TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Cây cao su (Hevea brasiliensis) là cây đa mục đích với vai trò quan trọng trong kinh tế, bảo vệ môi trường và an ninh quốc phòng Dễ trồng và chăm sóc, cây cao su có chu kỳ kinh doanh dài, cho khai thác liên tục trên 20 năm Sản phẩm từ cây cao su không chỉ mang lại giá trị kinh tế cao hơn so với các cây lâm nghiệp khác mà còn phát triển mạnh mẽ ở châu Á, chiếm 92% diện tích và 90% sản lượng mủ cao su toàn cầu Năm 2018, diện tích và sản lượng cao su thế giới đạt 11,80 triệu ha và 14,3 triệu tấn Theo Hiệp hội các nước sản xuất cao su thiên nhiên, mủ cao su là một trong bốn nguyên liệu chính của ngành công nghiệp toàn cầu, chỉ sau gang thép, than đá và dầu mỏ, với 70% sản lượng phục vụ cho ngành vận tải.
Việt Nam đứng thứ 3 thế giới về sản xuất cao su thiên nhiên với diện tích 969.700 ha, trong đó 653.200 ha là diện tích thu hoạch, sản lượng đạt 1.094.500 tấn và năng suất trung bình 1.676 kg/ha/năm Ngành cao su tập trung vào xuất khẩu, với ba nhóm sản phẩm chủ lực gồm nguyên liệu cao su thiên nhiên, sản phẩm chế biến từ cao su, và gần đây là gỗ cao su cùng đồ gỗ từ gỗ cao su Năm 2017, tổng kim ngạch xuất khẩu của ba nhóm mặt hàng này đạt trên 6,2 tỷ USD, góp 3% vào tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam Sự phát triển của ngành cao su đã tạo ra khoảng 500.000 việc làm, bao gồm lao động từ 264.000 hộ cao su tiểu điền.
Tỉnh Thừa Thiên Huế có khoảng 367 ngàn ha đất đồi núi, chiếm 73,3% diện tích tự nhiên, với gần 70% dân số sống ở nông thôn Ruộng đất ở đây không tập trung lớn, kết cấu hạ tầng còn nhiều bất cập và đời sống nhân dân gặp khó khăn, không đồng đều giữa các vùng Những yếu tố này tạo ra thách thức trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của tỉnh.
Thừa Thiên Huế có diện tích 100% là cây cao su tiểu điền (CSTĐ), với khoảng 8600 ha vào năm 2019, cho thấy tiềm năng lớn để phát triển cây cao su Việc phát triển CSTĐ không chỉ giúp ổn định sản xuất cho các hộ dân tộc thiểu số và nông dân nghèo, mà còn đóng góp vào mô hình kinh tế trang trại và sản xuất nông sản thân thiện với môi trường Cây cao su được xem là chiến lược trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo bền vững ở khu vực nông thôn Tuy nhiên, mặc dù số lượng cây cao su tăng nhanh, chất lượng vẫn chưa đảm bảo do phần lớn diện tích trồng manh mún, thiếu quy hoạch, cơ cấu giống chậm đổi mới và việc áp dụng khoa học kỹ thuật chưa đồng bộ.
Công tác bón phân cho cây cao su tại Thừa Thiên Huế còn nhiều bất cập, khi lượng phân bón sử dụng thấp hơn so với quy trình hướng dẫn, điều này tạo điều kiện cho nghiên cứu về bón phân cho cây cao su Việc trồng xen và quản lý giữa các hàng cao su cũng chưa được chú trọng, mặc dù giống gừng Dé và cây dứa có tiềm năng cao trong việc xen canh Thêm vào đó, tình hình thời tiết biến đổi bất thường và bệnh rụng lá trên cây cao su đang gia tăng, với nguyên nhân chính là nấm Corynespora cassiicola đã được xác định qua nghiên cứu 110 mẫu bệnh lá Do đó, nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật trong sản xuất cao su tại tỉnh Thừa Thiên Huế là rất cần thiết để nâng cao hiệu quả sản xuất và quản lý bệnh.
MỤC TIÊU ĐỀ TÀI
Mục tiêu chung
Để nâng cao thu nhập cho các nông hộ trồng cao su tiểu điền tại tỉnh Thừa Thiên Huế, việc xác định biện pháp kỹ thuật canh tác phù hợp là rất quan trọng Điều này không chỉ giúp hoàn thiện quy trình kỹ thuật canh tác cây cao su mà còn góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp trong khu vực.
- Đánh giá được hiện trạng sản xuất CSTĐ tại Thừa Thiên Huế.
- Xác định được cây trồng xen hiệu quả cho vườn cao su kiến thiết cơ bản ở Thừa Thiên Huế.
Để tối ưu hóa hiệu quả cho vườn cao su kiến thiết cơ bản và cao su kinh doanh, việc xác định liều lượng bón phân hữu cơ sinh học đậm đặc và phân vi sinh siêu đậm đặc là rất quan trọng Việc áp dụng đúng liều lượng không chỉ giúp cây phát triển khỏe mạnh mà còn nâng cao năng suất và chất lượng mủ cao su.
- Đánh giá được hiệu lực của một số thuốc hóa học trong việc phòng trừ bệnh rụng lá cao su do nấm C cassiicola.
Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
Ý nghĩa khoa học
Đề tài này nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho việc cải thiện sản xuất cao su tiểu điền thông qua giải pháp hệ thống và hoàn chỉnh Bài viết cũng đề xuất một số biện pháp kỹ thuật như trồng xen, sử dụng phân hữu cơ sinh học và xử lý chế phẩm vi sinh để nâng cao hiệu quả sản xuất.
Ba phương pháp phòng trừ bệnh rụng lá do nấm C cassiicola gây hại cho cây CSTĐ đã được xác định Những nghiên cứu khoa học này sẽ góp phần hoàn thiện quy trình kỹ thuật chăm sóc cây CSTĐ tại Thừa Thiên Huế.
Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài là cơ sở để hoàn thiện quy trình kỹ thuật CSTĐ bền vững, góp phần phát triển sản xuất CSTĐ tại Thừa Thiên Huế.
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Khoảng cách trồng xen giống gừng Dé trong vườn cao su 2 năm tuổi được xác định là 30 × 40 cm, với mật độ 45.800 cây/ha và diện tích trồng xen đạt 55%.
Giống dứa Queen được xác định là phù hợp để xen canh trong vườn cao su 2 năm tuổi, với khoảng cách trồng 50 × 40 cm, đạt mật độ 27.500 cây/ha Năng suất thu hoạch sau 2 vụ tơ và vụ gốc đạt mức cao nhất.
Sử dụng biện pháp hóa học phun difenoconazole (Score 250EC) nồng độ 0,1% vào thời điểm cao su thay lá mới từ tháng 2 đến tháng 3, kết hợp với bón phân hữu cơ sinh học đậm đặc Trimix-N1 với liều lượng 833 kg/ha và 1.665 kg/ha, cùng với phân hữu cơ vi sinh siêu đậm đặc Trichomix-DT với liều lượng 10 kg/ha và 20 kg/ha, đã giúp tăng năng suất mủ của vườn cao su kinh doanh từ 66,2% đến 70,5% so với đối chứng.
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.1 Khái niệm và vai trò của cao su tiểu điền
1.1.1.1 Khái niệm cao su tiểu điền
Cao su tiểu điền là những vườn cao su có diện tích nhỏ, thường từ một đến vài chục hecta, chủ yếu do các hộ nông dân trồng và sở hữu Những vườn cao su này được nông dân đầu tư vốn hoặc nhận hỗ trợ vay vốn từ các tổ chức để phát triển.
Hộ CSTĐ sở hữu đầy đủ các đặc điểm cơ bản của một nông hộ, bên cạnh đó, cây cao su là loại cây công nghiệp lâu năm với sản phẩm hoàn toàn là hàng hóa, do đó, nó còn có những đặc trưng riêng biệt khác.
- Mục đích của CSTĐ là sản xuất hàng hóa với quy mô tương đối lớn.
Mức độ tập trung và chuyên môn hóa trong sản xuất cây cao su cao hơn so với các nông hộ khác, điều này được thể hiện qua quy mô đất đai, lao động và giá trị hàng hóa Cây cao su yêu cầu một quy mô sản xuất lớn và không thể phát triển hiệu quả nếu phân tán quá nhỏ.
Cao su là một cây trồng kinh tế quan trọng, yêu cầu các hộ sản xuất phải không ngừng học hỏi để nâng cao kỹ năng chăm sóc và khai thác Việc sử dụng lao động gia đình kết hợp với lao động thuê ngoài có kiến thức chuyên môn sẽ giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất cao su.
Diện tích lớn và tài sản chủ yếu là vườn cây cao su của các hộ CSTĐ được phân bố rộng rãi, nhưng cũng chịu ảnh hưởng đáng kể từ điều kiện thời tiết và khí hậu, dẫn đến mức độ rủi ro cao.
1.1.1.2 Vai trò của cao su tiểu điền Đối với phát triển kinh tế:
Mủ cao su là sản phẩm chính của cây cao su, nổi bật với độ co giãn và đàn hồi cao, khả năng chống nứt và lạnh tốt, ít phát nhiệt khi cọ xát, và dễ dàng sơ luyện Đây là nguyên liệu quan trọng trong công nghệ chế biến các sản phẩm thiết yếu cho đời sống hàng ngày Các sản phẩm cao su chủ yếu có thể được phân loại thành nhiều loại khác nhau.
Vỏ và ruột xe được sản xuất chủ yếu từ mủ cao su, bao gồm các loại từ xe đạp đến ô tô và máy bay Ngành công nghiệp này tiêu thụ khoảng 70% lượng cao su thiên nhiên toàn cầu Tuy nhiên, sản xuất mủ cao su tại Việt Nam cho các sản phẩm này vẫn còn hạn chế.
+ Các sản phẩm thông dụng: Như ống nước, giày dép, vải không thấm nước, dụng cụ gia đình, y tế, thể dục thể thao, đồ chơi trẻ em.
Các sản phẩm nệm chống sốc và cao su xốp, bao gồm gối nệm cầu, gối nệm nhà chống động đất, nệm, găng tay và thuyền cao su, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cuộc sống xã hội, đảm bảo an toàn và tiện nghi cho người sử dụng.
Việc trồng và chăm sóc cây cao su cần một lượng lao động lớn và ổn định trong suốt 20-25 năm, với tỷ lệ 1 lao động cho mỗi 2-3 ha, tạo cơ hội việc làm thường xuyên cho nhiều người Theo thống kê của Tập đoàn Cao su Việt Nam năm 2015, diện tích cao su đã tăng mạnh, chiếm hơn 50% tổng diện tích Mặc dù ngành cao su đang đối mặt với nhiều khó khăn như giá thấp, biến đổi khí hậu, khô hạn kéo dài và mưa nhiều trong mùa khai thác, Tập đoàn vẫn hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra.
Năm 2016, doanh thu tăng 14% so với kế hoạch và lợi nhuận vượt hơn 50%, tạo việc làm cho trên 90.000 lao động, trong đó có hơn 26.300 lao động là người dân tộc, chiếm 28,6% Mức thu nhập trung bình đạt trên 6 triệu đồng/người/tháng, mang lại thu nhập ổn định cho người lao động nông thôn, giúp họ vượt qua đói nghèo và vươn lên khá giả Đồng thời, việc phát triển cơ sở hạ tầng và đô thị hóa cũng được chú trọng.
Phát triển cây cao su không chỉ thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp mà còn góp phần quan trọng vào việc cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, bao gồm điện, đường, trường học, bệnh viện và các dịch vụ khác Đặc biệt, sự phát triển này còn đảm bảo xây dựng nhà ở cho người lao động, tạo điều kiện sống tốt hơn cho họ trong quá trình phát triển các vườn cây cao su.
Sự phát triển vùng chuyên canh cao su trong những năm qua đã gắn liền với việc hình thành các khu dân cư mới và khu vực hành chính địa phương, thể hiện vai trò kinh tế và xã hội quan trọng Bên cạnh đó, cây cao su cũng góp phần vào quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đặc biệt tại các tỉnh biên giới Việt Nam giáp với Campuchia và Lào Các dự án đầu tư cao su tại Lào và Campuchia không chỉ thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn có ý nghĩa lớn trong việc tăng cường bảo vệ an ninh quốc gia trong bối cảnh hiện nay.
Cây cao su đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, mang lại nhiều lợi ích cho người trồng và cộng đồng Việc phát triển cây cao su không chỉ hỗ trợ người nông dân mà còn góp phần vào công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp cũng như nông thôn trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2 Vai trò của phân bón hữu cơ đối với cây cao su
1.1.2.1 Vai trò của phân hữu cơ
Phân bón hữu cơ có vai trò quan trọng trong việc cải thiện chất lượng đất và hỗ trợ sự phát triển của cây trồng Chất hữu cơ trong đất ảnh hưởng đến các đặc tính lý, hóa và sinh học của nó Theo Michel (1989), phân hữu cơ được phân loại dựa trên mức độ khoáng hóa và khả năng tạo mùn Chất hữu cơ có tỷ lệ carbon/nitơ (C/N) cao, khi được vùi trực tiếp vào đất, được gọi là chất hữu cơ cải tạo đất Ngược lại, chất hữu cơ có C/N thấp, dù qua chế biến hay không, được xem là phân hữu cơ Phân hữu cơ bao gồm các loại chất hữu cơ như phân bắc, nước giải, phân gia súc, gia cầm, tàn dư thực vật và rác đô thị sau khi chế biến thành phân ủ Ngoài ra, các chế phẩm công nghiệp thực phẩm khi được vùi vào đất cũng thuộc loại phân hữu cơ Khi bổ sung vi sinh vật có ích trong sản xuất, phân hữu cơ sẽ trở thành phân hữu cơ vi sinh.
Phân hữu cơ là nguồn cung cấp đầy đủ các nguyên tố dinh dưỡng đa, trung và vi lượng, điều mà phân khoáng không thể so sánh Ngoài việc cải thiện cấu trúc đất, phân hữu cơ còn tạo ra chất mùn giúp đất tơi xốp hơn, thúc đẩy sự phát triển của bộ rễ, giảm thiểu mất nước do bốc hơi, đồng thời chống hạn và xói mòn hiệu quả.
CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.2.1 Tổng quan về cao su tiểu điền
1.2.1.1 Hiện trạng phát triển cao su tiểu điền trên thế giới
Trên thế giới, hình thức sản xuất cao su rất đa dạng, với một số quốc gia trồng cao su trên diện tích lớn từ 500 – 10.000 ha, gọi là cao su đại điền, trong khi những nơi khác lại trồng trên diện tích nhỏ từ 1,0 – 2,0 ha, được gọi là cao su tiểu điền (CSTĐ) Tuy nhiên, CSTĐ đóng vai trò quan trọng trong sản xuất cao su toàn cầu, chiếm khoảng 80 – 90% tổng diện tích trồng cao su Đặc biệt, ở các quốc gia như Mexico, Nigeria, Cameroon, Campuchia và Trung Quốc, tỷ lệ CSTĐ chỉ chiếm khoảng 3 – 5%, cho thấy sự khác biệt trong quy mô sản xuất cao su giữa các quốc gia Sản lượng của CSTĐ và cao su đại điền trên toàn cầu được thể hiện rõ trong Bảng 1.1.
Năm 2019, sản lượng cao su tự nhiên (CSTĐ) trên toàn cầu đạt 9203,04 nghìn tấn, tăng 2340,18 nghìn tấn so với năm 2010 Trong khi đó, sản lượng cao su đại điền chỉ đạt 4491,96 nghìn tấn Điều này cho thấy CSTĐ luôn chiếm ưu thế hơn cao su đại điền, với tỷ lệ lên đến hơn 65% tổng sản lượng cao su thiên nhiên trên thế giới.
Bảng 1.1 Sản lượng cao su giữa hai loại hình đại điền và tiểu điền ĐVT: 1000 (tấn)
Năm Tổng Đại điền Tiểu điền Tiểu điền (%)
Trên toàn cầu, năng suất của cây cao su tiểu điền (CSTĐ) thường thấp hơn so với cây cao su đại điền Nguyên nhân chính là do quy mô đầu tư sản xuất ở các nông hộ gặp nhiều hạn chế.
Phần lớn nông hộ trồng cao su sở hữu diện tích vườn nhỏ hơn 2 ha, buộc họ phải cạo mủ hàng ngày mà không có ngày nghỉ Nhịp độ cạo cao này gây hư hỏng nghiêm trọng cho mặt cạo, dẫn đến tình trạng nhiễm bệnh khô miệng cạo nặng nề, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất vườn cây.
- Phần lớn vườn CSTĐ có tỷ lệ lẫn giống cao.
Các vườn cây sắn giống (CSTĐ) thường nằm rải rác ở những khu vực hẻo lánh, với hệ thống giao thông không thuận lợi Việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp tại các hộ dân thường đòi hỏi nhiều công sức và thời gian.
- Thiếu vốn là yếu tố hạn chế quan trọng để cải thiện trang thiết bị và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất.
Căn cứ vào diện tích và mức độ đầu tư, cây cao su trên thế giới được phân thành ba loại: loại A có diện tích dưới 2 ha, loại B có diện tích từ 2 đến 4 ha, và loại C có diện tích lớn hơn 4 ha, có thể lên tới 80 - 100 ha Tại hầu hết các quốc gia trồng cao su, phần lớn nông hộ thuộc loại A, một số ít thuộc loại B, trong khi loại C rất hiếm gặp.
Để đạt được thành công cao trong việc trồng cao su, các quốc gia cần khai thác tốt điều kiện thiên nhiên và triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ nông hộ Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường thuận lợi cho ngành cao su phát triển bền vững.
Các cơ quan hỗ trợ khoa học kỹ thuật như Viện và Trung tâm nghiên cứu đóng vai trò quan trọng trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng cao su, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất cho nông hộ.
1.2.1.2 Hiện trạng phát triển cao su tiểu điền ở Việt Nam và Thừa Thiên Huế a) Các loại hình tham gia vào sản xuất cao su ở Việt Nam
Hiện nay, ngành trồng cao su có sự tham gia đông đảo từ nhiều tổ chức và cá nhân, bao gồm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Cao su, doanh nghiệp do chính quyền địa phương quản lý, doanh nghiệp quốc phòng, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và các hộ sản xuất tiểu điền.
Bảng 1.2 Diện tích, sản lượng và năng suất cao su tại Việt Nam theo loại hình sản xuất, 2016 – 2018
Năm Đại Quốc Tư Tiểu Tổng sản xuất điền doanh nhân điền cộng
Nguồn: Tổng hợp từ nguồn Tổng cục Thống kê, Cục Thống kê, các Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn; Hiệp hội Cao su Việt Nam (2019)[23].
Bảng 1.2 và Bảng 1.3 chỉ ra sự khác biệt về diện tích, năng suất và sản lượng giữa cao su đại điền và tiểu điền Mặc dù diện tích của hai loại hình sản xuất này gần tương đương nhau, với tỷ lệ lần lượt là 48,9% và 51,1% trong tổng diện tích cao su cả nước, nhưng diện tích khai thác mủ của cao su đại điền lại thấp hơn gần 20% so với tiểu điền Nguyên nhân là do diện tích tái canh của cao su đại điền cao hơn, đạt 39,3% trên tổng diện tích.
18 tích khai thác mủ của đại điền so với 60,7% diện tích khai thác mủ của CSTĐ) Năng suất bình quân của CSTĐ.
Diện tích, năng suất và sản lượng cao su đại điền đang có xu hướng giảm do nhiều yếu tố, bao gồm việc diện tích trồng cây đã đến giai đoạn tái canh và chính sách điều chỉnh nguồn cung từ các công ty cao su thiên nhiên, chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước Chính sách này nhằm mục tiêu giảm lượng cao su thiên nhiên cung cấp ra thị trường.
Bảng 1.3 Các tổ chức tham gia trồng cao su năm 2018 được khảo sát
Diện tích Lao động Tỷ trọng Tỷ trọng
Loại DN Số lượng diện tích lao động trồng (ha) (người)
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2021) [68]
Hình 1.2 Biểu đồ thay đổi diện tích trồng cao su của các loại hình
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2021)[68]
Diện tích, năng suất và sản lượng của cây cao su thiên nhiên (CSTĐ) tiếp tục gia tăng, có thể do các hộ tiểu điền chưa tiếp cận đầy đủ thông tin về cung-cầu toàn cầu Hơn nữa, nhiều hộ tiểu điền phải chấp nhận giảm lợi nhuận để duy trì thu nhập từ cây cao su Đặc biệt, phần lớn diện tích CSTĐ mới phát triển gần đây đang ở giai đoạn đạt sản lượng cao nhất từ các vườn cây trẻ.
Sản lượng cao su tiểu điền (CSTĐ) tại Việt Nam tiếp tục gia tăng, trong khi giá cao su thiên nhiên trên thị trường thế giới phục hồi chậm, điều này tạo ra khó khăn cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong việc kiểm soát nguồn cung Áp lực tồn kho tích lũy vẫn ở mức cao, ảnh hưởng đến thị trường cao su trong nước.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2018, Việt Nam có 263.876 hộ trồng cao su, chiếm 3,1% tổng số hộ nông nghiệp cả nước (8.454.263 hộ) Tổng diện tích trồng cao su đạt 495.033 ha, trong đó 396.376 ha đang cho thu hoạch, tương đương 80% tổng diện tích, còn lại 20% đang trong giai đoạn kiến thiết cơ bản Diện tích cao su bình quân mỗi hộ khoảng 1,88 ha.
Hình 1.3 Số hộ trồng cao su tiểu điền ở Việt Nam năm 2018 theo diện tích
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2021) [68].
Cao su tiểu điền đã phục hồi và phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam từ những năm 1980, đặc biệt là trong giai đoạn 2006 – 2015 Đến năm 2011, số hộ tham gia trồng cao su đã vượt quá 258.000 hộ, tăng hơn 43% so với năm 2006 Loại hình trồng cao su này chủ yếu tập trung ở ba vùng trọng điểm, trong đó Đông Nam Bộ chiếm 56% tổng số hộ tham gia trồng cao su vào năm 2017, tăng 118% so với trước đó.
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.3.1 Kết quả nghiên cứu về sử dụng phân hữu cơ cho cao su
Trong những năm qua, nghiên cứu về phân bón hữu cơ tại Việt Nam vẫn chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng, mặc dù đã có nhiều đề tài từ các đơn vị trong và ngoài nước Các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào hiệu lực và hiệu quả của phân bón hữu cơ, đặc biệt là phân hữu cơ vi sinh để phục vụ nông nghiệp Một số đề tài tiêu biểu bao gồm nghiên cứu sản xuất phân hữu cơ vi sinh cho cây cao su từ than bùn và phế phụ phẩm nông nghiệp, đánh giá ảnh hưởng của phân hữu cơ đến năng suất rau, và nghiên cứu phân vùng địa lý sinh thái hiệu lực phân bón Việt Nam Tuy nhiên, công tác nghiên cứu trong lĩnh vực này vẫn chưa được đầu tư đúng mức, với nhiều nghiên cứu đã cũ hoặc chỉ dựa vào các dự án hợp tác quốc tế Trong giai đoạn 2006-2016, chỉ có ba đề tài cấp Bộ liên quan đến phân bón, trong đó hai đề tài về xử lý phế phụ phẩm và một đề tài về vi sinh vật, cùng với hai đề tài cấp nhà nước trong cùng thời gian.
Nghiên cứu về phân bón hiện chưa gắn liền với sự phát triển thực tế của ngành, dẫn đến hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao Thiếu các nghiên cứu hệ thống về mối liên hệ giữa tính chất đất và nhu cầu phân bón cho từng loại đất và vùng đất cụ thể Cần có nghiên cứu về phân bón phù hợp với các loại cây trồng và giai đoạn sinh trưởng khác nhau, cũng như đánh giá tác động môi trường và sức khỏe con người từ chất lượng nông sản Hiện tại, chưa có nghiên cứu bài bản về hiệu suất sử dụng phân bón và các giải pháp khắc phục thất thoát dinh dưỡng Việc chuyển giao kỹ thuật mới qua hệ thống khuyến nông để khuyến khích sử dụng phân bón hữu cơ còn hạn chế, với ít dự án khuyến nông về phân bón hữu cơ được triển khai.
Tại Indonesia, nghiên cứu đã chỉ ra rằng chất thải rắn từ nhà máy chế biến cao su có thể được sử dụng để sản xuất phân bón hữu cơ, được gọi là LOF (Phân Hữu Cơ Sản Xuất Tại Địa Phương), nhằm cải thiện độ phì nhiêu của đất Trước đây, các chất thải này thường gây ô nhiễm môi trường Sản phẩm LOF chứa 17,35% chất hữu cơ, 1,14% đạm, 0,53 ppm lân dễ tiêu, và cation kali trao đổi, cho thấy tiềm năng của nó trong nông nghiệp bền vững.
Hàm lượng latex sau thí nghiệm tăng cao khi cây cao su được bón phân LOF, với giá trị pH hơi kiềm đạt 8,0 và độ pH đạt 1,21 cmol(+)/kg.
N và K trong lá cao su có mối tương quan tốt hơn với tính chất latex so với hàm lượng
Một nghiên cứu tại Tanjung Tengah, Indonesia, đã được thực hiện trong 3 tháng (từ tháng 5 đến tháng 8/2016) nhằm xác định liều lượng bón LOF tối ưu cho cây cao su Nghiên cứu đã thử nghiệm các liều lượng bón khác nhau là 0, 10, 20, 30, 40 và 50 kg/cây.
Kết quả nghiên cứu cho thấy việc bón LOF với các liều lượng 15, 20 và 25 tấn/ha không tác động đến thể tích mủ, trọng lượng mủ và trọng lượng mủ cốm Tuy nhiên, năng suất cao su có xu hướng giảm khi lượng bón LOF tăng lên.
Nghiên cứu của Samappuli và cộng sự (1998) cho thấy việc sử dụng tủ thảm hữu cơ bằng rơm rạ trong 6 năm giúp rút ngắn thời gian kiến thiết cơ bản xuống 12 tháng, tối ưu hóa hàm lượng N, P, K trong đất, đồng thời tăng năng suất mủ cao su lên đến 158 kg/ha/năm trong suốt 8 năm cạo Ikram và Mohd Yusoff (1999) cũng đã chỉ ra rằng việc sử dụng phân hữu cơ và chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu EM có tác động tích cực đến sự sinh trưởng của cây cao su thực sinh Kết quả nghiên cứu cho thấy sinh trưởng và khả năng hấp thu dinh dưỡng của cây cao su thực sinh có thể đạt được chỉ với phân hữu cơ, không có sự khác biệt đáng kể giữa chế phẩm EM và phân chuồng, ngoại trừ khả năng hấp thu lân của chồi cao hơn khi sử dụng hỗn hợp.
Phong trào hữu cơ hóa trong bón phân cho cây cao su tại Việt Nam bắt đầu từ những năm 2000, với việc thử nghiệm bón phân phối hợp giữa hữu cơ và vô cơ ở nhiều công ty cao su tại Đông Nam Bộ Kết quả cho thấy, việc sử dụng phân vi sinh kết hợp với phân vô cơ đã cải thiện hàm lượng dinh dưỡng trong đất và lá cao su, đồng thời làm tăng sinh trưởng vườn cây cao su kiến thiết cơ bản từ 6 – 8% so với đối chứng, và năng suất vườn cao su kinh doanh đạt mức tương đương hoặc vượt trội so với phương pháp bón phân truyền thống.
Quy trình kỹ thuật cây cao su của Viện Nghiên cứu Cao su Việt Nam (2012)
Khuyến cáo bổ sung phân hữu cơ nhằm cải thiện độ phì của đất và tăng hiệu quả sử dụng phân vô cơ khi hàm lượng mùn trong vườn cây dưới 2,5% hoặc hàm lượng carbon hữu cơ (OC%) dưới 1,45% Các loại phân bón bao gồm phân hữu cơ truyền thống (như phân chuồng), phân hữu cơ vi sinh và phân khoáng hữu cơ Liều lượng khuyến nghị là từ 2 – 2,5 kg/hố tích mùn đa năng, tương đương khoảng 4 – 5 tấn phân hữu cơ trên 1 ha mỗi năm Đây là lượng phân bón phù hợp với thực tế sử dụng của nông dân, theo kết quả khảo sát cho thấy khoảng 4 – 6 tấn phân chuồng/ha, tức khoảng 6 – 10 kg/cây/năm.
1.3.2 Nghiên cứu phân hữu cơ sinh học và chế phẩm vi sinh trong việc quản lý bệnh rụng lá do nấm Corynespora cassiicola
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng vàng lá và rụng lá ở cây cao su có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó thiếu hụt hoặc mất cân bằng dinh dưỡng là phổ biến nhất Giống như các loại cây trồng khác, cây cao su cần các chất dinh dưỡng thiết yếu để phát triển khỏe mạnh Khi cây không được cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, hiện tượng vàng lá và rụng lá sẽ xuất hiện.
Tại Thừa Thiên Huế, nghiên cứu phân lập 110 mẫu bệnh lá cao su đã xác định nấm C cassiicola là nguyên nhân gây bệnh rụng lá ở cây cao su Nghiên cứu cũng cho thấy rằng nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển của nấm này dao động từ 25 đến 37 độ C, với điều kiện tối ưu là từ 32 đến 35 độ C trong môi trường invitro.
Nghiên cứu của Tập đoàn phân bón Điền Trang cho thấy việc sử dụng phân hữu cơ sinh học đậm đặc Trimix-N1 (2 – 3kg/gốc) kết hợp với phun nấm đối kháng Trichoderma dạng bột trên cây cao su tại Đông Nam Bộ mang lại hiệu quả cao Bón phân định kỳ 2 – 3 lần/năm và phun Trichomix-DT (500g/200 lít nước) mỗi 2 – 3 tháng giúp phòng ngừa nấm bệnh, trong đó chế phẩm Trichomix-DT chứa Trichoderma với nồng độ 1 × 10^8 cfu/g.
Bacillus subtilis có nồng độ 1 × 10^8 cfu/g; Phân bón gốc đậm đặc Trimix-N1 được sản xuất bằng công nghệ nấm đối kháng Trichoderma, bao gồm các thành phần hữu cơ, axít humic, và các yếu tố đa lượng, trung lượng.
Nghiên cứu của Viện Bảo vệ thực vật cho thấy biện pháp sinh học là giải pháp hiệu quả trong quản lý bệnh rụng lá do nấm C cassiicola gây ra trên cây cao su, đặc biệt tại các vùng trồng cao su ở Đông Nam Bộ.
Để bảo vệ cây cao su khỏi bệnh, vườn ươm và vườn KTCB nên sử dụng 200g chế phẩm sinh học Trichoderma dạng bột khô pha trong 15 lít nước cùng với chất bám dính Phun dung dịch này dưới dạng sương mù lên lá và thân cây cho diện tích 100m², đặc biệt là trong giai đoạn đầu khi tỷ lệ bệnh (TLB) dưới 15% Nên thực hiện phun từ 2 đến 3 lần để đạt hiệu quả tốt nhất.