1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP PHÂN TÍCH TẦM QUAN TRỌNG CỦA BIỂN ĐÔNG

85 23 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 85
Dung lượng 2,37 MB

Cấu trúc

  • LỜI MỞ ĐẦU

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài:

  • Chương 1:

  • 1.1 Vị trí của Biển Đông:

  • Chương 2:

  • 2.1 Vị thế biển Đông:

    • 2.1.1 Giới thiệu chung:

    • 2.1.2 Vị trí, Vị thế của biển đông trên bản đồ của châu á, thế giới:

      • 1. Vị thế tự nhiên:

      • 2. Vị thế địa ảnh hưởng đến kinh tế:

      • 3. Vị thế địa- chính trị:

    • 2.1.3 Vấn đề quan hệ khu vực vực và tận dụng tài nguyên biển:

      • A. Hợp tác thay cho đối đầu:

      • B. Việt Nam và việc tận dụng tài nguyên vị thế Biển Đông:

  • 2.2 Tầm quan trọng của thương mại biển Đông:

  • 2.3 An ninh trên Biển Đông:

  • Chương 3:

  • 3.1 Tầm quan trọng của Biển Đông đối với an ninh hàng hải và thương mại quốc tế:

    • 3.1.1 Đối với thương mại quốc tế:

    • 3.1.2 Đối với an ninh hàng hải:

  • 3.2 Tầm quan trọng của Biển Đông đối với các cường quốc trên thế giới:

    • 3.2.1 Tầm quan trọng của Biển Đông đối với Mỹ:

    • 3.2.2 Tầm quan trọng của Biển Đông đối với Trung Quốc:

    • 3.2.3 Tầm quan trọng của Biển Đông đối với Nhật Bản:

  • 3.3 Tầm quan trọng của Biển Đông đối với Việt Nam:

    • 3.3.1 Biển Đông giữ vai trò là vị trí địa - chiến lược của Việt Nam:

    • 3.3.2 Đối với nền kinh tế nước ta:

    • 3.3.3 Cung cấp một nguồn tài nguyên vô cùng phong phú:

  • 3.4 Quan điểm của Việt Nam về Biển Đông:

    • 3.4.1 Biển Đông – và vấn đề phát triển kinh tế biển:

    • 3.4.2 Quan điểm về chủ quyển và an ninh trên Biển Đông:

  • Kết luận:

  • Kiến nghị:

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP PHÂN TÍCH TẦM QUAN TRỌNG CỦA BIỂN ĐÔNG BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM ĐOÀN VĂN TRƯỜNG CAO VĂN TIÊN LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP PHÂN TÍCH TẦM QUAN TRỌNG CỦA BIỂN ĐÔNG

Tính cấp thiết của đề tài

Biển Đông là một trong những tuyến đường vận tải biển quốc tế nhộn nhịp nhất thế giới, đứng thứ hai về mức độ lưu thông Hàng ngày, khoảng 150 - 200 tàu các loại di chuyển qua khu vực này, trong đó có khoảng 50% là tàu có trọng tải trên 5.000 tấn và hơn 10% là tàu có trọng tải từ 30.000 tấn trở lên.

Khu vực Đông Á có nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và Trung Quốc phụ thuộc vào tuyến đường biển quan trọng này Trung Quốc vận chuyển khoảng 64% thương mại hàng hải qua Biển Đông, trong khi Nhật Bản chiếm 42% Biển Đông kết nối Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, Châu Âu với Châu Á, và Trung Đông với Châu Á, tạo thành một tuyến đường chiến lược cho thương mại toàn cầu.

Gần đây, Trung Quốc đã có những hành động gây gấn đáng lo ngại, bao gồm việc đưa dàn khoan dầu khí vào vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam, vạch ra đường lưỡi bò một cách vô lý, và xây dựng các đảo nhân tạo cùng trạm căn cứ quân sự trên Biển Đông Những hành động này không chỉ xâm chiếm các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà còn gây khó khăn cho ngư dân Việt Nam trong hoạt động đánh bắt cá gần khu vực này.

Nghiên cứu tầm quan trọng của Biển Đông là vấn đề cấp thiết giúp chúng ta hiểu rõ ý nghĩa của Biển Đông đối với Việt Nam Điều này nhắc nhở mỗi người Việt Nam cần phải gắn bó với biển, bảo vệ biển và tuyên truyền về chủ quyền biển đảo của Việt Nam, đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đến bạn bè quốc tế.

1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Tên đề tài luận văn: “Phân tích tầm quan trọng của Biển Đông” Luận văn được tập chung nghiên cứu những nội dung sau:

 Vị trí của Biển Đông.

 Vị thế của Biển Đông.

 Thương mại trên Biển Đông.

 An ninh trên Biển Đông.

 Tầm quan trọng của Biển Đông đối với an ninh hàng hải và thương mại quốc tế.

 Tầm quan trọng của Biển Đông đối với các cường quốc trên thế giới.

 Tầm quan trọng của Biển Đông đối với Việt Nam

 Quan điểm của Việt Nam về Biển Đông.

2 Phương pháp nghiên cứu khoa học:

Trong quá trình nghiên cứu luận văn nhóm, chúng em đã tham khảo và sử dụng các số liệu khảo sát từ các chuyên gia cũng như từ những đề tài luận văn nghiên cứu liên quan đến Biển Đông để làm phong phú thêm nội dung cho luận văn của mình.

Chúng tôi đã sưu tầm và nghiên cứu nhiều nguồn tài liệu về Biển Đông, sau đó chắt lọc và biến đổi những thông tin đó thành nội dung riêng để đưa vào đồ án của mình.

Bên cạnh đó còn có sự chỉ dẫn của Giáo viên phụ trách đã cùng chúng em xây dựng nên nội dung nghiên cứu về Biển Đông.

Vị trí của Biển Đông

Hình 1.1 Vị trí Biển Đông

Biển Đông, hay còn gọi là South China Sea, là một biển rìa lục địa nằm giữa eo biển Đài Loan và Singapore, thuộc khu vực Tây Thái Bình Dương Biển Đông có diện tích khoảng 3,5 triệu km², kéo dài từ vĩ tuyến 3 Bắc đến vĩ tuyến 26 Bắc và từ kinh tuyến 100 Đông đến kinh tuyến 121 Đông.

Biển Đông, tiếp giáp với 9 quốc gia và một vùng lãnh thổ, bao gồm Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Brunei, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Singapore, Campuchia và Đài Loan, là biển lớn thứ tư thế giới Với vị trí quan trọng về địa - chiến lược, địa - kinh tế và địa - chính trị, Biển Đông đã trở thành điểm nóng xung đột và tranh chấp giữa các quốc gia trong khu vực, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay.

Biển Đông là một tuyến đường hàng hải quan trọng, kết nối Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, cũng như giữa Châu Âu và Châu Á, Trung Đông và Châu Á Nơi đây có năm trong số mười tuyến đường biển lớn nhất thế giới, bao gồm tuyến từ Tây Âu và Bắc Mỹ qua Địa Trung Hải, kênh đào Suez, đến Trung Đông và Ấn Độ; tuyến Đông Á qua kênh đào Panama đến bờ Đông Bắc Mỹ và Caribe; tuyến Đông Á đi đến Úc và New Zealand, cùng với tuyến từ Tây Bắc Mỹ đến Đông Á và Đông Nam Á.

Việt Nam, quốc gia ven biển, có đường bờ biển dài khoảng 3.260 km, kéo dài từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Kiên Giang Trung bình, mỗi 100 km đất liền có khoảng 1 km đường bờ biển, và Việt Nam tiếp giáp với Biển Đông.

Biển Đông, với ba phía Tây Nam, Nam và Đông, ước tính có hàng nghìn đảo nhỏ, trung bình và lớn, bao gồm hơn 250 cấu trúc địa lý có diện tích khoảng 1km2 như rạn san hô, đảo san hô, rạn san hô vòng, bãi ngầm và bãi cạn Phần lớn các đảo này là hoang vắng, nhiều đảo bị ngập khi triều cường lên và một số chìm dưới nước Biển Đông có ba nhóm quần đảo lớn: Hoàng Sa, Trường Sa và Đông Sa ở phía Bắc, trong đó có hơn 2.570 hòn đảo Hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa giữa biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam, tạo thành phòng tuyến bảo vệ đất nước từ hướng biển.

Vị thế biển Đông

Biển Đông hiện nay được xác định theo ba tiêu chuẩn chính: vị trí địa lý, vị trí kinh tế và vị trí địa chính trị Về mặt kinh tế, Biển Đông là nguồn tài nguyên phong phú cho các quốc gia xung quanh, đồng thời là tuyến đường hàng hải quan trọng, tạo điều kiện giao thương toàn cầu Sự chênh lệch về tiềm lực kinh tế giữa các nước trong khu vực dẫn đến những cách ứng xử khác nhau đối với Biển Đông Về địa chính trị, vị trí chiến lược của Biển Đông đã khiến nơi đây trở thành điểm giao thoa của nhiều nền văn hóa và là tâm điểm của các cuộc xung đột trong lịch sử Để khai thác và bảo vệ hiệu quả tài nguyên biển, các quốc gia trong khu vực cần hợp tác thay vì đối đầu Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để quản lý và sử dụng hợp lý tài nguyên và vị thế của vùng biển thuộc chủ quyền của mình.

Vị trí chiến lược của Biển Đông, đặc biệt là khu vực biển Việt Nam, chiếm gần 1/3 tổng diện tích, mang lại nhiều giá trị quan trọng Việc nghiên cứu và đánh giá các tài nguyên liên quan đến vị thế này trên Biển Đông là rất cần thiết để hiểu rõ hơn về tiềm năng phát triển và bảo vệ tài nguyên biển.

Biển Đông nằm ở phía đông nam lục địa Châu Á, thuộc hệ thống biển rìa Tây Thái Bình Dương, với diện tích 3.537.000 km² và độ sâu trung bình 1.140 mét Biển này được bao quanh bởi các quần đảo Philippines và Indonesia ở phía Đông và Nam, và kết nối với Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương qua các eo biển Biển Đông có khí hậu nhiệt đới và xích đạo, giới hạn bởi vĩ tuyến 21 độ 10 phút bắc ở phía Bắc và vĩ tuyến 2 độ 3 phút nam ở phía Nam, mở rộng từ kinh tuyến 100 độ Đông đến kinh tuyến 120 độ Đông Khu vực này có sự hiện diện của mười quốc gia, bao gồm Trung Quốc, Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Singapore, Brunei, Philippines và Đài Loan, thể hiện vị thế quan trọng của Biển Đông trong hệ thống các biển nửa kín của thế giới.

Một số thông số, thông tin của biển đông khi so sánh với các biển khác

Bering okhot Nhật bản Địa trung hải Caribe Biển đông

Cận cực Ôn đới Ôn đới Cận nhiệt đới Nhiệt đới Nhiệt đới, xích đạo

Quốc gia, liên quốc gia

Quốc gia, liên quốc gia

Liên quốc gia Liên quốc gia, liên lục địa

Liên quốc gia, liên lục địa

Liên quốc gia, liên lục địa

Vừa phải Căng thẳng Rất căng thẳng

Bảng 2.1: Bảng thông số, thông tin của một số biển

Biển Đông là vùng biển có diện tích lớn nhất, với vai trò đặc biệt so với các biển quan trọng khác trên thế giới, như Biển Địa Trung Hải và Biển Caribbean Nếu không tính các biển hở như Biển Philippine (5,7 triệu km²) và Biển Ả Rập (4,8 triệu km²), Biển Đông vẫn thể hiện sự quan trọng của mình trong bảng so sánh diện tích các vùng biển.

2.1.2 Vị trí, Vị thế của biển đông trên bản đồ của châu á, thế giới:

Vị thế tự nhiên

Biển Đông hình thành khoảng 32 triệu năm trước, khi đáy tách giãn tạo ra biển rìa Điểm khác biệt của Biển Đông so với các biển khác là nằm ở ranh giới của ba mảng thạch quyển: Thái Bình Dương, Âu Á và Úc, thay vì hai mảng như thông thường Sự giao thoa này tạo ra nhiều đặc điểm địa chất và kiến tạo độc đáo, khiến Biển Đông cùng các vùng đất xung quanh trở nên đặc biệt.

Lãnh thổ Biển Đông là nơi giao thoa của hai đại tạo núi lớn, bao gồm Tây Thái Bình Dương và dãy núi ĐB - TN, cùng với Alpi Biển Đông tiếp nhận các dòng sông lớn như sông Mê Kông và sông Hồng, đứng thứ 9 và 14 thế giới Khu vực này còn sở hữu các thềm lục địa rộng lớn nhất thế giới, như thềm lục địa vịnh Bắc Bộ, Đông Nam Bộ - vịnh Thái Lan và thềm lục địa Sunda Ngoài ra, các quần đảo san hô và rạn san hô vòng tại trung tâm Biển Đông cũng nằm trong số những hệ sinh thái hàng đầu toàn cầu.

Về mặt sinh khoáng , Biển Đông và các lãnh thổ bao quanh là đầu giao nối của

Đại Thái Bình Dương và đại Địa Trung Hải là hai đại sinh khoáng nổi tiếng, nơi tập trung nhiều khoáng sản đặc trưng như thiếc, đồng, crôm, niken, than đá, chì-kẽm, sắt, nhôm và dầu khí.

Ranh giới của các mảng thạch quyển là điểm yếu nhất của vỏ Trái đất, tạo ra hai vành đai động đất và núi lửa lớn nhất thế giới Những khu vực này đã gây ra nhiều tổn thất cho cư dân xung quanh, đồng thời đặt ra thách thức lớn cho vị thế tự nhiên của khu vực.

Biển Đông, nằm trong khu vực nhiệt đới và xích đạo, nhận được lượng năng lượng mặt trời lớn, trung bình đạt 140 kcal/cm²/năm, tạo ra sinh khối phong phú hơn so với các vùng biển ôn đới và cận cực Khu vực này có thể chia thành hai miền khí hậu: miền Bắc và miền Nam Biển Đông, với ranh giới khoảng vĩ độ 14-15°B Miền Bắc, bao gồm quần đảo Hoàng Sa, có khí hậu nhiệt đới đại dương, không có mùa đông lạnh và ấm áp quanh năm Trong khi đó, miền Nam Biển Đông mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới xích đạo đại dương, với nhiệt độ cao và ít biến động theo mùa Biển Đông cũng là nơi hình thành nhiều cơn bão nhiệt đới từ Thái Bình Dương, gây ra nhiều hiểm họa lớn hàng năm.

Vào mùa gió Đông Bắc, khối nước từ Thái Bình Dương qua eo biển Đài Loan và Basi xâm nhập vào Biển Đông, sau đó lan truyền xuống vùng ven bờ Nam Trung.

Bộ Việt Nam nằm ở trung tâm Biển Đông, nơi hình thành các xoáy thụân Trong mùa chuyển tiếp xuân hè, gió Đông Bắc yếu đi và gió Tây Nam phát triển, tạo ra hai xoáy thụân ở Bắc và Nam Biển Đông Vào mùa hè, đặc biệt từ tháng 6 đến tháng 8, gió Tây Nam tạo dòng nước mạnh từ biển Java chảy dọc bờ biển Việt Nam theo hướng TN ĐB, thoát ra eo biển Đài Loan và Basi, đồng thời hình thành xoáy nghịch quy mô lớn ở Nam Biển Đông với nhánh chảy về phía Đông ra biển Xulu Hoàn lưu nước biển ảnh hưởng đến chế độ nhiệt và muối, quyết định sự phân bố tài nguyên hải sản ở các vùng biển Địa hình bờ, đáy biển và chế độ gió đã tạo ra các vùng nước trôi quy mô lớn, gắn liền với các ngư trường quan trọng ngoài khơi Bình Thuận (Việt Nam), Tây Bắc Luzon (Philippines) và cửa sông Châu Giang (Trung Quốc).

Chế độ thủy triều Biển Đông rất đa dạng do địa hình phức tạp của đáy và bờ biển, với sóng nhật triều chiếm ưu thế về biên độ và năng lượng Nhật triều đều và không đều chiếm hầu hết không gian biển, trong khi bán nhật triều và bán nhật triều không đều chỉ chiếm một phần nhỏ với biên độ hạn chế Ven bờ Việt Nam, chế độ thủy triều thể hiện sự phong phú từ nhật triều đều ở Hòn Dấu, bán nhật triều đều ở Thuận An, đến nhật triều không đều ở Quy Nhơn và Vũng Tàu, cũng như nhật triều không đều tại Rạch Giá Đặc biệt, độ cao mực nước triều ghi nhận hai cực đại tại Hòn Dấu và Vũng Tàu, cùng hai cực tiểu tại Thuận An và Rạch Giá.

Biển Đông và các khu vực lân cận sở hữu điều kiện tự nhiên đa dạng với nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật phong phú, nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức do thiên tai gây ra.

2 Vị thế địa ảnh hưởng đến kinh tế: a) Biển Đông luôn là tài nguyên đặc biệt quan trọng cho con người tại khu vực

Tài nguyên Biển Đông bao gồm hải sản, dầu khí, giao thông vận tải và du lịch, nhưng các số liệu chính thức về tiềm năng của những lĩnh vực này vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ.

Trung Quốc ước tính rằng tài nguyên hải sản và dầu khí của Biển Đông có giá trị lên đến hàng nghìn tỷ USD Họ cũng đánh giá tiềm năng dầu khí của khu vực này lên tới 213 tỷ thùng, trong đó riêng quần đảo Trường Sa chiếm khoảng 105 tỷ thùng (tương đương 17,7 tỷ tấn).

Việt Nam có tổng lượng cá lên đến 3.072 ngàn tấn, trong đó mức độ khai thác đạt 1.426 ngàn tấn Đối với nguồn dầu, các bể trên thềm lục địa đã được sơ bộ đánh giá với trữ lượng dự kiến khoảng 3,5-4,4 tỷ tấn dầu quy đổi Riêng bể Trường Sa, việc khảo sát còn hạn chế, tiềm năng dự báo khoảng 3.330-6.680 triệu tấn dầu quy đổi Tại khu vực Bắc, Đông và Nam Biển Đông, nhiều bể dầu khí đang được khai thác và tìm kiếm bởi các nước như Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Malaysia, Brunei và Thái Lan.

Năm 2009, Việt Nam khai thác từ Biển Đông 16,3 triệu tấn dầu, 8,0 tỷ m³ khí, 1.568,8 ngàn tấn cá biển, 413,1 ngàn tấn tôm nuôi và 718 ngàn tấn muối, với lượng hàng hóa qua các cảng biển khoảng 52 triệu tấn Mặc dù vậy, mức độ khai thác tài nguyên biển của Việt Nam vẫn còn thấp so với khu vực, với giá trị hàng năm không đáng kể so với GDP toàn quốc, như năm 2009 xuất khẩu đạt 6,194 tỷ USD dầu thô và 4,251 tỷ USD hàng thủy sản Trong khi đó, các nước trong khu vực đã có truyền thống khai thác biển mạnh mẽ, đặc biệt là về hải sản và dầu khí, với sản lượng dầu khí ngoài khơi của Trung Quốc lần đầu tiên vượt 50 triệu tấn/năm vào năm 2010, và khu khai thác ngoài khơi Palawan hiện chiếm 50% tổng lượng dầu tiêu thụ.

Biển Đông hàng năm cung cấp cho các nước trong khu vực một lượng tài nguyên khổng lồ, với giá trị ước tính lên đến hàng trăm tỷ USD Du lịch biển đảo tại đây cũng phát triển mạnh mẽ, đón hàng chục triệu khách quốc tế mỗi năm, đồng thời mang lại nguồn thu lớn từ dịch vụ cảng biển quốc tế, như Singapore và Hồng Kông.

500 triệu người sống phụ thuộc vào Biển Đông b) Biển Đông - con đường huyết mạch cho nhiều nước trên thế giới

Giao thương nhộn nhịp trên Biển Đông có nguồn gốc sâu xa từ tuyến đường tơ lụa và gốm sứ nổi tiếng trong quá khứ, nối liền Địa Trung Hải, Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương Nhiều thương nhân Ả Rập đã gọi Biển Đông là biển Champa, trong khi các thương cảng lớn như Hội An và Vân Đồn từng thịnh vượng tại Việt Nam Biển Đông hiện nay bao quanh bởi các nền kinh tế rất chênh lệch, tạo ra nhiều cơ hội và thách thức trong giao thương.

Nếu xét vị trí địa của Biển Đông trên bình diện Đông và Nam Á về mặt kinh tế ta sẽ thấy một quang cảnh như sau :

Vị thế địa- chính trị

i Nơi giao thoa của nhiều nền văn hóa

Khu vực Biển Đông, nơi giao thoa của hai nền văn hóa lớn châu Á là Trung Quốc và Ấn Độ, cùng với ảnh hưởng của văn hóa Tây Âu từ thế kỷ 16-17, thể hiện sự đa dạng tôn giáo và sắc tộc Trên bờ lục địa, đạo Phật phát triển mạnh, trong khi khu vực quần đảo chủ yếu là đạo Hồi và các tôn giáo khác xuất phát từ Nam Á và Tây Á, cùng với sự hiện diện của Công Giáo ở một số nước Mặc dù có một số xung đột, vấn đề tôn giáo và sắc tộc không phải là vấn đề nóng trong khu vực này Văn hóa Trung Quốc chủ yếu ảnh hưởng đến một phần bán đảo Đông Dương, trong khi văn hóa Ấn Độ lan tỏa rộng rãi hơn Tất cả những ảnh hưởng này đã được tiếp thu và phát triển theo đặc điểm riêng của từng dân tộc, tạo nên một Đông Nam Á với nền văn hóa bản địa phong phú và đặc sắc Sự đa dạng văn hóa này không chỉ không cản trở mà còn thúc đẩy hợp tác phát triển trong khu vực, với Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) là một minh chứng rõ ràng.

Trong quá khứ, Biển Đông đã từng là một trung tâm giao lưu và giao thoa văn hóa từ thời kỳ tiền sử, với các nền văn hóa nổi bật như Hạ Long, Sa Huỳnh và Đông Sơn Theo GS Trần Quốc Vượng, vào cuối thời kỳ Đá mới và đầu Kim khí, Đông Nam Bộ Việt Nam đã hình thành một trung tâm luyện kim, kết nối kinh tế-xã hội với các khu vực như Non Nok Tha và Ban Chang (Thái Lan), Palawan, Bali, Thế giới Malaya, cũng như Ryukyu (Lưu Cầu Quốc) với đảo Okinawa và cảng Naha Giao lưu văn hóa tại Biển Đông có thể còn diễn ra từ xa xưa hơn, khi mực nước biển thấp hơn hiện nay hơn 100 mét trong kỷ băng hà cuối cùng Đồng thời, khu vực này cũng đã trở thành miếng bánh của thực dân, nơi diễn ra các cuộc chiến tranh lạnh và là địa bàn hoạt động của cướp biển.

Các nước Đông Nam Á và Trung Quốc từng là mục tiêu chinh phục của các đế quốc phương Tây như Pháp, Anh, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Mỹ và Nhật Bản, trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc Sau Thế chiến II, tất cả các dân tộc trong khu vực Biển Đông đã lần lượt giành được độc lập, nhờ tinh thần dân tộc và lòng yêu nước của nhân dân Tuy nhiên, các quyết định của các nước Đồng Minh thắng trận, chủ yếu dựa trên quyền lợi của họ, đã ảnh hưởng lớn đến tiến trình phát triển lịch sử cận đại khu vực này, tạo ra một kịch bản địa-chính trị mới.

Sau Thế chiến II, một không gian thống nhất rộng lớn từ Âu sang Á đã hình thành với chế độ xã hội mới - chế độ Xã hội Chủ nghĩa Điều này đã dẫn đến cuộc chiến tranh lạnh giữa hai phe: phe Xã hội Chủ nghĩa và phe duy trì chế độ xã hội cũ, thường được gọi là phe Đế quốc, Thực dân mới, hoặc phe Dân chủ.

Cuộc chiến tranh lạnh đã tác động sâu rộng đến mọi khía cạnh của đời sống xã hội toàn cầu, thể hiện rõ nét qua những điểm nóng chiến tranh cục bộ ở những khu vực có vị trí địa chính trị quan trọng Triều Tiên và Việt Nam nổi lên như những điểm nóng chính trong bối cảnh căng thẳng giữa hai phe.

Trong nhiều thế kỷ, khu vực Biển Đông ở Đông Nam Á đã trở thành trung tâm chính trị đầy biến động, nơi diễn ra cuộc đấu tranh giữa phong trào giải phóng dân tộc và chủ nghĩa đế quốc, cũng như các quyền lợi giai cấp và thể chế xã hội khác nhau Yếu tố quyết định tạo nên tình hình này chính là tầm quan trọng về địa - chính trị của khu vực Biển Đông phản ánh sâu sắc các mối quan hệ không-thời gian và các mâu thuẫn của thời đại, bao gồm mối quan hệ giữa Đông và Tây, Bắc và Nam, Biển và Lục địa, cũng như giữa truyền thống và phi truyền thống Với vị trí như một "ngã tư" của thế giới, khu vực này buộc phải gánh vác trách nhiệm giải quyết các mâu thuẫn toàn cầu.

Biển Đông, với vai trò là con đường huyết mạch hàng hải và con đường tơ lụa trên biển, đã trở thành một trong ba khu vực cướp biển nổi tiếng toàn cầu, bên cạnh cướp biển Caribê và Somali Hình thái cướp biển tại Biển Đông rất phức tạp, không chỉ xuất phát từ lý do kinh tế thông thường Sau chiến tranh lạnh, khu vực này đã hình thành một địa- chính trị mới, tạo ra mối quan hệ và bối cảnh mới, đồng thời mở ra cơ hội phát triển nhưng cũng đầy thách thức Biển Đông giữ vị thế địa- quân sự quan trọng mang tính quốc tế.

Biển Đông có vị trí địa - quân sự quan trọng nhờ vào vị trí "trung tâm" và "giao điểm" của nó, tạo thành trung tâm của một không gian văn hóa, xã hội và kinh tế lớn nhất thế giới Vị trí này có thể so sánh với Địa Trung Hải và vượt xa biển Caribê, nằm trong bán kính 2000-4000 km của các nền văn hóa lâu đời và bền vững, cùng với các nền kinh tế mới nổi mạnh mẽ nhất thế giới, đồng thời cũng là nơi hội tụ của những thế lực quân sự có tiềm năng lớn.

Vị thế địa - quân sự của Biển Đông rất quan trọng nhờ vào sự hiện diện của một tuyến đường chiến lược và hơn 500 cảng biển phân bố đều khắp các nước và vùng lãnh thổ xung quanh Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động quân sự trên biển, giúp tăng cường khả năng tiếp cận và kiểm soát khu vực.

Biển Đông không chỉ có hệ thống đảo ven bờ mà còn hai quần đảo lớn ở trung tâm, phân bố đều ở Bắc và Nam, đóng vai trò quan trọng về quân sự Trước đây, các quần đảo này không được coi trọng, nhưng trong Thế chiến II, Nhật Bản đã chiếm giữ và sử dụng chúng làm căn cứ tàu ngầm Ai kiểm soát các quần đảo này sẽ có khả năng kiểm soát hoạt động trên biển và giao thông hàng hải toàn cầu, cũng như các hoạt động bay trong không phận Hơn nữa, việc kiểm soát nguồn tài nguyên hải sản và dầu khí phong phú của Biển Đông càng làm tăng giá trị chiến lược của chúng Điều này giải thích tại sao nhiều nước hiện nay chiếm đóng trái phép các quần đảo này, trong khi Việt Nam có đầy đủ chứng cứ về chủ quyền lâu dài của mình Mỹ cũng quan tâm đến Biển Đông, chủ yếu vì vấn đề tự do hàng hải, do lợi ích xuất nhập khẩu của nước này phụ thuộc vào vùng biển này, cùng với vị thế địa-chính trị và địa-quân sự quan trọng của nó.

Biển Đông không chỉ thu hút sự chú ý do tiềm năng kinh tế lớn từ dầu khí và hàng hải, mà còn vì những tham vọng quân sự nhằm kiểm soát khu vực Đông Nam Á.

2.1.3 Vấn đề quan hệ khu vực vực và tận dụng tài nguyên biển:

Hợp tác thay cho đối đầu

Sau nhiều thế kỷ bất ổn, cư dân Biển Đông mong muốn một kỷ nguyên hòa bình và hợp tác sau chiến tranh lạnh, biến khu vực này thành cầu nối giữa các dân tộc Tuy nhiên, sự chuyển mình từ xung đột “hai phe” sang vấn đề “lợi ích quốc gia” đã dẫn đến nhiều vụ đụng độ đẫm máu Dù vậy, thiện chí của nhiều quốc gia vẫn được thể hiện trong bối cảnh hiện tại.

Các quốc gia thường ưu tiên hợp tác thay vì đối đầu, đây là chiến lược mà nhiều nước từ xưa đến nay áp dụng để khai thác sự khác biệt về vị thế địa chính trị nhằm chia rẽ các đối thủ.

B Việt Nam và việc tận dụng tài nguyên vị thế Biển Đông:

Trong nghiên cứu về biển Việt Nam và Biển Đông, việc điều tra tài nguyên, sinh thái và địa chất của vùng biển và hải đảo đóng vai trò quan trọng Cần xác định hướng đi hiệu quả trong việc khai thác các tài nguyên mới mẻ này để bảo vệ và phát triển bền vững.

Các thủy vực vùng vịnh cần được nghiên cứu và sử dụng hiệu quả cho các mục đích như cầu cảng, giao thông, quân sự, cũng như phục vụ cho du lịch và ngư nghiệp.

Nghiên cứu và công bố chính thức các tuyến đường thủy thường xuyên tại huyện đảo Trường Sa là cần thiết, nhằm kết nối với đất liền và các đảo, đá thuộc thị trấn Trường Sa cùng các xã đảo Song Tử Tây và Sinh Tồn.

Để phát triển hệ thống đảo ven bờ, cần ưu tiên đầu tư vào nghiên cứu và xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật tại các đảo Vĩnh Thực, Trần và Thanh Lam.

Hạ Mai , Bạch Long Vĩ , Hòn Mê , Hòn Mắt , Cồn Cỏ , Cù Lao Chàm , Lý Sơn ,

Cù Lao Xanh, Hòn Tre, Phú Quý, Côn Đảo, Hòn Khoai, Thổ Chu, Phú Quốc và Hòn Đốc là những hòn đảo có vị trí chiến lược quan trọng, đóng vai trò là các đảo tiền tiêu và bảo vệ biên giới.

Các đảo trong quần đảo Trường Sa đóng vai trò quan trọng như những vị trí tiền tiêu và biên giới, cần được ưu tiên bảo vệ toàn diện Trong số đó, một số cụm đảo và đá nổi bật với vị trí chiến lược, đặc biệt là Song Tử Tây và Đá.

Việt Nam và việc khai thác tài nguyên vị thế Biển Đông

Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) cho biết khoảng 80% thương mại toàn cầu về khối lượng và 70% về giá trị được vận chuyển bằng đường biển, trong đó 60% thương mại hàng hải đi qua châu Á, với Biển Đông chiếm một phần ba tổng lượng vận chuyển toàn cầu Biển Đông có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các nước như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc, vì họ phụ thuộc vào eo biển Malacca để kết nối Biển Đông với Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương Là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, với hơn 60% giá trị thương mại được vận chuyển bằng đường biển, an ninh kinh tế của Trung Quốc gắn liền với Biển Đông.

Câu hỏi trị giá 5,3 nghìn tỷ đô la

Biển Đông, với vai trò là huyết mạch thương mại quan trọng, đã thu hút sự chú ý lớn từ các nền kinh tế hàng đầu thế giới Hàng hóa trị giá 5,3 nghìn tỷ đô la được cho là đi qua khu vực này hàng năm, trong đó 1,2 nghìn tỷ đô la liên quan đến thương mại với Hoa Kỳ Tuy nhiên, con số này đã không được cập nhật trong bối cảnh thay đổi thương mại toàn cầu Để có được ước tính chính xác hơn, ChinaPower đã phát triển một bộ dữ liệu mới, cho thấy khoảng 3,4 nghìn tỷ USD thương mại đi qua Biển Đông vào năm 2016, chiếm khoảng 21% thương mại toàn cầu, thấp hơn 36% so với ước tính trước đó Biển Đông là một ngã tư hàng hải thiết yếu, với hơn 64% thương mại hàng hải của Trung Quốc và gần 42% của Nhật Bản đi qua khu vực này trong năm 2016, trong khi Hoa Kỳ chỉ phụ thuộc vào 14% thương mại hàng hải của mình qua Biển Đông.

Sự trích dẫn thường xuyên con số 5,3 nghìn tỷ USD trong các ấn phẩm cho thấy mối lo ngại của truyền thông, học giả và chính phủ về khả năng gián đoạn thương mại ở Biển Đông có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế toàn cầu Những lo ngại này thường liên quan đến sự ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực, có thể khiến Bắc Kinh can thiệp vào hoạt động vận chuyển thương mại Mặc dù có những tình huống bất thường có thể dẫn đến hành động cưỡng chế từ phía Trung Quốc, khả năng này ít xảy ra trong thời bình.

Sự phụ thuộc của Trung Quốc vào Biển Đông làm gia tăng rủi ro gián đoạn thương mại hàng hải Năm 2003, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã cảnh báo về mối đe dọa từ “một số cường quốc lớn” kiểm soát eo biển Malacca, nhấn mạnh sự cần thiết áp dụng các chiến lược mới Các phương tiện truyền thông và học giả Trung Quốc đã chú trọng đến rủi ro này, khẳng định cần tìm kiếm các tuyến đường vận chuyển thay thế để giảm thiểu tình thế tiến thoái lưỡng nan.

Biển Đông đóng vai trò quan trọng trong thương mại của Trung Quốc, khiến Bắc Kinh có xu hướng duy trì dòng chảy thương mại tự do thay vì làm gián đoạn Ngay cả khi Trung Quốc có khả năng ngăn chặn thương mại của các nước khác, hành động này sẽ rất rủi ro và có thể dẫn đến chi phí bảo hiểm tăng cao cho tàu thương mại, buộc các chủ hàng phải tìm kiếm các tuyến đường thay thế đắt đỏ hơn Mặc dù kịch bản can thiệp có thể xảy ra trong những tình huống khẩn cấp, nhưng nó sẽ gây tổn thất tài chính lớn cho Trung Quốc, làm suy yếu vị thế của nước này trong cộng đồng quốc tế và có thể kích thích phản ứng mạnh mẽ từ các cường quốc bên ngoài.

Tính toán thương mại Biển Đông

Để đánh giá ý nghĩa địa chính trị của Biển Đông, việc tính toán giá trị thương mại qua khu vực này là rất quan trọng Một ước tính hợp lý có thể được thực hiện bằng cách phân tích các đối tác thương mại song phương có giao dịch qua Biển Đông Chẳng hạn, phần lớn thương mại giữa châu Âu và Trung Quốc phải đi qua Mũi Hảo Vọng, tiếp theo là qua Ấn Độ Dương và vào Biển Đông qua eo biển Malacca.

Dữ liệu giá trị thương mại song phương cấp quốc gia từ Định hướng Thống kê Thương mại của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (DOTS) là một nguồn thông tin quan trọng để đánh giá giá trị của các con đường thương mại Tuy nhiên, DOTS bao gồm tất cả các phương thức vận tải như đường bộ, đường biển và không khí, do đó, việc lấy dữ liệu thương mại hàng hải cụ thể từ cơ sở dữ liệu thống kê của chính phủ là cần thiết để có cái nhìn chính xác hơn về thương mại hàng hải.

Tổng giá trị thương mại hàng hải qua Biển Đông được ước tính dựa trên các giá trị song phương, với con số ước tính là 2,7 nghìn tỷ USD cho năm 2009 và 3,5 nghìn tỷ USD cho năm 2010 Hai giá trị này đều thấp hơn đáng kể so với con số 5,3 nghìn tỷ USD được công bố lần đầu vào cuối năm 2010.

Mặc dù các ước tính chưa được điều chỉnh phản ánh giá trị thương mại ở Biển Đông chính xác hơn con số 5,3 nghìn tỷ USD, nhưng chúng vẫn đánh giá quá cao giá trị thương mại Cách tiếp cận này giả định rằng toàn bộ thương mại hàng hải giữa các quốc gia sử dụng Biển Đông đều diễn ra qua vùng biển này Chẳng hạn, ước tính này bao gồm tất cả xuất khẩu hàng hải từ Hoa Kỳ sang Trung Quốc, mặc dù một phần lớn thương mại từ Bờ Tây của Hoa Kỳ không đi qua Biển Đông.

Gần 40% tổng kim ngạch thương mại của Trung Quốc trong năm 2016 đã qua Biển Đông.

Để ước tính các số liệu chi tiết hơn, cần phải xác định tỷ trọng thương mại hàng hải có khả năng quá cảnh qua Biển Đông Việc này được thực hiện thông qua phân tích dữ liệu AIS từ Windward, một công ty chuyên về phân tích và dữ liệu hàng hải, trong khoảng thời gian 60 ngày.

Cách tiếp cận này nâng cao độ chính xác trong việc phân tích hàng hải Dữ liệu AIS cho thấy chỉ 72,9% tàu thương mại Nhật Bản hướng tới Indonesia đi qua Biển Đông, thay vì giả định rằng tất cả đều đi qua Tương tự, chỉ 16,2% tàu từ Trung Quốc đến Hoa Kỳ sử dụng lộ trình qua Biển Đông Những tỷ lệ này được áp dụng để điều chỉnh các cặp giao dịch cụ thể, từ đó cung cấp ước tính chính xác hơn.

Làm gián đoạn thương mại Biển Đông

Eo biển Malacca là tuyến đường hàng hải quan trọng nhất giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, mặc dù có nhiều tuyến đường trung chuyển khác như eo biển Sunda và eo biển Lombok Sự gián đoạn giao thông hàng hải tại eo biển Malacca, dù ngắn hạn hay dài hạn, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến các tàu thương mại và gây ra hậu quả lớn cho hàng nghìn tỷ đô la hàng hóa vận chuyển qua Biển Đông hàng năm.

Khi xem xét việc đóng cửa eo biển Malacca trong thời bình, chi phí định tuyến lại có thể ước tính thông qua chi phí hành trình trung bình hàng ngày của các tàu Nếu các tàu chở dầu và tàu chở hàng rời có trọng tải trên 100.000 DWT phải đi vòng qua eo biển Lombok, trong khi các tàu nhỏ hơn sử dụng eo biển Sunda, thì việc đóng cửa eo biển Malacca trong một tuần sẽ dẫn đến chi phí vận chuyển bổ sung ước tính khoảng 64,5 triệu USD.

Chi phí vận chuyển bổ sung 64,5 triệu đô la chỉ chiếm 0,08 đến 0,10% giá trị thương mại trung bình hàng tuần qua Biển Đông Trong suốt một năm, chi phí này sẽ giảm xuống còn 0,0015 đến 0,0019% tổng giao dịch hàng năm qua đường thủy.

Việc SLOC đóng cửa nhiều lần có thể khiến chi phí định tuyến lại tất cả vận chuyển qua eo biển Lombok trong một tuần lên tới khoảng 119 triệu USD Trong kịch bản xấu nhất, nếu cả ba eo biển và các SLOC khác ở Đông Nam Á không thể sử dụng cho giao thông thương mại, các tàu sẽ phải đi vòng quanh bờ biển phía nam của Úc trước khi tiến vào Biển Philippines Tình huống này tương tự như việc các nhà giao dịch phải định tuyến lại qua châu Phi khi kênh đào Suez bị đóng cửa từ năm 1967 đến 1974, dẫn đến khoản chi phí hàng tháng đáng kể lên tới 2,8 tỷ đô la.

Ngày đăng: 30/03/2022, 08:36

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Thanh Minh (2016). Nhìn lại chặng đường tham gia của Việt Nam vào Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển quốc tế năm 1982 giai đoạn 1994 đến 2015, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 2 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhìn lại chặng đường tham gia của Việt Nam vào Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển quốc tế năm 1982 giai đoạn 1994 đến 2015
Tác giả: Nguyễn Thanh Minh
Nhà XB: Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử
Năm: 2016
2. Nguyễn Thanh Minh (2016). Quá trình phân định biển giữa các quốc gia trong khu vực Biển Đông với Việt Nam, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 7 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quá trình phân định biển giữa các quốc gia trong khu vực Biển Đông với Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thanh Minh
Nhà XB: Tạp chí Lịch sử Đảng
Năm: 2016
3. Vũ Văn Phái (2007). Cơ sở địa lý tự nhiên biển và đại dương. Nxb ĐHQGHN, H, 240 trg Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở địa lý tự nhiên biển và đại dương
Tác giả: Vũ Văn Phái
Nhà XB: Nxb ĐHQGHN
Năm: 2007
4. Lê Đức Tố (chủ biên), Lê Đức An, và nnk, “Biển Đông, tập I: Khái quát về Biển Đông”, 230 tr. Nxb Đại Học QGHN, Hà Nội (2003) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Biển Đông, tập I: Khái quát về Biển Đông
Tác giả: Lê Đức Tố, Lê Đức An
Nhà XB: Nxb Đại Học QGHN
Năm: 2003
5. Tổng cục Thống kê, “Niên giám thống kê năm 2009”, Nxb TK, Hà Nội (2011) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Niên giám thống kê năm 2009”
Nhà XB: Nxb TK
6. Trần Quốc Vượng, “Việt Nam cái nhìn địa – văn hóa”, 495 tr. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội (1999) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam cái nhìn địa – văn hóa”
Nhà XB: Nxb Văn hóa dân tộc
7. Phùng Ngọc Đĩnh, 1999. “Tài nguyên Biển Đông Việt Nam”. Nxb Giáo Dục, H, 64 trang Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài nguyên Biển Đông Việt Nam
Tác giả: Phùng Ngọc Đĩnh
Nhà XB: Nxb Giáo Dục
Năm: 1999
8. Đoàn Thiên Tích, 2001. “Dầu khí Việt Nam”. Nxb ĐHQG TPHCM, HCM, 232 trang Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dầu khí Việt Nam
Tác giả: Đoàn Thiên Tích
Nhà XB: Nxb ĐHQG TPHCM
Năm: 2001
9. Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng – khóa X. Tạp chí Kinh tế và dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số 406, tháng 2 năm 2007, HN, trang 1 và 5 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Kinh tế và dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Nhà XB: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Năm: 2007

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w