CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA XUẤT KHẨU VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Xuất khẩu và xuất khẩu thủy sản
1.2.1 Khái niệm xuất khẩu và xuất khẩu thủy sản
Theo Luật thương mại Việt Nam 2005, xuất khẩu hàng hóa được định nghĩa là việc đưa hàng hóa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc vào khu vực đặc biệt được coi là khu vực hải quan Xuất khẩu không chỉ đơn thuần là những giao dịch riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ thương mại có tổ chức nhằm thúc đẩy sản xuất, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và nâng cao đời sống của nhân dân Mặc dù xuất khẩu mang lại nhiều lợi ích kinh tế, nhưng cũng tiềm ẩn những rủi ro do phải đối mặt với các hệ thống kinh tế đa dạng của các quốc gia khác, điều này làm cho việc kiểm soát trở nên khó khăn.
Xuất khẩu là quá trình bán sản phẩm nội địa ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, tăng ngân sách Nhà nước và nâng cao đời sống nhân dân Hoạt động này phức tạp hơn so với giao dịch trong thị trường nội địa, do diễn ra trong một thị trường rộng lớn với đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh và hàng hóa được vận chuyển ra ngoài quốc gia Các quốc gia tham gia vào giao dịch quốc tế cần tuân thủ các thông lệ quốc tế.
Xuất khẩu thủy sản được định nghĩa là hoạt động bán sản phẩm thủy sản từ trong nước ra nước ngoài, nhằm thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán và tăng thu ngân sách Hoạt động này không chỉ kích thích đổi mới công nghệ mà còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm và nâng cao mức sống cho người dân.
1.2.2 Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với tăng trưởng kinh tế
Hoạt động xuất khẩu là yếu tố then chốt trong sự tăng trưởng và phát triển của quốc gia, đóng góp nguồn tài chính đáng kể cho đất nước Sự tăng trưởng xuất khẩu không chỉ tạo ra thêm việc làm mà còn bổ sung vốn cho nền kinh tế và nâng cao năng suất tổng hợp, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững.
Xuất khẩu các mặt hàng có thế mạnh giúp phát huy lợi thế so sánh và tối ưu hóa nguồn lực, đồng thời tạo cơ hội trao đổi kinh nghiệm và tiếp cận công nghệ tiên tiến Việc áp dụng công nghệ hiện đại trong chế tạo và chế biến hàng xuất khẩu sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng tính cạnh tranh trên thị trường toàn cầu Điều này không chỉ tạo ra nguồn lực công nghiệp mới mà còn cải thiện số lượng và chất lượng sản phẩm, đồng thời tiết kiệm chi phí lao động cho xã hội.
Có thể tóm tắt vai trò của xuất khẩu đối với sự tăng trưởng và phát triển của một quốc gia qua những điểm sau đây:
Xuất khẩu hàng hóa là yếu tố quan trọng trong tổng cầu, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế Điều này thể hiện qua hai khía cạnh chính: sự đóng góp của xuất khẩu vào tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ trọng xuất khẩu trong GDP ngày càng tăng.
Kết quả xuất khẩu ấn tượng trong những năm gần đây đã giảm thâm hụt thương mại quốc tế và thúc đẩy tăng trưởng GDP, đặc biệt quan trọng kể từ khi Việt Nam đối mặt với suy giảm kinh tế từ cuối năm 2008 Khi tiêu dùng và đầu tư giảm, xuất khẩu đã trở thành yếu tố then chốt giúp nền kinh tế thoát khỏi tình trạng đình trệ Năm 2012, xuất khẩu là yếu tố duy nhất đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, theo Tổng cục thống kê Không chỉ ảnh hưởng tích cực ngắn hạn, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đã mở rộng sản xuất để đáp ứng nhu cầu tăng cao, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững trong dài hạn.
Việc tạo ra công ăn việc làm không chỉ giúp tăng thu nhập cho người lao động mà còn góp phần cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội Điều này sẽ thúc đẩy những thay đổi tích cực, giải quyết các vấn đề xã hội còn tồn tại.
Xuất khẩu hàng hóa, nhờ vào lợi thế nhân công giá rẻ, đã tạo ra một lượng lớn việc làm cho người lao động và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu luôn cao gấp 2 đến 3 lần so với GDP, giúp cải thiện thu nhập cho hàng triệu nông dân và lao động trong các lĩnh vực như nông sản, dệt may, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ và nhiều mặt hàng khác.
Số lượng việc làm trong các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thường biến thiên theo mức độ xuất khẩu của doanh nghiệp, với quy mô lao động bình quân từ 112-116 lao động, cao gấp 1,5 lần so với nhóm doanh nghiệp có quy mô thấp hoặc trung bình Các ngành xuất khẩu lớn như dệt may, da giày, đồ điện tử và đồ gỗ thường có số lượng lao động cao hơn mức trung bình Tuy nhiên, một trong những hạn chế lớn nhất của lao động trong khu vực xuất khẩu là kỹ năng và khả năng đáp ứng công việc còn yếu Mặc dù các ngành như dệt may và chế biến thực phẩm có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng chủ yếu sử dụng lao động phổ thông từ nông thôn với thời gian đào tạo ngắn Dù vậy, trong bối cảnh “thiếu kép” hiện nay, chất lượng lao động trong khu vực xuất khẩu vẫn có những tín hiệu tích cực Xuất khẩu hàng hóa đã góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường tích lũy vốn vật chất và thu ngoại tệ, tạo nguồn lực cho đất nước và hỗ trợ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Nó cải thiện cán cân thanh toán và thương mại, đồng thời tăng dự trữ ngoại tệ cho ngân sách Nhà nước, giúp nâng cao khả năng nhập khẩu nguyên liệu và máy móc tiên tiến, thay thế dần thiết bị lạc hậu Dù việc tích lũy vốn là một quá trình khó khăn, đặc biệt trong giai đoạn đầu, nhưng đến nay, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ, sản phẩm xuất khẩu đã hiện diện trên toàn cầu, và thu nhập từ xuất khẩu đã cơ bản bù đắp cho nhập khẩu hàng hóa vốn, công nghệ và nguyên liệu cần thiết cho phát triển các ngành công nghiệp.
Giá trị gia tăng từ hàng hóa xuất khẩu hiện nay còn thấp, không tương xứng với quy mô xuất khẩu, chủ yếu do tỷ trọng lớn của hàng thô và sơ chế trong cơ cấu xuất khẩu Hàng chế biến thường chỉ tập trung vào những công đoạn có giá trị gia tăng thấp, chủ yếu dựa vào gia công và lao động giá rẻ Xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên liệu thô và đầu vào trung gian, với tỷ trọng hàng thô và sơ chế vẫn chiếm ưu thế từ 2000-2019 Đặc biệt, trong nhóm nông sản, 80-90% hàng hóa được xuất khẩu dưới dạng thô, như chè (90% xuất khẩu thô), cà phê (90% nhân xơ) và gạo (gần 70% phẩm cấp thấp) Dù thủy sản mang lại nhiều ngoại tệ cho ngành nông nghiệp, nhưng 70-80% cũng được xuất dưới dạng nguyên liệu thô và sơ chế, dẫn đến giá trị gia tăng thấp Chất lượng sản phẩm không đồng đều và tỷ lệ loại thải cao khiến giá sản phẩm thường thấp hơn giá thế giới từ 30% đến 50%.
Mặc dù xuất khẩu của Việt Nam đạt mức tăng trưởng ấn tượng, nhưng giá trị gia tăng từ hoạt động này lại thấp, dẫn đến đóng góp cho tăng trưởng kinh tế không tương xứng với doanh số xuất khẩu danh nghĩa Sự thiếu hụt giá trị gia tăng khiến Việt Nam phải duy trì xuất khẩu mạnh mẽ các mặt hàng như giày dép và quần áo để nâng cao tỷ trọng giá trị gia tăng trong GDP Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam phải đối mặt với những thách thức từ hàng rào thương mại, bao gồm các mức thuế trừng phạt mà EU đang áp dụng, trong khi vẫn tìm cách gia tăng thu nhập cho quốc gia, nhà sản xuất và người lao động.
Tăng thu ngoại tệ không chỉ tạo ra nguồn vốn cho đất nước mà còn hỗ trợ nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa Điều này giúp cải thiện cán cân thanh toán và thương mại, tăng dự trữ ngoại tệ cho ngân sách Nhà nước Qua đó, khả năng nhập khẩu nguyên liệu và máy móc thiết bị tiên tiến được nâng cao, thay thế dần những thiết bị lạc hậu, góp phần vào sự phát triển kinh tế bền vững của đất nước.
Xuất khẩu hàng hóa đóng vai trò quan trọng trong việc xác định năng suất các nhân tố tổng hợp và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Định hướng xuất khẩu vào các mặt hàng chế biến sâu, có hàm lượng công nghệ và tri thức cao, tạo ra tác động tích cực hơn tới năng suất tổng hợp so với các mặt hàng thô, sơ chế Từ năm 2000 đến 2019, tỷ trọng xuất khẩu hàng chế biến, chế tạo đã tăng đáng kể, với tốc độ tăng trưởng kim ngạch trên 20%, hiện chiếm khoảng 2/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
23 tiền đề để Việt Nam chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu và dựa vào tăng năng suất.
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ XÂY DỰNG KHUNG LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Các nghiên cứu ở các quốc gia riêng biệt
Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia khác nhau đã cho ra những kết quả trái ngược Một số tác giả như Waithea, Lordeb và Francisb (2011) đã chỉ ra rằng xuất khẩu có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế ở Mexico trong dài hạn, có thể do nhập khẩu cao và mối liên kết yếu với các nhà cung cấp nội địa Tương tự, Phan Minh Ngọc và cộng sự (2003) đã phân tích số liệu của Việt Nam từ 1975-2001 và kết luận rằng mặc dù khu vực xuất khẩu đã có sự tăng trưởng đáng kể, nhưng không có bằng chứng vững chắc cho thấy xuất khẩu là động lực chính của tăng trưởng kinh tế, khác với các nền kinh tế Đông Nam Á khác Kết luận này có thể bị ảnh hưởng bởi chất lượng dữ liệu và sự kết hợp giữa hai giai đoạn khác nhau của nền kinh tế Việt Nam.
Phạm Mai Anh (2008) đã áp dụng mô hình VAR với bốn biến GDP, đầu tư, xuất khẩu và năng suất để xác định yếu tố nào là động lực chính của tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 1986-2007 Nghiên cứu cho thấy đầu tư là yếu tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong khi tác động của xuất khẩu đến tăng trưởng rất hạn chế và không có bằng chứng rõ ràng về ảnh hưởng của xuất khẩu đối với năng suất, mặc dù xuất khẩu thường được coi là kênh quan trọng cho tăng trưởng bền vững trong dài hạn.
Nghiên cứu của Đặng Quốc Tuấn (2009) về tác động của thương mại quốc tế đối với phát triển kinh tế đã chỉ ra nhiều khía cạnh khác nhau thông qua việc xây dựng các ma trận và áp dụng bảng input-output Mặc dù nghiên cứu đã cung cấp những thông tin giá trị, nhưng vẫn cần hỗ trợ tài liệu từ file: luanvanchat@gmail.com để hoàn thiện hơn.
43 dụng phương pháp định lượng đủ mạnh để đánh giá tác động của thương mại quốc tế đối với tăng trưởng kinh tế.
Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng xuất khẩu tăng trưởng có mối liên hệ tích cực với tăng trưởng kinh tế Các nghiên cứu của Shirazi và Manap (2005), Javed và cộng sự (2012), cũng như Ahmad, D và Ahmad, J (2018) tại Pakistan, He và Zhang (2010) tại Trung Quốc, Lordeb và Francisb (2011) tại Mexico, Mishra (2011) tại Ấn Độ, và Shafiullah, Selvanathan, Naranpanawa đều ủng hộ quan điểm này.
Nghiên cứu của Bakari và Mabrouki (2017) tại Úc, cùng với các nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Thủy (2014), Nguyễn Quang Hiệp (2014, 2016) và Đào Thị Bích Thủy (2016) ở Việt Nam, đều hỗ trợ quan điểm này.
Các nghiên cứu sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS) phân tích dữ liệu chuỗi thời gian ở Pakistan của Javed và cộng sự (2012) và Sahni và Atri
Nghiên cứu năm 2012 tại Ấn Độ cho thấy thương mại quốc tế, đặc biệt là xuất khẩu, có tác động tích cực và đáng kể đến nền kinh tế quốc gia Nghiên cứu của Sahni và Atri không chỉ xem xét tổng giá trị xuất khẩu mà còn phân tích ảnh hưởng của xuất khẩu sản phẩm chế biến đến tổng sản phẩm quốc dân, đồng thời đưa vào biến đầu tư thông qua sáu phương trình khác nhau Kết quả nghiên cứu ủng hộ giả thuyết tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, với phát hiện rằng đầu tư không phải là kênh truyền dẫn cho sự ảnh hưởng tích cực của xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế, mà có tác động độc lập Tuy nhiên, độ tin cậy của các kết quả ước lượng vẫn còn hạn chế do các khuyết tật trong bộ dữ liệu theo thời gian khi áp dụng phương pháp OLS.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng xuất khẩu trong một ngành kinh tế có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế quốc gia Một ví dụ điển hình là nghiên cứu của Jawaid, S T và các cộng sự, cho thấy mối liên hệ giữa hoạt động xuất khẩu và sự phát triển kinh tế.
Nghiên cứu của Shamsuzzaman và cộng sự (2019, 2020) cho thấy xuất khẩu thủy sản có tác động tích cực lâu dài đến tăng trưởng kinh tế ở Pakistan thông qua các mô hình ARDL và FMOLS Tương tự, Vincent, K (2017) phân tích mối quan hệ giữa xuất khẩu sản phẩm không phải dầu mỏ và tăng trưởng kinh tế ở Nigeria từ năm 1980 đến 2016, sử dụng kiểm định Phillip Perron và Engel-Granger để xác minh sự tương quan tích hợp Kết quả nghiên cứu đã bác bỏ giả thuyết rằng xuất khẩu sản phẩm không phải dầu mỏ không ảnh hưởng đến nền kinh tế Nigeria, đồng thời khuyến nghị chính phủ cần tái cấu trúc nền kinh tế nhằm phát triển các ngành phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững.
Nghiên cứu của Zainal Abidin và cộng sự (2014) cùng Bakar và cộng sự (2015) cho thấy rằng phương pháp FMOLS (phương pháp bình phương nhỏ nhất hiệu chỉnh hoàn toàn) đã chỉ ra vai trò quan trọng của xuất khẩu trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại Malaysia.
Priyankara (2018) đã chỉ ra mối quan hệ dài hạn giữa xuất khẩu dịch vụ và tăng trưởng kinh tế ở Sri Lanka, sử dụng dữ liệu từ năm 1984 đến 2013 Tương tự, Vincent (2017) áp dụng mô hình FMOLS để phân tích tác động dài hạn của xuất khẩu sản phẩm không phải dầu mỏ đến tăng trưởng kinh tế Nigeria trong giai đoạn 1980-2016 Kết quả nghiên cứu cho thấy nền kinh tế Nigeria không phụ thuộc vào xuất khẩu các sản phẩm không phải dầu mỏ.
Phan Thế Công (2011) đã nghiên cứu tác động của xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam, dựa trên dữ liệu cấp tỉnh và áp dụng các mô hình Feder Nghiên cứu này nhằm làm rõ mối quan hệ giữa hoạt động xuất khẩu và sự phát triển kinh tế ở các tỉnh thành, cung cấp cái nhìn sâu sắc về vai trò của xuất khẩu trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Nghiên cứu từ Balassa (1978), Granger (1969) và các mô hình sửa đổi trong giai đoạn 1996-2006 đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho học thuyết tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu Kết quả phân tích cho thấy xuất khẩu không chỉ thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc gia mà còn đóng góp tích cực vào phát triển các yếu tố phi xuất khẩu như cơ sở hạ tầng, điện, nước và thực phẩm chế biến sẵn.
Nhiều nghiên cứu đã áp dụng kiểm định ADF và PP để xác định tính dừng của chuỗi thời gian, sau đó sử dụng kiểm định nhân quả Granger để chứng minh rằng biến xuất khẩu thực tế và nhập khẩu thực tế có ảnh hưởng đến sản lượng thực tế (GDP) tại Pakistan (Shirazi và Manap, 2005) Tương tự, nghiên cứu của Mishra (2011) cũng sử dụng kiểm định nhân quả Granger với dữ liệu từ Ấn Độ trong giai đoạn 1970-2009 Nghiên cứu hỗ trợ tài liệu qua email: luanvanchat@gmail.com.
45 này cung cấp bằng chứng về sự tồn tại của mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ.
Nghiên cứu của He và Zhang (2010) phân tích sự phụ thuộc của xuất khẩu Trung Quốc vào các quốc gia khác thông qua phương pháp Input - Output, đồng thời kiểm tra mối quan hệ nhân quả giữa phát triển thương mại quốc tế với tổng cầu và năng suất nhân tố tổng hợp Kết quả cho thấy xuất khẩu đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng kinh tế Trung Quốc thông qua tác động lên năng suất yếu tố tổng hợp Hỗ trợ cho quan điểm này, Waithea, Lordeb và Francisb (2011) nghiên cứu mối quan hệ giữa sản xuất và xuất khẩu tân cổ điển tại Mexico trong giai đoạn 1960-2003, cung cấp bằng chứng ủng hộ giả thuyết về sự liên kết giữa tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu trong ngắn hạn.
Okyay Ucan (2016) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế ở Thổ Nhĩ Kỳ, sử dụng dữ liệu từ năm 2006 đến 2015 cùng với mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) Nghiên cứu cho thấy xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Thổ Nhĩ Kỳ cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn Tuy nhiên, nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ nhân quả giữa tổng xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế.
Cùng ủng hộ cho quan điểm xuất khẩu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Dritsaki
Các nghiên cứu sử dụng dữ liệu đa quốc gia
Nhiều nghiên cứu chuỗi thời gian ở các quốc gia riêng lẻ cho thấy xuất khẩu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong khi các nghiên cứu phân tích dữ liệu đa quốc gia cũng chỉ ra rằng xuất khẩu ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế của một số quốc gia.
Nhiều nghiên cứu sử dụng kiểm định nhân quả Granger cho thấy có mối quan hệ nhân quả một chiều từ xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế ở một số quốc gia, như Bỉ, Đan Mạch, Iceland, Ireland, Ý, New Zealand, Tây Ban Nha và Thụy Điển László Kónya (2006) đã chỉ ra rằng mối quan hệ này có thể được kiểm tra qua hai mô hình khác nhau liên quan đến GDP và xuất khẩu, cũng như giữa GDP, xuất khẩu và độ mở của nền kinh tế Hơn nữa, Tekin (2012) cũng khẳng định mối quan hệ nhân quả một chiều từ xuất khẩu đến GDP ở các nước chậm phát triển như Haiti, Rwanda và Sierra Leone trong giai đoạn 1970 – 2009, ủng hộ mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào thương mại.
Nghiên cứu năm 2010 sử dụng dữ liệu bảng để so sánh hiệu quả giữa doanh nghiệp xuất khẩu và không xuất khẩu, dựa trên ba cuộc khảo sát điển hình của Italia từ 1995 đến 2003 Kết quả cho thấy doanh nghiệp xuất khẩu gia tăng năng suất sau khi gia nhập thị trường, dẫn đến sự tăng trưởng của năng suất tổng hợp và năng suất lao động Phát hiện này tương đồng với các nghiên cứu ở các quốc gia khác Đặc biệt, nghiên cứu chỉ ra rằng doanh nghiệp xuất khẩu đạt được lợi nhuận cao hơn so với các doanh nghiệp cùng loại hoạt động trong thị trường nội địa.
Jim Lee (2011) đã nghiên cứu ảnh hưởng của đặc tính công nghệ trong xuất khẩu đến các mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào thương mại của 71 quốc gia từ năm 1970 Kết quả cho thấy nền kinh tế phát triển nhanh hơn khi các quốc gia chuyên môn hóa vào xuất khẩu công nghệ cao, thay vì các sản phẩm truyền thống hoặc công nghệ thấp Để kiểm tra mối quan hệ dài hạn giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế, nhiều tác giả đã sử dụng kiểm định nghiệm đơn vị ADF và phương pháp ARDL.
Nghiên cứu năm 2013 đã phân tích mối quan hệ giữa thương mại quốc tế và tăng trưởng kinh tế ở sáu quốc gia Châu Á trong giai đoạn 1960-2009, tập trung vào tác động lâu dài của xuất khẩu và nhập khẩu đối với tăng trưởng kinh tế Kết quả cho thấy xuất khẩu ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng ở hầu hết các quốc gia, ngoại trừ Pakistan, đồng thời chỉ ra tiềm năng tăng trưởng kinh tế thông qua khai thác nhu cầu nội địa ngay cả trong bối cảnh suy thoái toàn cầu Các nghiên cứu tiếp theo của Sothan (2016) và Goh, Sam và McNown (2017) cũng xác nhận mối quan hệ dài hạn giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Châu Á thông qua mô hình ARDL.
Nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế không chỉ sử dụng dữ liệu trong một quốc gia mà còn dữ liệu đa quốc gia, trong đó xem xét vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Acaravci và Öztürk (2012) đã chỉ ra thông qua kiểm định đồng liên kết và kiểm định nhân quả Granger rằng có mối quan hệ ngắn hạn và dài hạn giữa FDI, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế ở các nước Châu Âu mới Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Yao và Wei (2007), cho thấy FDI đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường xuất khẩu và có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở các nước công nghiệp mới.
Lim và Ho (2013) đã kiểm tra mối quan hệ phi tuyến giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế tại 5 quốc gia ASEAN thông qua các phương pháp kiểm định đồng liên kết phi tham số và kiểm định quan hệ nhân quả phi tuyến Nghiên cứu này chỉ ra rằng có mối quan hệ dài hạn phi tuyến giữa xuất khẩu và GDP bình quân đầu người ở Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Singapore Đồng thời, kết quả cũng cho thấy tác động nhân quả phi tuyến giữa xuất khẩu và GDP ở Thái Lan và Philippines.
Nhiều nghiên cứu đã áp dụng hồi quy bình phương nhỏ nhất hiệu chỉnh hoàn toàn (FMOLS) để phân tích mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế trong cả ngắn hạn và dài hạn Jaunky, V C (2011) đã chỉ ra rằng xuất khẩu thủy sản đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững ở các quốc đảo nhỏ đang phát triển (SIDS) Tương tự, Ee, C Y (2016) cũng khẳng định rằng xuất khẩu có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia tiểu vùng Sahara Châu Phi thông qua mô hình FMOLS.
Nghiên cứu của Pradhan (2016) cho thấy mối quan hệ động giữa kiều hối, xuất khẩu, tỷ giá hối đoái và tăng trưởng kinh tế ở các nền kinh tế mới nổi như Brazil, Liên bang Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi từ năm 1994-2013 Kết quả kiểm định đồng tích hợp đa biến cho thấy sự tồn tại của mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến Mô hình FMOLS chỉ ra rằng kiều hối và xuất khẩu có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế ở Brazil, Liên bang Nga và Ấn Độ, trong khi kiều hối lại có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc Mô hình VECM được áp dụng để phân tích mối quan hệ nhân quả dài hạn và ngắn hạn giữa các biến, cho thấy có mối quan hệ nhân quả dài hạn từ xuất khẩu và kiều hối đến tăng trưởng kinh tế.
Mô hình véc tơ hiệu chỉnh sai số (VECM) là một trong những công cụ phổ biến để phân tích mối quan hệ lâu dài giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế Tsitourasa và Nikas (2016) đã áp dụng cả mô hình dữ liệu bảng và mô hình chuỗi thời gian trong giai đoạn 1995-2014 để nghiên cứu mối liên hệ này ở 15 quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi tại Châu Âu Nghiên cứu cũng cung cấp thêm hai tài liệu hỗ trợ qua email: luanvanchat@gmail.com.
51 biến đầu tư trong nước và chi tiêu chính phủ Tan, B W., & Tang, C F.
Nghiên cứu năm 2016 về các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN cho thấy rằng thương mại, đầu tư và lãi suất cho vay có tác động đáng kể đến sự phát triển kinh tế trong khu vực này.
Majid và Elahe (2016) sử dụng mô hình VECM để phân tích mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế tại 16 quốc gia đang phát triển (8 quốc gia Châu Âu và 8 quốc gia Châu Á), cho thấy mối quan hệ nhân quả tích cực giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế cả trong ngắn hạn và dài hạn Đào Thị Bích Thủy (2016) cũng áp dụng mô hình tăng trưởng kinh tế của Feder (1982) để nghiên cứu 5 nước Đông Nam Á trong giai đoạn 1990-2014, phát hiện rằng xuất khẩu có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, với 1% tăng trong xuất khẩu dẫn đến 0,11% tăng trong sản lượng của các khu vực khác Nghiên cứu khuyến nghị chính sách tăng trưởng nên tập trung vào đầu tư gia tăng năng suất của khu vực xuất khẩu.
Nghiên cứu cho thấy xuất khẩu ngành cụ thể có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế Sanjuán‐López và Dawson (2010) đã kiểm tra mối quan hệ giữa xuất khẩu nông nghiệp và tăng trưởng kinh tế tại 42 quốc gia đang phát triển, phát hiện mối liên hệ dài hạn với độ co giãn xuất khẩu nông nghiệp đối với GDP là 0,07, trong khi xuất khẩu phi nông nghiệp là 0,13 Họ cũng chỉ ra rằng tổng xuất khẩu có quan hệ nhân quả Granger với GDP, ủng hộ giả thuyết tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu Tương tự, Jaunky (2011) khẳng định xuất khẩu cá cũng có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở các nước nhóm đảo.
Nghiên cứu của Golub và Varma (2014) cho thấy rằng việc đánh bắt cá quá mức và bất hợp pháp có thể dẫn đến sự phát triển kinh tế không bền vững ở các quốc gia kém phát triển như Bangladesh, Campuchia, Comoros, Siera Leona và Uganda, mặc dù xuất khẩu cá vẫn có tiềm năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Ngược lại, nghiên cứu của Wen và cộng sự (2019) chỉ ra rằng không có mối quan hệ bền vững dài hạn giữa xuất khẩu thịt gà và tăng trưởng kinh tế ở Hoa Kỳ, Brazil và Trung Quốc, mặc dù xuất khẩu thịt gà góp phần vào tăng trưởng kinh tế tại Hoa Kỳ Chỉ số kéo trực tiếp của thịt gà lên tăng trưởng kinh tế tương đối nhỏ và ít biến động, với Trung Quốc có chỉ số cao gấp 14 lần Hoa Kỳ và tác động vào tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ gấp 8 lần Trung Quốc, trong khi ở Brazil, chỉ số này cao gấp 1,65 lần so với Trung Quốc.
Đánh giá các công trình nghiên cứu trước và hướng nghiên cứu
Nghiên cứu cho thấy xuất khẩu ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế theo nhiều cách khác nhau Nhiều nghiên cứu khẳng định rằng xuất khẩu có tác động tích cực đến tăng trưởng, trong khi một số khác lại chỉ ra tác động tiêu cực Hướng tác động này có sự khác biệt giữa các quốc gia và trong các thời kỳ khác nhau của một quốc gia Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu đều thống nhất rằng xuất khẩu là yếu tố quan trọng trong quá trình tăng trưởng kinh tế.
Nghiên cứu trên toàn cầu đã áp dụng nhiều mô hình khác nhau như OLS, ARDL, FMOLS, ECM và VECM để đánh giá tác động của xuất khẩu đối với tăng trưởng kinh tế Cụ thể, các tác giả như Thirunavukkarasu & Achchuthan (2014), Ahmad và Ahmad (2018) đã sử dụng mô hình OLS, trong khi Goh, Sam và McNown (2017) cùng Sothan (2016) đã áp dụng mô hình ARDL Ngoài ra, Pradhan (2016) và Jaunky (2011) đã nghiên cứu với mô hình FMOLS, còn các nghiên cứu của Lim và Ho (2013), Shahbaz và Rahman (2014), Dritsaki (2014), Majid và Elahe (2016), Tsitourasa và Nikas (2016) đã sử dụng ECM và VECM Hơn nữa, các nghiên cứu thực nghiệm với dữ liệu đa quốc gia của Tekin (2012), Hye, Wizarat và Lau (2013), cùng dữ liệu quốc gia của Mishra cũng góp phần làm rõ mối liên hệ này.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế, với Dritsaki (2013) và Shahbaz cùng Rahman (2014) nhấn mạnh sự tồn tại của nhân quả trong khi Lim và Ho (2013) đề xuất mối quan hệ phi tuyến cả ngắn hạn và dài hạn László Kónya (2006) xác nhận có quan hệ nhân quả một chiều từ xuất khẩu đến GDP tại một số quốc gia như Bỉ, Đan Mạch và Thụy Điển Các nghiên cứu gần đây như của Tsitourasa và Nikas (2016) cùng Sothan (2016) cũng khẳng định mối liên hệ lâu dài giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế Bên cạnh đó, tỷ giá thực đa phương được xem là biến trung gian trong mối quan hệ này (Esfahani, 1991; Khan và Saqib, 1993; Nguyễn Quang Hiệp, 2014) Dritsaki (2013) cũng chỉ ra mối quan hệ nhân quả giữa tăng trưởng kinh tế với xuất khẩu và nợ chính phủ.
Nghiên cứu của & Tang, C F (2016) chỉ ra rằng thương mại (xuất nhập khẩu) có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN, đồng thời nhấn mạnh vai trò quan trọng của lãi suất cho vay trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại khu vực này.
Bảng 2.1: Tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của các công trình nghiên cứu tiền nghiệm xem xét mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế
Loại dữ liệu Dữ liệu 1 ngành (cả
PP đơn quốc gia và đa Dữ liệu đơn quốc gia nghiên cứu quốc gia) gia
OLS Thirunavukkarasu & Đào Thị Bích Thủy
Shirazi và Manap (2005) Javed Jaunky, V C. và cộng sự (2012) (2011).
Vincent, K (2017) Nguyễn Thị Thu Thủy (2014) Sharma, Rishad và Gupta (2018)
Sharma, Rishad và Gupta (2018) Bakari, S., & Mabrouki, M.
(2017). ho tro tai file : luanvanchat@gmail.com
ARDL Priyankara, E A C Hoàng Xuân Bình (2011), Hye, Wizarat và
Jawaid, S T., Dritsaki (2014) Sothan (2016) và Siddiqui, M H., Atiq, Sultanuzzaman, Akash, Wang Goh,
Z., & Azhar, U và Shakij (2018) Sam và McNown
VECM Waithea K và cộng sự Nguyễn Quang Hiệp (2014, Pradhan, K C.
Ahmad, D., và Lim và Ho, 2013; Shahbaz và Lim và Ho (2013) Ahmad, J (2018) Rahman, 2014; Dritsaki, 2014; Tsitourasa và Nikas Sanjuán‐
& Dawson, P J Majid và Elahe, 2016; Tan, B W., &
(2010) Tsitourasa và Nikas, 2016 Tang, C F (2016) Wen, X và cộng sự Bakari & Mabrouki (2017) Majid và Elahe
Achchuthan (2014) Bakari & Mabrouki (2017) Ahmad, D., và Ahmad, J.
FMOLS Vincent, K (2017) Zainal Abidin, I S., Bakar, A., Jaunky, V C.
(2018) Bakar, N A A., Abidin, I S Pradhan, K C. Priyankara, E A C Z., & Haseeb, M (2015) (2016).
Jaunky, V C (2011) economic growth: the case of SIDS.
Tại Việt Nam, mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu Các nghiên cứu học thuật về tác động của xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế được thực hiện một cách bài bản, với nền tảng lý thuyết vững chắc và mô hình nghiên cứu khoa học Sử dụng các phương pháp hiện đại, những nghiên cứu này giúp định lượng các mối quan hệ và mang lại kết quả có độ tin cậy cao.
Đến nay, mặc dù đã có một số nghiên cứu sử dụng mô hình VECM để phân tích mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế, nhưng số lượng nghiên cứu vẫn còn hạn chế và kết quả chưa đạt được kỳ vọng Một số nghiên cứu tiêu biểu áp dụng mô hình VECM bao gồm các tác phẩm của Nguyễn Quang Hiệp (2014, 2016) Trong khi đó, các nghiên cứu khác như của Hoàng Xuân Bình (2011) và Phan Thế Công (2011) lại sử dụng mô hình ARDL; bên cạnh đó, Phạm Mai Anh cũng có những đóng góp đáng kể trong lĩnh vực này.
Năm 2008, mô hình VAR đã được áp dụng, trong khi các nghiên cứu tiếp cận bằng mô hình OLS như của Nguyễn Thị Thu Thủy (2014) và Đào Thị Bích Thủy (2016) cũng được ghi nhận Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu tại Việt Nam chỉ tập trung vào việc đánh giá mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế ở cấp quốc gia.
Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế trên toàn cầu cho thấy kết quả có sự khác biệt, phụ thuộc vào cách tiếp cận lý thuyết, phương pháp kinh tế lượng và dữ liệu sử dụng Nghiên cứu số liệu bảng thường chỉ ra mối quan hệ tích cực, trong khi nghiên cứu chuỗi thời gian lại phụ thuộc vào quốc gia, khoảng thời gian và phương pháp phân tích Hơn nữa, nghiên cứu số liệu chéo có thể làm mờ đi những đặc điểm riêng của các nước đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia có thu nhập thấp và các nước xuất khẩu dầu Gần đây, các nghiên cứu chủ yếu áp dụng mô hình VECM và FMOLS, được xây dựng từ mô hình VAR, nhằm xem xét quan hệ đồng tích hợp giữa các biến kinh tế.
Mô hình VECM (Vector Error Correction Model) thể hiện mối quan hệ đồng tích hợp giữa các biến, cho phép phân tích hành vi của các biến nội sinh trong dài hạn, đồng thời vẫn chấp nhận sự biến động trong ngắn hạn (Blecker, 2009) VECM có khả năng ước lượng các chuỗi không dừng có quan hệ đồng tích hợp mà không gặp phải vấn đề hồi quy giả mạo, khác với mô hình VAR yêu cầu tất cả biến phải là dừng Nhờ vào cấu trúc này, VECM cung cấp thông tin quan trọng về điều chỉnh ngắn hạn và dài hạn, do đó, cần có nhiều nghiên cứu sâu hơn để khai thác tiềm năng của mô hình này.
56 hình VECM hơn nữa để khám phá bản chất của tác động xuất khẩu đối với tăng trưởng kinh tế.
Mô hình FMOLS được sử dụng phổ biến để ước lượng mối quan hệ dài hạn giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong các nghiên cứu phân tích dữ liệu theo thời gian Tuy nhiên, dữ liệu chuỗi thời gian thường không dừng, và việc lấy sai phân của các chuỗi không dừng I(0) có thể dẫn đến mất mát thông tin dài hạn.
Mô hình FMOLS, được đề xuất bởi Kao và Chiang (2000), là công cụ hiệu quả để ước lượng các mối quan hệ dài hạn và nhân quả giữa các biến khi các chuỗi có quan hệ đồng tích hợp Bằng cách bổ sung thành phần hiệu chỉnh sai số ECM vào phương trình, mô hình này cho phép xem xét các quan hệ dài hạn một cách chính xác Ngoài ra, FMOLS còn nổi bật với khả năng xử lý vấn đề nội sinh và tương quan chuỗi, mang lại nhiều lợi ích trong nghiên cứu kinh tế (Moutinho & Robaina, 2016; Dogan & Seker, 2016).
Nghiên cứu này nhằm làm rõ vai trò của xuất khẩu thủy sản đối với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam, một lĩnh vực chưa được đánh giá cụ thể trong các nghiên cứu trước đây Tác giả áp dụng mô hình FMOLS và VECM để phân tích mối quan hệ giữa xuất khẩu thủy sản và tăng trưởng ngành thủy sản, cũng như tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế quốc gia trong cả ngắn hạn và dài hạn Hai mô hình này phù hợp với dữ liệu chuỗi thời gian được sử dụng và có khả năng xử lý các biến nội sinh thông qua việc bổ sung thành phần hiệu chỉnh sai số Ngoài việc xem xét kênh truyền dẫn tỷ giá, nghiên cứu còn tích hợp các biến truyền dẫn khác như độ mở thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhằm lấp đầy các khoảng trống trong nghiên cứu hiện tại.
Mô hình nghiên cứu của luận án
Luận án này đề xuất một mô hình nghiên cứu nhằm khám phá mối quan hệ giữa xuất khẩu thủy sản và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam Mô hình được phát triển dựa trên kết quả tổng quan lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm, với các kênh truyền dẫn được minh họa trong hình 2.1.
Xuất khẩu có vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế bằng cách thu hút và hình thành các yếu tố nguồn lực cần thiết Sự gia tăng xuất khẩu không chỉ tạo thêm việc làm cho lao động mà còn thúc đẩy nền kinh tế sử dụng hiệu quả hơn các yếu tố sản xuất hiện có Đặc biệt, xuất khẩu thủy sản tăng trưởng sẽ góp phần tạo ra nhiều cơ hội việc làm trong ngành này, từ đó ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế của ngành và đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế quốc gia.
Theo mô hình vòng xoắn tiến, xuất khẩu mang lại các ngoại ứng công nghệ tích cực cho nền kinh tế, giúp các nền kinh tế mở tiếp cận công nghệ, thúc đẩy nghiên cứu và phát triển Xuất khẩu cũng thu hút đầu tư nước ngoài, tăng năng suất lao động và góp phần vào tăng trưởng kinh tế Do đó, luận án đề xuất kênh truyền dẫn thứ hai là vốn đầu tư FDI.
Mô hình đề xuất thêm biến truyền dẫn là biến độ mở thương mại, vì độ mở thương mại có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ Điều này nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực và cải thiện năng suất nhờ vào việc phổ biến kiến thức và công nghệ Do đó, nhiều quốc gia đã hướng chính sách đến tự do hóa thương mại và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, coi đây là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế.
Biến độ mở thương mại là một yếu tố quan trọng được nhiều tác giả nghiên cứu trong việc đánh giá mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế (Tan, B W., & Tang, C F., 2014).
Trong nghiên cứu này, độ mở thương mại được coi là một yếu tố quan trọng cần xem xét trong mối quan hệ giữa xuất khẩu thủy sản và tăng trưởng kinh tế.
Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu mối quan hệ giữa xuất khẩu thủy sản và tăng trưởng kinh tế
Nguồn: Tác giả đề xuất, 2020
Tăng trưởng kinh tế cải thiện năng lực cạnh tranh thông qua việc nâng cao năng suất nhờ khai thác hiệu quả kinh tế theo quy mô và tiến bộ công nghệ Khi năng suất tăng, chi phí nhân công trong giá thành sản phẩm sẽ giảm nếu tiền lương không tăng tương ứng, dẫn đến giá hàng hóa trong nước giảm Theo lý thuyết, tỷ giá thực hiệu chỉnh (REER) có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với giá trong nước; do đó, khi năng suất tăng và giá cả giảm, REER sẽ tăng, cải thiện khả năng cạnh tranh thương mại quốc tế và thúc đẩy xuất khẩu Các nghiên cứu của Blecker (2009), Sahni và Atri (2012), Tanjung (2012) cũng xác nhận luận điểm này Do đó, REER là kênh truyền dẫn quan trọng trong mối quan hệ giữa xuất khẩu thủy sản và tăng trưởng kinh tế ngành thủy sản, cũng như tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Nội dung chương này, tác giả tập trung vào các vấn đề chính sau:
Tác giả đã tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nước, phân loại thành hai nhóm chính: nhóm nghiên cứu sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian từ các quốc gia riêng lẻ và nhóm nghiên cứu phân tích dữ liệu đa quốc gia Cả hai nhóm đều có chung kết luận về mối quan hệ tích cực giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế.
Nghiên cứu tiền nghiệm chỉ ra rằng mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế toàn cầu có những kết quả khác nhau, phụ thuộc vào lý thuyết và phương pháp kinh tế lượng được sử dụng Chủ đề này cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá sự tương quan giữa hai mục tiêu điều tiết vĩ mô tại Việt Nam.
Hầu hết các nghiên cứu hiện nay chủ yếu tập trung vào mối quan hệ giữa tổng kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia, trong khi rất ít nghiên cứu khai thác sâu về xuất khẩu của từng ngành cụ thể.
Luận án này xây dựng khung lý thuyết và đề xuất mô hình nghiên cứu nhằm phân tích mối quan hệ giữa xuất khẩu thủy sản và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam, dựa trên kết quả tổng quan lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm.