Chotot, Vatgia, góp phần thay đổi thói quen mua sắm của người dân.

1.2.7 Chia sẻ tài năng và kiến thức (Knowledge and Talent Sharing)

Mô hình chia sẻ kinh tế không chỉ giới hạn ở các sản phẩm tiêu dùng như nhà nghỉ, xe đạp và quần áo, mà còn mở rộng ra nhiều nguồn lực khác như con người, kiến thức và kỹ năng.

Các nền tảng như TaskRabbit và Zaarly cho phép người dùng chia sẻ thời gian và kỹ năng để cung cấp dịch vụ như dọn dẹp, thiết kế nội thất và chăm sóc vườn cho những người cần giúp đỡ LivePerson kết nối người cung cấp dịch vụ cao cấp như tư vấn tâm lý và hỗ trợ kỹ thuật với những người có nhu cầu UpWork cho phép người dùng chia sẻ nhiều kỹ năng khác nhau với những người cần nhưng thiếu thời gian hoặc kiến thức Điều này không chỉ giúp người sử dụng dịch vụ tiết kiệm chi phí mà còn giúp người cung cấp dịch vụ tăng thu nhập từ kỹ năng và thời gian của họ.

Mô hình này cũng đang sẵn có ở Việt Nam với sự góp mặt của các trang web như 50k.vn, Freelancerviet, Vlance, …

1.2.8 Dịch vụ mô hình kinh tế chia sẻ ngách (Cho thuê xe đạp)

Kinh tế chia sẻ không chỉ xuất hiện ở những mô hình lớn mà còn hiện diện trong các thị trường ngách nhỏ nhưng quan trọng Ví dụ, Spinlister cho phép người dùng thuê xe đạp dễ dàng khi đi du lịch hoặc cần phương tiện di chuyển, giúp chủ sở hữu xe kiếm thêm thu nhập thụ động và tạo điều kiện cho những người không có xe đạp có thể trải nghiệm Tương tự, DogV hỗ trợ người dùng tìm kiếm nơi chăm sóc thú cưng, như nhà của những người yêu chó khác, giúp họ yên tâm hơn khi đi xa.

Động cơ thúc đẩy kinh tế chia sẻ

1.3.1 Sự phát triển của công nghệ

Nền kinh tế chia sẻ đang ngày càng trở nên phổ biến không chỉ trong giới trẻ mà còn ở độ tuổi trung niên tại Việt Nam Nó tạo ra cơ hội cho hàng triệu người sáng tạo và đổi mới, khai thác nguồn khách hàng mới và phát triển các phương thức làm việc hiện đại Từ vay mượn, mua bán đến thuê nhà và xe, nền kinh tế này đang phát triển mạnh mẽ nhờ vào công nghệ Sự đột phá và tiện lợi của công nghệ đã giúp nhiều người tiếp cận với các ứng dụng cao cấp, từ đó tham gia vào nền kinh tế chia sẻ Công nghệ chính là nền tảng cho sự hình thành và phát triển nhanh chóng của các mô hình kinh doanh chia sẻ.

Công nghệ hiện đại không chỉ gia tăng sự phổ biến của nền kinh tế chia sẻ mà còn nâng cao chất lượng dịch vụ thông qua việc dễ dàng đánh giá hàng hóa và dịch vụ Người dùng chỉ cần một cú nhấp chuột để chấm điểm tài xế hoặc để lại nhận xét về nơi lưu trú trên Airbnb Phản hồi nhanh chóng từ khách hàng giúp người cung cấp dịch vụ nhận diện những điểm cần cải thiện và chú trọng hơn đến danh tiếng của mình Điều này mang lại lợi ích lớn cho người tiêu dùng, khiến họ cảm thấy tin cậy và ưa thích hơn Nền kinh tế chia sẻ đang mở ra một loại hình dịch vụ khách hàng mới, với đánh giá trực tuyến trở thành trung tâm của trải nghiệm Nhờ công nghệ, các tương tác cá nhân trở nên nổi bật và quan trọng hơn bao giờ hết.

Sự gia tăng nhu cầu kết nối qua mạng xã hội đã góp phần quan trọng vào hiện tượng kinh tế chia sẻ Ngày nay, mọi người có nhiều lựa chọn để tương tác, không chỉ qua hình thức trực tiếp hay ứng dụng đơn giản như trước đây Các phương tiện truyền thông giúp chúng ta phát triển khả năng kết nối, thuyết phục và tin tưởng những người chưa quen biết Sự quảng bá rộng rãi đã làm cho khái niệm kinh tế chia sẻ trở nên quen thuộc với cả những người tiêu dùng lớn tuổi, khuyến khích họ khám phá các dịch vụ và sản phẩm mới Theo chuyên gia Luis Tamayo, thành công của các doanh nghiệp trong mô hình này phụ thuộc vào việc xây dựng niềm tin từ người tiêu dùng, đặc biệt khi họ chưa từng sử dụng dịch vụ trước đó Tuy nhiên, chỉ số hài lòng của họ sẽ tăng lên đáng kể sau khi trải nghiệm sản phẩm hoặc dịch vụ.

Nền kinh tế chia sẻ không chỉ mang đến cơ hội kinh doanh mà còn tạo dựng mối quan hệ xã hội, thúc đẩy sự tham gia của người tiêu dùng Airbnb đã thành công trong việc xây dựng thương hiệu thông qua việc kết nối cộng đồng và giúp du khách trải nghiệm cuộc sống như người địa phương Dịch vụ của họ cho phép khách du lịch tương tác với chủ nhà, từ đó tạo ra những trải nghiệm phong phú và có thể nhận được sự hướng dẫn từ người bản địa Theo Priporas, tương tác xã hội là yếu tố then chốt trong mô hình kinh doanh của Airbnb, ảnh hưởng lớn đến sự hài lòng của khách hàng Tussyadiah và Pesonen cũng nhấn mạnh rằng du khách mong muốn mở rộng mối quan hệ với cộng đồng địa phương thông qua việc sử dụng dịch vụ chia sẻ Cuối cùng, Ikkala và Lampinen chỉ ra rằng mặc dù kiếm tiền là lý do tham gia của chủ nhà, nhưng chính khía cạnh xã hội mới là yếu tố giữ chân họ trong nền kinh tế chia sẻ.

1.3.3 Tình hình kinh tế khó khăn

Tiền là yếu tố chính thúc đẩy người tiêu dùng tham gia vào kinh tế chia sẻ, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu gần đây Julio Gisbert, tác giả cuốn "Sống không có việc làm", cho rằng với nguồn lực hạn chế, việc chia sẻ thay vì mua mới trở thành lựa chọn hợp lý cho nhiều người Ông nhấn mạnh rằng khủng hoảng kéo dài và cắt giảm ngân sách của chính phủ đã làm suy yếu hệ thống phúc lợi, dẫn đến sự phát triển của các công ty khởi nghiệp trong mô hình kinh tế chia sẻ, giúp giải quyết những vấn đề mà phúc lợi nhà nước chưa thể đáp ứng.

Khủng hoảng đã thúc đẩy nền kinh tế chia sẻ nhờ nhận thức ngày càng cao về tầm quan trọng của tiết kiệm Người tiêu dùng tham gia vào kinh tế chia sẻ với mong muốn tiết kiệm chi phí hoặc kiếm thêm thu nhập, đồng thời vẫn trải nghiệm dịch vụ và hàng hóa với giá trị tương đương Nền kinh tế chia sẻ đã tạo ra một khối lượng của cải lớn (Frenken, & Schor, 2017) Yếu tố kinh tế được xem là điều kiện tiên quyết cho mô hình này, trong đó "tiết kiệm chi phí" được xác định là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến quyết định tham gia vào kinh tế chia sẻ (4,56), tiếp theo là quan niệm coi trọng việc chia sẻ hơn là sở hữu (4,44) theo nghiên cứu của Léonel Matar và Georges Aoun.

Trong cuộc khảo sát, hơn 60% người tham gia nhận thấy nền kinh tế chia sẻ mang lại cơ hội gia tăng thu nhập Lamberton và Rose chỉ ra rằng lợi ích về chi phí từ việc chia sẻ là yếu tố quyết định chính ảnh hưởng đến sự tham gia của người tiêu dùng vào mô hình này.

Bardhi và Eckhardt chỉ ra rằng việc chia sẻ phương tiện giao thông mang lại nhiều ưu đãi kinh tế hơn Giá cả phải chăng của Airbnb là yếu tố chính thu hút người tiêu dùng lựa chọn dịch vụ của công ty này, với giá cước thường rẻ hơn từ 30-60% so với khách sạn toàn cầu Điều này đã tạo ra tác động lớn đến ngành công nghiệp khách sạn truyền thống Rõ ràng, lợi ích kinh tế là một điểm mạnh nổi bật của nền kinh tế chia sẻ so với nền kinh tế truyền thống.

Nghiên cứu của Van de Glind chỉ ra rằng lý do chính mà các chủ nhà sử dụng Airbnb là để kiếm thêm thu nhập Với nhu cầu và chi phí sinh hoạt ngày càng tăng, nhiều người cảm thấy cần thiết phải tăng thu nhập hoặc tiết kiệm tiền qua nhiều hình thức khác nhau Sự phong phú của hàng hóa và dịch vụ hiện có cho phép cá nhân tham gia vào nền kinh tế sản xuất mà không cần qua các kênh truyền thống Theo Wadhwa (2018), hàng nghìn tỷ đô la tài sản trên toàn cầu vẫn chưa được khai thác hiệu quả Thêm vào đó, dữ liệu từ Viện Brookings cho thấy các phương tiện cá nhân thường không được sử dụng đến 95% thời gian Do đó, nền kinh tế chia sẻ còn nhiều tiềm năng để phát triển và hoàn thiện trên toàn thế giới.

1.3.4 Sự bấp bênh trong giá cả các nguồn tài nguyên thiên nhiên

Nhiều tác giả, như Halina S Brown và Philip J Vergragt, trong bài tiểu luận 'Đổi mới trong tiêu dùng bền vững' (2014), cho rằng yếu tố môi trường có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nền kinh tế chia sẻ Thế hệ Y, sinh từ 1982 đến 2000, là thế hệ cảm nhận rõ rệt sự khan hiếm nguồn lực kinh tế và sẵn sàng giúp đỡ người khác tạo ra sự khác biệt Đặc điểm nhạy cảm, nhanh nhạy và kết nối cộng đồng của thế hệ này đã góp phần quan trọng vào thành công của mô hình kinh tế chia sẻ.

Heinrichs lập luận rằng phong cách sống chia sẻ giúp giảm chủ nghĩa tiêu dùng quá mức, cải thiện sự gắn kết xã hội và giảm thiểu việc sử dụng tài nguyên Khi chuyển từ sở hữu tư nhân sang chia sẻ, nhu cầu về hàng tiêu dùng sẽ giảm, dẫn đến sự ra đời của một nền kinh tế mới có thể giải quyết các vấn đề ô nhiễm và sử dụng năng lượng quá mức Tiêu dùng hợp tác cũng giảm tác động tiêu cực đến môi trường bằng cách giảm lãng phí tài nguyên nhàn rỗi Theo Hamari và các cộng sự, động lực tham gia tiêu dùng hợp tác là sự bền vững, xuất phát từ mong muốn trở thành người tiêu dùng có trách nhiệm hơn với môi trường.

Mô hình kinh tế chia sẻ có tác động tích cực đến tài nguyên, như được minh họa bởi Hamari et al (2015), cho thấy rằng nền kinh tế chia sẻ tối ưu hóa việc phân bổ tài nguyên.

Nghiên cứu năm 2013 đã chỉ ra rằng việc tăng cường sử dụng dịch vụ đi chung xe có thể làm giảm tỷ lệ sở hữu xe cá nhân, từ đó giảm lượng xăng dầu tiêu thụ và khí thải carbon dioxide Các học giả như Jeremy Rifkin (2015), Martin và cộng sự (2010), cùng với Firnkorn và cộng sự (2011) đều đồng tình với quan điểm này Tuy nhiên, một số nghiên cứu, như của Yuliya Voytenko et al., lại đưa ra những quan điểm trái ngược về tác động của việc sử dụng dịch vụ đi chung xe đối với khí thải nhà kính.

Nghiên cứu năm 2015 cho thấy khí thải nhà kính từ các nền tảng chia sẻ chỗ ở như Home Exchange và Couchsurfing không khác biệt nhiều so với ngành khách sạn truyền thống Hơn một phần ba người tham gia khảo sát cho biết họ có xu hướng kéo dài kỳ nghỉ khi sử dụng các dịch vụ P2P, điều này có thể tạo thêm áp lực lên môi trường địa phương Schor (2014) cũng chỉ ra rằng dịch vụ đi xe giá rẻ có thể khuyến khích người dân di chuyển nhiều hơn, dẫn đến gia tăng lượng khí thải carbon.

Nội dung phát triển mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch

1.4.1 Xây dựng mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch

Phần này sẽ tập trung vào việc xây dựng mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch, dựa trên những lý luận cơ bản về khái niệm, loại hình và các yếu tố ảnh hưởng đã được trình bày trước đó.

Hình 1.2: Mô hình kinh tế chia sẻ căn bản

Mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch bao gồm ba yếu tố chính: người sử dụng, nhà cung cấp dịch vụ và nền tảng Người sử dụng là khách du lịch, trong khi nhà cung cấp dịch vụ gồm cá nhân và tổ chức sở hữu tài sản dư thừa, như người dân địa phương làm hướng dẫn viên du lịch nghiệp dư, chủ nhà cho thuê chỗ ở, hoặc những người có phương tiện đi lại muốn chia sẻ với khách du lịch Nền tảng là yếu tố then chốt, giúp kết nối người sử dụng dịch vụ và nhà cung cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm hiểu và giao dịch trong ngành du lịch.

Mô hình cho thuê nhà và đi chung xe cho phép khách du lịch đưa ra yêu cầu trên nền tảng trực tuyến, từ đó tìm kiếm và lọc ra các nhà cung cấp dịch vụ phù hợp Khách có thể lựa chọn chủ nhà hoặc tài xế dựa trên dịch vụ tốt nhất và khả năng tài chính của mình Sau khi thống nhất các điều khoản như số ngày thuê, giá cả và phương thức thanh toán, khách du lịch cần chi trả đầy đủ theo thỏa thuận Họ cũng có thể để lại đánh giá và kinh nghiệm để hỗ trợ những khách sau có trải nghiệm tốt hơn.

Trong mô hình dịch vụ cho thuê nhà và đi chung xe, nhà cung cấp đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và nhận được giá trị vật chất lẫn tinh thần từ sự đánh giá cao của khách hàng Những đánh giá tích cực từ khách du lịch trước đó tạo dựng lòng tin cho khách hàng mới Đồng thời, mối quan hệ giữa nền tảng và khách du lịch cũng như giữa nền tảng và nhà cung cấp dịch vụ rất quan trọng Các trang web cho thuê nhà, đi chung xe và hướng dẫn viên du lịch cần phải liên tục cập nhật danh sách và tiếp cận thị trường, đảm bảo khách hàng và nhà cung cấp dịch vụ cảm thấy an tâm khi lựa chọn nền tảng trực tuyến của họ.

Tìm kiếm và duy trì nguồn cung

Trong ngành du lịch, việc xây dựng nền tảng kinh tế chia sẻ không chỉ phụ thuộc vào việc tạo ra nguồn cầu mạnh mẽ mà còn cần chú trọng đến việc duy trì tính ổn định của các nhà cung cấp Một trang web cung cấp chỗ ở cho khách du lịch cần thiết lập cơ sở hạ tầng vững chắc tại địa điểm du lịch trước khi thu hút khách hàng Nếu trang web chỉ có vài căn nhà đơn lẻ và nội dung nghèo nàn, chắc chắn sẽ không thu hút được người du lịch tìm kiếm thông tin hoặc sẵn sàng chi trả.

Để tìm kiếm và duy trì nguồn cung lớn trong mô hình kinh tế chia sẻ ngành du lịch, doanh nghiệp cần áp dụng nhiều chiến lược như tối ưu hóa thông tin trên website để xuất hiện trên các công cụ tìm kiếm, sử dụng quảng cáo qua bên thứ ba, xây dựng mối quan hệ công chúng, tận dụng cơ hội báo chí và khuyến khích truyền miệng qua các chương trình giới thiệu Doanh nghiệp cần có hiểu biết sâu sắc về tiếp thị để kết nối hiệu quả giữa bên cung và cầu Nguồn cung không chỉ đến từ các chuỗi khách sạn truyền thống mà chủ yếu từ cá nhân cho thuê, được kết nối thông qua các nền tảng trung gian như Airbnb Việc đào tạo nhân viên cũng là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng dịch vụ.

Nền kinh tế chia sẻ cho phép nhiều người tham gia, mang lại lợi ích kinh tế và xã hội đáng kể Tuy nhiên, không phải ai cũng thực hiện tốt vai trò của mình trong mô hình này Những người thiếu chuyên nghiệp và đào tạo có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh doanh nghiệp Điều này đặc biệt quan trọng trong ngành du lịch, nơi dịch vụ khách hàng và trải nghiệm của khách là yếu tố then chốt Do đó, việc đào tạo nhân viên là cần thiết để xây dựng doanh nghiệp thành công trong nền kinh tế chia sẻ.

Để xây dựng một hệ thống đào tạo và quản lý nhân viên hiệu quả, các doanh nghiệp có thể áp dụng nhiều phương pháp khác nhau Chẳng hạn, Trip.me, một công ty kết nối du khách với hướng dẫn viên địa phương, có thể thực hiện các bài đánh giá bao gồm kiểm tra lý lịch, xác minh tài khoản xã hội, và đào tạo trực tuyến để đảm bảo rằng các hướng dẫn viên có đủ năng lực và kinh nghiệm phục vụ khách hàng Sau khi hoàn thành kiểm tra ban đầu, công ty có thể thu thập thông tin như hình ảnh và dữ liệu chuyến đi, cũng như liên lạc với khách hàng và hướng dẫn viên để đảm bảo mọi yêu cầu được đáp ứng.

Niềm tin của khách hàng là yếu tố thiết yếu cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt là trong mô hình kinh tế chia sẻ Để xây dựng niềm tin này, các doanh nghiệp cần hợp tác với bên thứ ba như công ty bảo hiểm, ví dụ như AirBnb cung cấp gói bảo hiểm cho chủ nhà để bảo vệ tài sản khỏi hư hại Bên cạnh đó, việc cung cấp bảo hiểm du lịch cũng giúp khách hàng yên tâm hơn khi tham gia các dịch vụ Đánh giá và xếp hạng trực tuyến là một công cụ hiệu quả để củng cố niềm tin và thu hút khách hàng tiềm năng, với tính minh bạch là yếu tố then chốt Các ứng dụng như Uber và Grab cho phép khách hàng đánh giá tài xế, trong khi AirBnb khuyến khích người thuê nhà để lại phản hồi về trải nghiệm của họ, từ đó giúp người tiêu dùng có cái nhìn rõ ràng hơn về dịch vụ.

Một yếu tố quan trọng giúp các doanh nghiệp mô hình kinh tế chia sẻ phát triển là hệ thống thanh toán Để hoạt động hiệu quả, các doanh nghiệp này cần thiết lập một hệ thống thanh toán bảo mật, an toàn và tiện lợi Ngành du lịch toàn cầu đã chuyển sang sử dụng thẻ tín dụng và ứng dụng thanh toán thay cho tiền mặt, tạo ra một quy trình hoàn toàn không giấy tờ và tự động.

Mô hình kinh tế chia sẻ mang lại lợi thế về giá cả cho doanh nghiệp, vì người tham gia có thể tiết kiệm chi phí bằng cách sử dụng dịch vụ chung với những người có nhu cầu tương tự Điều này giúp họ tránh phải đầu tư một khoản tiền lớn để sở hữu tài sản hay vật chất Các ví dụ điển hình cho lợi thế này bao gồm dịch vụ đi chung xe và thuê nhà chung.

Tập trung vào xây dựng thương hiệu

Doanh nghiệp mô hình kinh tế chia sẻ thành công cần thu hút cộng đồng tham gia và chia sẻ dịch vụ của mình Để xây dựng thương hiệu hiệu quả, các nhà điều hành cần tổ chức các chiến dịch tiếp thị mạnh mẽ, đầu tư vào chương trình khuyến mãi và tận dụng truyền thông đại chúng cùng mạng xã hội Ví dụ, Uber và Grab đã chi tiêu lớn cho quảng bá thương hiệu, sử dụng người nổi tiếng và thực hiện các chiến dịch khuyến mãi để vượt qua đối thủ Điều này là thách thức đối với các công ty truyền thống do thiếu nguồn vốn đầu tư lớn Trong khi đó, các công ty du lịch như Trip.me có thể tạo ra sự lan tỏa bằng cách kêu gọi khách hàng chia sẻ trải nghiệm du lịch, từ đó nâng cao hình ảnh thương hiệu và truyền cảm hứng cho khách hàng tiềm năng.

1.4.2 Phát triển mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch

Để duy trì và phát triển bền vững kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch, cần nghiên cứu và cải thiện mô hình hiện tại Doanh nghiệp phải tiếp tục tìm kiếm nguồn cung, tổ chức và nâng cao chương trình đào tạo nhân viên, đồng thời tập trung vào việc xây dựng niềm tin của khách hàng và phát triển thương hiệu Những nỗ lực này sẽ giúp giữ vững thành quả đã đạt được và mở rộng hoạt động công ty trong tương lai.

Kinh tế chia sẻ phát triển mạnh mẽ nhờ vào nền tảng trực tuyến và sự tiến bộ của công nghệ Với sự bùng nổ của internet và các tiện ích công nghệ tại các thành phố lớn, việc xây dựng trang web hoặc ứng dụng trong ngành du lịch trở nên đơn giản hơn Tuy nhiên, sự dễ dàng này cũng dẫn đến mức độ cạnh tranh cao trong lĩnh vực này Để nổi bật, các công ty cần tạo ra giao diện thân thiện, áp dụng chức năng phân tích và tìm kiếm khách hàng, đảm bảo bảo mật và thanh toán nhanh chóng Do đó, việc phát triển tài sản công nghệ là yếu tố quan trọng giúp cung cấp trải nghiệm trực tuyến tốt nhất cho khách hàng.

Kinh tế chia sẻ, dựa trên nền tảng công nghệ, thu hút chủ yếu từ thế hệ trẻ, những người nhanh nhạy với cái mới và coi trọng trải nghiệm hơn là sở hữu Đặc điểm này giúp kinh tế chia sẻ nhanh chóng được chấp nhận trong xã hội Ngành du lịch, với tính chất nhấn mạnh vào trải nghiệm của người du lịch, có tiềm năng phát triển mạnh mẽ từ mô hình kinh tế chia sẻ Để duy trì và phát triển, cần tập trung vào việc quảng bá hàng hóa và dịch vụ du lịch đến đối tượng trẻ và có tư duy mở thông qua các kênh truyền thông và tiếp thị trực tuyến.

Kinh nghiệm phát triển mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch của một số quốc gia trên thế giới – Bài học kinh nghiệm cho ngành du lịch Việt Nam

1.6.1 Kinh nghiệm phát triển mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch của một số quốc gia trên thế giới

Nền kinh tế chia sẻ, khởi đầu từ năm 1995 tại Mỹ, đã phát triển từ mô hình “chia sẻ ngang hàng” nhưng chưa rõ ràng.

Dịch vụ website thông tin cho thuê quảng cáo đã ra đời, giúp người tìm việc và nhà tuyển dụng kết nối hiệu quả Qua đó, cá nhân có thể tìm kiếm cơ hội việc làm và kiếm tiền từ quảng cáo.

Mô hình kinh tế chia sẻ đã bùng nổ mạnh mẽ từ khi nền kinh tế Mỹ gặp khủng hoảng vào năm 2008, buộc người dân phải điều chỉnh thói quen tiêu dùng để thích ứng với tình hình khó khăn.

Mô hình kinh tế chia sẻ, thông qua việc sử dụng các ứng dụng công nghệ để chia sẻ tài nguyên sẵn có, đã nhanh chóng phát triển và mở rộng ra ngoài biên giới Mỹ, lan tỏa khắp châu Âu và toàn cầu nhờ những tiện ích và lợi nhuận mà việc cho thuê và sử dụng tài nguyên mang lại.

Nhiều tên tuổi thành công như Airbnb, Uber, RabbitTask đã tạo dấu ấn mạnh mẽ trong lĩnh vực chia sẻ và cho thuê Kể từ khi ra mắt vào năm 2008, Airbnb.com đã thu hút hàng chục nghìn địa điểm lưu trú trên toàn cầu, bao gồm 3.000 lâu đài và biệt thự, 2.000 căn hộ ngoài trời cùng 900 hòn đảo Đến năm 2015, giá trị của Airbnb đã đạt khoảng 20 tỷ USD Năm 2016, nhiều dịch vụ chia sẻ và cho thuê khác cũng phát triển mạnh mẽ, cung cấp đa dạng sản phẩm từ máy nông nghiệp, thiết bị công nghiệp, cho đến đồ chơi, thiết bị thể thao, cho vay tiền, chăm sóc thú cưng, cho thuê xe tự lái và nhiều dịch vụ khác.

Nền kinh tế chia sẻ mang lại nhiều lợi ích đáng kể, bao gồm tiết kiệm chi phí, bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm lãng phí tài nguyên xã hội và tối ưu hóa công năng của các sản phẩm dịch vụ.

Mô hình nền kinh tế chia sẻ đang sở hữu tiềm năng phát triển mạnh mẽ trong tương lai, không chỉ dừng lại ở vai trò một thị trường ngách hay hiện tượng nhất thời, mà còn trở thành xu hướng chủ đạo trong môi trường kinh doanh toàn cầu.

Mô hình nền kinh tế chia sẻ mang lại nhiều lợi ích nhưng cũng đối mặt với nhiều mối lo ngại, đặc biệt là vấn đề tính pháp lý Những thách thức về khung pháp lý cho mô hình kinh doanh này bao gồm cạnh tranh "không công bằng", điều này đang khiến các cơ quan quản lý ở nhiều quốc gia gặp khó khăn trong việc điều chỉnh.

Việc trốn thuế của các công ty trong “nền kinh tế chia sẻ” đang trở thành mối quan tâm lớn của Chính phủ các quốc gia, đặc biệt khi lợi nhuận của họ ước tính đạt con số khổng lồ, nhất là sau sự kiện “hồ sơ Panama” Những công ty này vẫn duy trì hình thức công ty tư nhân, cho phép họ linh hoạt trong việc điều chỉnh hoạt động mà không cần báo cáo số liệu với cổ đông, không bị kiểm toán độc lập và không có sự giám sát tài chính.

Từ năm 2012, Singapore đã trở thành điểm đến hấp dẫn cho nhiều doanh nghiệp ứng dụng kinh tế chia sẻ, mở trụ sở tại đây Thành phố này được biết đến như một nơi sẵn sàng chào đón những đổi mới và sáng tạo trong lĩnh vực kinh doanh.

Sự xuất hiện của Uber đã thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ tại Singapore, mở ra cơ hội cho các công ty nội địa như iCarsClub, một startup cung cấp dịch vụ thuê xe cho phép chủ sở hữu xe kiếm thêm thu nhập Sự gia tăng sử dụng các dịch vụ này đã dẫn đến việc sở hữu xe tư nhân ở Singapore giảm xuống mức thấp nhất trong 8 năm qua.

Sự phát triển của kinh tế chia sẻ không chỉ hứa hẹn giảm lượng khí thải carbon mà còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm bán thời gian Tuy nhiên, sự gia tăng này cũng dẫn đến những hệ lụy không mong muốn.

Sự phát triển của Uber và Grab đang dần chiếm lĩnh thị trường taxi nội địa, khiến hơn 1.600 taxi ở Singapore rơi vào tình trạng nhàn rỗi Tình hình tương tự cũng xảy ra với các khách sạn và nhà nghỉ khi có tới hơn 6.000 địa điểm đăng ký trên Airbnb tại Singapore, gây ảnh hưởng lớn đến doanh thu của các khách sạn trong nước Kết quả là doanh thu của các khách sạn này liên tục giảm từ 4-5% trong giai đoạn từ 2014 đến 2018.

Các công ty công nghệ như Uber đang phải đối mặt với nhiều chỉ trích liên quan đến tính an toàn và quyền lợi của người dùng Cụ thể, Uber bị lên án vì đã bóc lột người lái xe, khi họ không được đảm bảo lương tối thiểu và các quyền lao động thiết yếu khác.

Airbnb bị phản đối vì không có đủ nhà cho thuê giá rẻ và sự gia tăng của các nhà nghỉ trái phép

Nếu không được quản lý hiệu quả, các công ty có thể khiến Singapore đối mặt với tình trạng bất công và bóc lột lao động, dẫn đến sự biến mất của nhiều việc làm Thay vì mang lại lợi nhuận khổng lồ, kinh tế chia sẻ có thể gia tăng bất bình đẳng, khi mà các ông chủ ngày càng giàu có trong khi người lao động lại phải chịu thiệt thòi với ít quyền lợi, cuộc sống bấp bênh và mức lương thấp.

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH KINH TẾ CHIA SẺ

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH KINH TẾ CHIA SẺ

Ngày đăng: 30/03/2022, 10:47

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
4. Bùi Xuân Lưu, Nguyễn Hữu Khải (2006). Giáo trình kinh tế Ngoại thương - Nhà xuất bản Lao động - Xã hội.Tiếng Anh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình kinh tế Ngoại thương - Nhà xuất bản Lao động - Xã hội
Tác giả: Bùi Xuân Lưu, Nguyễn Hữu Khải
Nhà XB: Nhà xuất bản Lao động - Xã hội." Tiếng Anh
Năm: 2006
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2018. Hơn 10 triệu lượt khách quốc tế đến iệt Nam trong tháng năm 201 . Trích từ http://www.dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/hon-10-trie-u-luo-t-kha-ch-quo-c-te-de-n-vie-t-nam-trong-8-tha-ng-nam-2018-495905.html Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hơn 10 triệu lượt khách quốc tế đến iệt Nam trong tháng năm 201
1. Việt Cường & Chí Trung (2017, 12 31). 2017 - Năm bứt phá của ngành du lịch Việt Nam. Trích từ https://vtv.vn/kinh-te/2017-nam-but-pha-cua-nganh-du-lich-viet-nam-20171231142548451.htm Link
3. Nguyễn Thị Thu Hương (2017, 05 30). Thực trạng và giải pháp phát triển ngành Du lịch Việt Nam hiện nay. Trích từ Tạp chí Công Thương:http://www.tapchicongthuong.vn/bai-viet/thuc-trang-va-giai-phap-phat-trien-nganh-du-lich-viet-nam-hien-nay-47881.htm Link
4. Nguyễn Quốc Kỳ (2018, 08 02). Du lịch Việt Nam: Cơ hội và thách thức. Trích từ Báo Du lịch: http://baodulich.net.vn/Du-lich-Viet-Nam-Co-hoi-va-thach-thuc-2402-13863.html Link
7. Lê Thanh Thủy (2018, 12 30). Tạp chí Tài chính. Trích từ http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/cac-mo-hinh-kinh-te-chia-se-noi-bat-tren-the-gioi-va-van-de-dat-ra-voi-viet-nam-301338.html Link
8. OECD (2018), OECD Tourism Trends and Policies 2018, OECD Publishing, Paris. http://dx.doi.org/10.1787/tour-2018-en Link
9. Ross, B. (2017, 08 04). Information Age. Retrieved from https://www.information-age.com/5-ways-technology-affecting-sharing-economy-123467701/ Link
10. Rouse, M. (2018, 07). Teachtarget. Retrieved from https://searchcio.techtarget.com/definition/sharing-economy Link
11. Trivett, V.; Skift Staff. What the Sharing Economy Means to the Future of Travel. Skift Report. 2013. Available online: http://skift.com/wp- content/uploads/2014/07/skift-what-the-sharing-economy-means-to-thefuture-of-travel.pdf Link
1. Như Bình, 2017. Dịch vụ 'chia sẻ phòng' Airbnb lấy khách của khách sạn Khác
2. Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa (2004). Giáo trình kinh tế du lịch, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội Khác
1. Bardhi, F.; Eckhardt, G.M. Access-based consumption: The case of car sharing. J. Consum. Res. 2012, 39, 881–898 Khác
2. Glind, P. v. (2013, 08). The consumer potential of Collaborative Consumption. Utrecht University Khác
3. Hamari, J.; Sjửklint, M.; Ukkonen, A. The sharing economy: Why people participate in collaborative consumption. J. Assoc. Inf. Sci. Technol. 2016, 67, 2047–2059 Khác
4. Heinrichs, H. Sharing economy: A potential new pathway to sustainability. GAIA-Ecol. Perspect. Sci. Soc. 2013, 22, 228–231 Khác
5. Hira, A., & Reilly, K. (2017). The Emergence of the Sharing Economy: Implications for Development. Journal of Developing Societie Khác
6. Hong, J. (2018). Rise of the Sharing Economy and the Future of Travel and Tourism. Journal of Hotel & Business Management Khác
7. Ikkala, T.; Lampinen, A. Monetizing network hospitality: Hospitality and sociability in the context of Airbnb. In Proceedings of the 18th ACM Conference on Computer Supported Cooperative Work & Social Computing, Vancouver, BC, Canada, 14–18 March 2015; pp. 1033–1044 Khác
8. Juul, M. (2017). Tourism and the sharing economy. European Parliamentary Research Service Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1.1: Tổng đóng góp và đóng góp trực tiếp của ngành du lịch cho nền kinh tế  thế giới từ năm 2006 đến 2017 - (LUẬN văn THẠC sĩ) giải pháp phát triển mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch việt nam
Hình 1.1 Tổng đóng góp và đóng góp trực tiếp của ngành du lịch cho nền kinh tế thế giới từ năm 2006 đến 2017 (Trang 22)
Hình 1.2: Mô hình kinh tế chia sẻ căn bản - (LUẬN văn THẠC sĩ) giải pháp phát triển mô hình kinh tế chia sẻ trong ngành du lịch việt nam
Hình 1.2 Mô hình kinh tế chia sẻ căn bản (Trang 33)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN