Lời giới thiệu
Lí do chọn đề tài
Dạy học theo định hướng phát huy năng lực người học là yêu cầu cấp bách của ngành giáo dục Việt Nam nhằm hòa nhịp với xu thế phát triển toàn cầu Môi trường sống hiện đại đòi hỏi con người có những năng lực phù hợp với thời đại Do đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo khắc phục hạn chế của chương trình Giáo dục phổ thông hiện hành, đổi mới phương pháp dạy học để tăng cường hoạt động tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh.
Để bắt kịp xu thế và đáp ứng nhiệm vụ chung của ngành giáo dục, chúng tôi, những giáo viên, đã xác định rõ ràng việc đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đặc thù bộ môn và tình hình hiện tại Mục tiêu chính là nâng cao chất lượng giáo dục trong trường học, cải thiện năng lực chuyên môn và giảng dạy của giáo viên Quan trọng hơn, chúng tôi mong muốn góp phần hình thành năng lực tự chủ, phát triển bản thân, năng lực xã hội và những phẩm chất tốt đẹp cho học sinh.
Dạy học theo định hướng phát huy năng lực học sinh là xu thế cần thiết, đồng thời cũng là thách thức lớn đối với giáo viên, đặc biệt trong bộ môn Ngữ văn Giáo viên thường quen với phương pháp giảng dạy truyền thống, nơi họ áp đặt suy nghĩ và cảm nhận của mình lên học sinh Điều này dẫn đến việc cần thay đổi cách tiếp cận để khuyến khích sự sáng tạo và tư duy độc lập của học sinh trong quá trình học tập.
Việc giáo dục học sinh cần chuyển từ phương pháp dạy học một chiều sang mô hình lấy học sinh làm trung tâm, nhằm giúp các em nhận thức rõ hơn về cái đẹp và chân lý của cái thiện Học sinh không chỉ là đối tượng thụ động mà cần trở thành chủ thể tích cực trong quá trình học tập Tuy nhiên, số giáo viên chủ động và sáng tạo trong việc áp dụng các phương pháp dạy học mới, phát huy tính tự lực và sáng tạo của học sinh vẫn còn hạn chế Kỹ năng sống và khả năng giải quyết tình huống thực tiễn của học sinh chưa được chú trọng đúng mức, và việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy cũng chưa hiệu quả Các giờ học Ngữ văn hiện tại thường chỉ dừng lại ở việc ghi nhớ kiến thức mà chưa khuyến khích học sinh phát huy khả năng sáng tạo và chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức mới.
Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh giúp học sinh kết hợp linh hoạt kiến thức, kỹ năng với thái độ và động cơ cá nhân để đáp ứng hiệu quả các yêu cầu phức hợp trong nhiều hoàn cảnh Các năng lực đặc thù bao gồm năng lực giao tiếp tiếng Việt và năng lực thưởng thức văn học, bên cạnh đó, học sinh cũng cần phát huy năng lực giải quyết vấn đề, sáng tạo, hợp tác và tự quản Để thực hiện điều này, giáo viên cần có năng lực chuyên môn và phương pháp, cũng như khả năng định hướng và dẫn dắt học sinh giải quyết vấn đề thực tiễn, tổ chức hoạt động học tập khuyến khích sự chủ động và tích cực tham gia của học sinh.
Là một giáo viên, tôi luôn trăn trở về cách nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh, đặc biệt là giúp các em khám phá tri thức mới và áp dụng vào thực tiễn Do đó, tôi quyết tâm nghiên cứu và tìm hiểu để phát triển phương pháp dạy học phù hợp với thực tiễn giảng dạy Ngữ văn hiện nay.
Giải pháp thay thế
Vận dụng những phương pháp dạy học và kĩ thuật tổ chức dạy học tích cực nhằm phát huy năng lực của học sinh
Tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú trọng đến các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học và trải nghiệm sáng tạo Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học Cần đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá, với tiêu chí dựa vào năng lực đầu ra, xem xét sự tiến bộ trong quá trình học tập và nhấn mạnh khả năng vận dụng kiến thức vào các tình huống thực tiễn.
Trong bối cảnh đổi mới toàn diện giáo dục, việc cải cách phương pháp giảng dạy đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay Xuất phát từ những trăn trở trong quá trình dạy học môn ngữ văn ở trường THPT, tôi tìm kiếm cách thức để tổ chức giờ học hiệu quả, giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo Mục tiêu là tạo điều kiện để học sinh áp dụng kiến thức và kỹ năng vào thực tiễn, đồng thời phát triển năng lực vốn có của các em Đề tài này sẽ tập trung vào phương pháp giảng dạy bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong chương trình ngữ văn 10, với mong muốn chia sẻ kinh nghiệm và đề xuất phương pháp giảng dạy phù hợp với định hướng giáo dục hiện đại.
Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn nỗ lực tìm kiếm những phương pháp mới nhằm khuyến khích học sinh phát triển khả năng sáng tạo và khám phá tri thức mới Điều này không chỉ giúp học sinh tiếp cận kiến thức một cách hiệu quả hơn mà còn tạo ra hứng thú trong việc học tập.
Giả thuyết
Áp dụng phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực sẽ giúp học sinh chủ động tiếp thu tri thức và hình thành những năng lực quan trọng cho bản thân.
Tên sáng kiến
Vận dụng phương pháp dạy học theo định hướng phát huy năng lực của học sinh trong giảng dạy bài thơ “Nhàn” – Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: Hà Thị Liên
- Địa chỉ : Trường THPT Nguyễn Thị Giang - Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
- Email: hathilien.c3nguyenthigiang@vinhphuc.edu.vn
Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Đề tài này tập trung vào lĩnh vực Ngữ văn, áp dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực trong giảng dạy bài thơ trữ tình.
“Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm Nội dung nghiên cứu sẽ được áp dụng thử nghiệm ở đối tượng học sinh lớp 10A3, 10A7 của trường THPT Nguyễn Thị Giang
Các phương pháp và kỹ thuật tổ chức dạy học tích cực sẽ được áp dụng linh hoạt trong nhiều bài dạy khác của chương trình Ngữ văn phổ thông, từ đó tạo ra những cách tiếp cận hiệu quả trong giảng dạy thơ Điều này sẽ là tiền đề cho việc áp dụng rộng rãi hơn trong những năm tiếp theo.
Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DẠY HỌC NGỮ VĂN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT HUY NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH
Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy học Ngữ văn theo định hướng phát
Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng, 1998) định nghĩa "năng lực" là khả năng và điều kiện tự nhiên hoặc chủ quan có sẵn để thực hiện một hoạt động nào đó Năng lực bao gồm phẩm chất tâm lý và sinh lý, giúp con người hoàn thành các hoạt động với chất lượng cao.
Theo tài liệu tập huấn của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2014, năng lực được hiểu là sự kết hợp linh hoạt giữa kiến thức, kỹ năng và các yếu tố như thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân để đáp ứng hiệu quả yêu cầu phức tạp trong một bối cảnh cụ thể Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố, bao gồm phẩm chất, kiến thức và kỹ năng, qua các hoạt động của cá nhân để thực hiện công việc Đặc biệt, chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) sau năm 2015 đã xác định những năng lực cốt lõi mà học sinh Việt Nam cần có, nhằm phát triển toàn diện và đáp ứng yêu cầu của xã hội.
– Năng lực làm chủ và phát triển bản thân, bao gồm:
+ Năng lực giải quyết vấn đề
+ Năng lực quản lí bản thân
– Năng lực xã hội, bao gồm:
– Năng lực công cụ, bao gồm:
+ Năng lực sử dụng ngôn ngữ
+ Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin (ITC)
Năng lực có thể được hiểu ngắn gọn là khả năng sử dụng hiệu quả các yếu tố chủ quan để giải quyết các vấn đề trong học tập, công việc và cuộc sống hàng ngày.
1.1.2 Chương trình giáo dục định hướng năng lực
Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực, hay còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra, đã được thảo luận và nghiên cứu nhiều từ những năm 90 của thế kỷ trước.
Giáo dục định hướng phát triển năng lực đã trở thành xu hướng toàn cầu trong thời đại ngày nay, với mục tiêu chính là nâng cao khả năng và năng lực của người học.
Giáo dục định hướng năng lực tập trung vào việc nâng cao chất lượng đầu ra của quá trình dạy học, nhằm phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách và năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn Chương trình này chuẩn bị cho người học khả năng giải quyết các tình huống trong cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời nhấn mạnh vai trò chủ động của người học trong quá trình nhận thức.
Chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực tập trung vào chất lượng đầu ra, coi đó là "sản phẩm cuối cùng" của quá trình giáo dục Quản lý chất lượng dạy học chuyển từ việc kiểm soát "đầu vào" sang "đầu ra", tức là kết quả học tập của học sinh Chương trình này có những đặc trưng nổi bật, nhấn mạnh vào việc phát triển năng lực và kỹ năng của người học.
Mục tiêu học tập cần được xác định rõ ràng, với các kết quả cụ thể và có thể đo lường được Điều này giúp theo dõi và đánh giá sự tiến bộ của học sinh một cách liên tục, từ đó phản ánh chính xác khả năng phát triển của các em trong quá trình học tập.
Giáo viên đóng vai trò là người tổ chức và hỗ trợ học sinh tự lực trong việc tiếp thu kiến thức, đồng thời chú trọng phát triển khả năng giải quyết vấn đề và kỹ năng giao tiếp Để đạt được điều này, cần áp dụng các quan điểm, phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực, bao gồm cả phương pháp thí nghiệm và thực hành.
Hình thức dạy học cần được tổ chức đa dạng, bao gồm các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học và trải nghiệm sáng tạo Đồng thời, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông để nâng cao hiệu quả trong dạy và học.
Tiêu chí đánh giá năng lực được xác định dựa vào năng lực đầu ra và sự tiến bộ trong quá trình học tập, nhấn mạnh khả năng vận dụng kiến thức vào các tình huống thực tiễn Đánh giá cần tập trung vào quá trình phát triển của người học, so sánh kết quả giữa các lần khảo sát trước và sau, phản ánh bản chất của việc đánh giá năng lực.
Cấu trúc và các thành phần của năng lực hành động bao gồm bốn năng lực chính: năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp, năng lực xã hội và năng lực cá nhân Sự kết hợp của những năng lực này tạo nên một cấu trúc tổng thể, phản ánh khả năng thực hiện các hành động hiệu quả trong nhiều bối cảnh khác nhau.
Năng lực chuyên môn là khả năng thực hiện và đánh giá kết quả công việc một cách độc lập, chính xác và có phương pháp Năng lực này được hình thành thông qua quá trình học tập chuyên môn và gắn liền với khả năng nhận thức cũng như tâm lý vận động của cá nhân.
Năng lực phương pháp là khả năng thực hiện các hành động có kế hoạch và định hướng mục đích để giải quyết nhiệm vụ và vấn đề Nó bao gồm năng lực phương pháp chung và chuyên môn, với trung tâm là khả năng tiếp nhận, xử lý, đánh giá, truyền thụ và trình bày tri thức Năng lực này được phát triển thông qua việc học phương pháp luận và kỹ năng giải quyết vấn đề.
Năng lực xã hội là khả năng đạt được mục tiêu trong các tình huống giao tiếp và tương tác xã hội, đồng thời thực hiện các nhiệm vụ phối hợp hiệu quả với những người khác Năng lực này được hình thành thông qua quá trình học hỏi và rèn luyện kỹ năng giao tiếp.
Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm hướng tới phát triển năng lực học sinh
2.1 Phương pháp tổ chức dạy học nhằm hướng tới phát triển năng lực học sinh Để phát huy năng lực của học sinh cần đổi mới phương pháp dạy học như sau:
Một là: Đổi mới từ cách dạy truyền thống thiên về đọc chép sang cách dạy đọc-hiểu
Trước đây, chúng ta thường coi phân tích hay giảng văn, bình luận là một phương pháp đặc thù của dạy học văn, theo hướng áp đặt, một chiều
Cách dạy đọc hiểu hiệu quả giúp học sinh phát triển kỹ năng đọc và khám phá nội dung cũng như nghệ thuật của văn bản ở nhiều mức độ khác nhau Từ việc đọc đúng và đọc thông, học sinh sẽ tiến tới đọc hiểu, đọc tái hiện và cuối cùng là đọc sáng tạo Quá trình này khuyến khích khả năng liên tưởng và tưởng tượng, giúp các em đắm chìm trong thế giới văn chương Đồng thời, nó cũng nuôi dưỡng tình cảm thẩm mỹ và định hướng giá trị chân - thiện - mỹ trong tâm hồn học sinh.
Học sinh có thể phát triển khả năng đọc hiểu các văn bản dựa trên đặc trưng thể loại, bao gồm các loại văn bản sử dụng phương tiện biểu đạt như sơ đồ và bảng biểu.
Dạy đọc hiểu không chỉ giúp học sinh nâng cao khả năng đọc và hiểu mà còn phát triển kỹ năng viết sáng tạo Học sinh sẽ có khả năng trình bày và thể hiện suy nghĩ, cảm nhận của bản thân về các vấn đề cụ thể Điều này góp phần giảm thiểu tình trạng học sinh tốt nghiệp lớp 12 mà vẫn chưa có khả năng tự tạo lập văn bản theo yêu cầu, như các văn bản hành chính như đơn xin nghỉ học hay đơn xin kết nạp đoàn.
Dạy học tích hợp là phương pháp tổ chức nội dung giảng dạy của giáo viên, cho phép học sinh vận dụng kiến thức và kỹ năng từ nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết các nhiệm vụ học tập Qua đó, học sinh không chỉ hình thành kiến thức và kỹ năng mà còn phát triển các năng lực cần thiết cho tương lai.
Dạy học tích hợp được thực hiện trong ba phân môn chính: Làm văn, tiếng Việt và Văn học Ngoài việc tích hợp ba phân môn này, còn có thể kết hợp môn Ngữ văn với các môn học khác như Lịch sử, Địa lý, GDCD và các hoạt động ngoài giờ lên lớp Hình thức dạy học này cũng chú trọng vào việc liên kết kiến thức từ sách vở với thực tiễn cuộc sống.
Chương trình ngữ văn THCS tập trung vào các kiểu văn bản như miêu tả, tự sự, nghị luận, thuyết minh và nhật dụng, giúp học sinh hiểu đặc trưng văn bản theo kiểu loại và phát triển khả năng tạo lập văn bản Trong khi đó, chương trình ngữ văn THPT chú trọng vào nội dung đọc - hiểu văn bản và tạo lập văn bản, nhằm nâng cao năng lực thưởng thức văn học và khả năng sử dụng tiếng Việt trong các tình huống giao tiếp.
Thảo luận nhóm là một phương pháp dạy học hiệu quả, khuyến khích sự tham gia tích cực của học sinh Trong quá trình này, học sinh có cơ hội trao đổi, bàn bạc và chia sẻ ý kiến về các vấn đề chung, từ đó phát triển thói quen sinh hoạt bình đẳng và tôn trọng quan điểm khác biệt Phương pháp này không chỉ giúp hình thành quan điểm cá nhân mà còn rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề, tạo môi trường học tập dân chủ và tích cực.
Phương pháp đóng vai là một phương pháp giảng dạy hiệu quả giúp học sinh thực hành và trình bày suy nghĩ, cảm nhận của mình qua các "vai giả định" Bằng cách này, học sinh có thể suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề từ góc nhìn của người trong cuộc, tập trung vào các sự kiện cụ thể mà họ quan sát được Trong môn ngữ văn, phương pháp này được áp dụng qua việc vào vai nhân vật để kể lại câu chuyện, chuyển thể văn bản thành kịch bản sân khấu, xử lý tình huống giao tiếp giả định, và trình bày vấn đề từ nhiều góc nhìn khác nhau.
Phương pháp nghiên cứu tình huống là một phương pháp dạy học tập trung vào việc phân tích và giải quyết các vấn đề từ những tình huống thực tiễn Học sinh sẽ tự lực nghiên cứu và giải quyết các vấn đề thông qua hình thức làm việc nhóm Các tình huống này thường xuất phát từ cuộc sống hàng ngày và chứa đựng những vấn đề cần được giải quyết, đòi hỏi học sinh đưa ra quyết định dựa trên các giải pháp đã học Thay vì ghi nhớ lý thuyết, học sinh cần vận dụng kiến thức vào các tình huống cụ thể Trong môn Ngữ văn, phương pháp này thường được áp dụng để phân tích tình huống giao tiếp, tìm hiểu văn bản văn học tiêu biểu và khám phá các vấn đề thực tiễn để tạo lập văn bản.
Phương pháp dạy học theo dự án là một hình thức giáo dục kết hợp lý thuyết và thực tiễn, trong đó người học thực hiện nhiệm vụ học tập phức hợp với tính tự lực cao Học sinh chủ động tham gia dưới sự hướng dẫn của giáo viên để tạo ra sản phẩm hoặc giải quyết vấn đề thực tiễn Phương pháp này giúp học sinh tổng hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực, củng cố kiến thức và phát triển kỹ năng hợp tác, giao tiếp và học tập độc lập Học theo dự án không chỉ chuẩn bị hành trang cho thế hệ trẻ mà còn trang bị cho họ khả năng đối mặt với thử thách trong cuộc sống Quá trình này tạo cơ hội cho người học nghiên cứu sâu về một chủ đề cụ thể, kết nối thông tin và phát triển khả năng sáng tạo.
2.2 Kĩ thuật dạy học tích cực nhằm hướng tới phát triển năng lực học sinh
2.2.1 Kĩ thuật đặt câu hỏi
Trong phương pháp dạy học cùng tham gia, giáo viên cần sử dụng câu hỏi để khơi gợi sự tò mò, giúp học sinh khám phá kiến thức và kỹ năng mới Đồng thời, học sinh cũng nên đặt câu hỏi để làm rõ những nội dung bài học còn mơ hồ, từ đó nâng cao hiệu quả học tập.
Sử dụng câu hỏi có hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa HS - GV và
HS - HS Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức độ tham gia của HS càng nhiều;
HS sẽ học tập tích cực hơn
Mục đích sử dụng câu hỏi trong dạy học là để:
- Kích thích, dẫn dắt HS suy nghĩ, khám phá tri thức mới, tạo điều kiện cho HS tham gia vào quá trình dạy học
- Kiểm tra, đánh giá kiến thức, kĩ năng của HS và sự quan tâm, hứng thú của các em đối với Nội dung học tập
- Thu thập, mở rộng thông tin, kiến thức
Khi đặt câu hỏi cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Câu hỏi phải liên quan đến việc thực hiện mục tiêu bài học
- Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu
- Phù hợp với trình độ HS
- Kích thích suy nghĩ của HS
- Phù hợp với thời gian thực tế
- Sắp xếp thep trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp
- Không ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xích
- Không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc
2.2.2 Kĩ thuật khăn trải bàn
- HS được chia thành các nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người Mỗi nhóm sẽ có một tờ giấy A0 đặt trên bàn, như là một chiếc khăn trải bàn
- Chia giấy A0 thành phần chính giữa và phần xung quanh, tiếp tục chia phần xung quanh thành 4 hoặc 6 phần tuỳ theo số thành viên của nhóm ( 4 hoặc 6 người.)
Mỗi thành viên trong nhóm sẽ ghi lại các ý tưởng cá nhân liên quan đến vấn đề mà giáo viên yêu cầu lên phần cạnh của "khăn trải bàn" trước mặt Sau đó, nhóm sẽ thảo luận để tìm ra những ý tưởng chung và tổng hợp chúng vào phần chính giữa của "khăn trải bàn".
HS được phân chia thành các nhóm, mỗi nhóm có nhiệm vụ thảo luận một câu hỏi cụ thể Ví dụ, nhóm 1 sẽ thảo luận về câu A, nhóm 2 tập trung vào câu B, nhóm 3 sẽ bàn về câu C, và nhóm 4 sẽ thảo luận câu D.
Sau khi hoàn tất thảo luận và ghi lại kết quả trên giấy A0, các nhóm sẽ tiến hành luân chuyển giấy A0 cho nhau Cụ thể, Nhóm 1 sẽ chuyển cho Nhóm 2, Nhóm 2 chuyển cho Nhóm 3, Nhóm 3 chuyển cho Nhóm 4, và cuối cùng Nhóm 4 sẽ chuyển lại cho Nhóm 1.
Những đặc điểm chung trong giảng dạy bài thơ “Nhàn” và định hướng thiết kế bài học
1.1 Mục đích và yêu cầu cần đạt trong giảng dạy bài thơ “Nhàn”
Về năng lực chuyên môn
Giáo viên cần giúp học sinh:
Để hiểu rõ bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, trước hết cần nhận biết thông tin về tác giả, khái quát tác phẩm, nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa của văn bản Tiếp theo, cần thông hiểu quan niệm về nhàn của ông, từ đó nhận diện được các đặc điểm nghệ thuật nổi bật trong bài thơ Cuối cùng, việc vận dụng kiến thức về hoàn cảnh lịch sử và xã hội khi bài thơ ra đời sẽ giúp giải thích sâu sắc hơn về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Kỹ năng cần thiết trong việc phân tích thơ trung đại bao gồm khả năng hiểu biết và thực hành Đầu tiên, người học cần nắm vững cách làm bài đọc hiểu về thơ trung đại, từ đó phát triển sự thông thạo trong việc sử dụng tiếng Việt Điều này sẽ giúp họ trình bày một bài nghị luận sâu sắc và mạch lạc về tác phẩm thơ ca này.
Thái độ trong việc đọc hiểu văn bản thơ trung đại không chỉ giúp hình thành thói quen tích cực mà còn góp phần xây dựng tính cách tự tin khi trình bày kiến thức về thể loại văn học này Đồng thời, việc tiếp cận và nghiên cứu thơ trung đại cũng hình thành nhân cách với thái độ khiêm tốn, ý thức vươn lên và lí tưởng sống cao đẹp.
Về năng lực cá thể
Sau khi nghiên cứu bài thơ, học sinh đã rút ra những bài học quý giá về cách sống và ứng xử với cuộc đời Họ học được cách trân trọng những gì mình đang có, không rơi vào tình trạng bi quan hay chán nản, đồng thời biết giữ gìn nhân cách và phát triển tinh thần.
Về năng lực phương pháp
Học sinh cần xây dựng kế hoạch học tập hiệu quả và thu thập, xử lý thông tin một cách khoa học để giải quyết các vấn đề liên quan đến tác phẩm “Nhàn” Việc hình thành kỹ năng lĩnh hội và tạo lập văn bản sẽ giúp các em nắm bắt kiến thức tốt hơn Đồng thời, lập lược đồ tư duy cũng là một phương pháp hữu ích để ghi nhớ nội dung bài học một cách logic và dễ dàng hơn.
Về năng lực xã hội
Học sinh biết cách làm việc nhóm, tương tác lẫn nhau để giải quyết những khó khăn
1.2 Phương pháp dạy học truyền thống áp dụng với bài “Nhàn”
Thời gian phân phối chương trình và sự tham vọng của giáo viên trong việc truyền đạt kiến thức chuyên môn đã khiến việc dạy học bài thơ trở nên nặng nề Giáo viên chủ yếu sử dụng phương pháp phát vấn và đặt câu hỏi gợi tìm, dẫn đến việc học sinh chỉ trả lời theo sách và ghi chép một cách máy móc Phương pháp này khiến học sinh học thụ động, gây ra tâm lý chán học môn Ngữ văn và cảm giác buồn ngủ Hệ quả là những năng lực cần thiết theo định hướng giáo dục mới không được hình thành.
1.3 Vận dụng phương pháp dạy học tích cực, kĩ thật dạy học tích cực trong giảng dạy bài thơ “Nhàn”
1.3.1 Vận dụng lí thuyết kiến tạo của J Bruner Để phát huy được vai trò chủ thể tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
Trong quá trình học tập tại THPT, việc áp dụng lý thuyết kiến tạo của J Bruner là rất quan trọng Mô hình kiến tạo tạo cơ hội cho học sinh tham gia tích cực vào quá trình học của mình, trong khi giáo viên đóng vai trò như người cố vấn, hỗ trợ học sinh phát triển và đánh giá hiểu biết Một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo viên là biết cách “hỏi những câu hỏi tốt” để kích thích tư duy Tiến trình dạy học kiến tạo bao gồm ba bước chính, giúp tối ưu hóa hiệu quả học tập.
Bước 1: Làm bộc lộ quan niệm của học sinh
Trong giai đoạn này, giáo viên hỗ trợ học sinh ôn tập và hệ thống hóa kiến thức cũ liên quan đến kiến thức mới thông qua các câu hỏi và bài tập Tiếp theo, giáo viên hoặc học sinh sẽ đưa ra vấn đề, tạo điều kiện cho học sinh bày tỏ quan điểm của mình về nội dung học tập.
Bước 2: Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận và trải nghiệm các hoạt động nhằm hình thành kiến thức mới.
Bước 3: Tổ chức cho học sinh vận dụng kiến thức
Giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc giúp học sinh áp dụng kiến thức vào thực tiễn và lý thuyết, từ đó củng cố kiến thức mới Họ tổ chức các hoạt động bổ sung nhằm mở rộng kiến thức và kỹ năng cho học sinh, dựa trên quan điểm rằng quá trình nhận thức là liên tục Do đó, cần có sự định hướng phù hợp để đáp ứng nhu cầu học tập và rèn luyện sau mỗi bài học.
1.3.2 Vận dụng phương pháp dạy học tích cực Để hiện thực hóa quy trình dạy học theo thuyết kiến tạo của Bruner cần vận dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp thảo luận nhóm
- Phương pháp nghiên cứu tình huống
Trong các phương pháp trên có thể vận dụng linh hoạt các kĩ thuật dạy học tích cực như:
- Kĩ thuật đặt câu hỏi
- Kĩ thuật khăn trải bàn
- Kĩ thuật lược đồ tư duy
- Kĩ thuật trình bày một phút
- Kĩ thuật đọc tích cực
- Kĩ thuật viết tích cực.
Thiết kế bài học “Nhàn” theo định hướng phát triển năng lực của học
Hoạt động của Thầy và trò Chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt, năng lực cần phát triển
+Trình chiếu tranh ảnh về Nguyễn Bỉnh Khiêm, cho hs xem tranh ảnh (CNTT)
+Chuẩn bị bảng lắp ghép
+ Nhìn hình đoán tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm
+ Lắp ghép tác phẩm với tác giả
+ Nghe một bài hát liên quan đến tác giả
- HS thực hiện nhiệm vụ:
- HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ:
Trong thời kỳ trung đại, thơ Đường nổi bật với tính quy phạm và ảnh hưởng sâu rộng trong văn học Các nhà nho thời bấy giờ đã chọn thể loại này như một phương tiện tối ưu để bộc lộ tâm hồn, trí tuệ và nhân cách của mình, trong đó Nguyễn Bỉnh Khiêm là một đại diện tiêu biểu.
- Nhận thức được nhiệm vụ cần giải quyết của bài học
- Tập trung cao và hợp tác tốt để giải quyết nhiệm vụ
- Có thái độ tích cực, hứng thú
B HÌNH THÀNH KIẾN THỨC ( 30 phút)
Hoạt động của GV - HS Kiến thức cần đạt Năng lực cần hình thành
Họat động 1: Tìm hiểu chung
GV: Gọi H/S đọc tiểu dẫn
Phần tiểu dẫn SGK trình nội dung gì ?
GV:Gọi H/S đọc bài thơ a Xuất xứ:
Là bài thơ Nôm trong “Bạch Vân quốc ngữ thi” b Thể thơ và bố cục:
Thất ngôn bát cú Đường luật
+ Vẻ đẹp cuộc sống của nhà thơ (câu
+ Vẻ đẹp về nhân cách (câu 3 và 4)
+ Vẻ đẹp trí tuệ (Câu 7 và 8)
Cho HS đọc diễn cảm bài thơ ,chú ý cách ngắt nhịp cà âm điệu thong thả của bài thơ
- Quê: Vĩnh Bảo, Hải Phòng
- Đỗ trạng nguyên năm 1535 và làm quan dưới triều Mạc
- Được phong tước Trình quốc công, Trình Tuyền Hầu nên thường được gọi là trạng Trình
- Khi làm quan, ông dâng sớ vạch tội và xin chém đàu tám tên lộng thần vua không nghe, ông bèn cáo quan về quê dạy học
- Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng nên ông được người đời suy tôn là Tuyết giang phu tử (Người thầy sông Tuyết)
- Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có học vấn uyên thâm, mặc dù về ở ẩn, ông vẫn tham vấn cho triều đình
2) Tác phẩm : Nhan đề do người đời sau đặt nhưng cũng là một sự tri âm với tác giả Chữ nhàn trong bài nhằm chỉ một quan niệm, một cách xử thế
-Năng lực thu thập thông tin
-Năng lực giải quyết những tình huống đặt ra
Năng lực giao tiếng tiếng Việt
Họat động 2: Đọc - hiểu văn bản
Em hiểu gì về quan niệm sống nhàn ?
Theo em ,quan niệm Nhàn của NBK được hiểu là gì ?( Ảnh hưởng tư tưởng
Nho giáo về cách xuất _ xử ,hành – tàng )
Vẻ đẹp của cuộc sống nhàn thể hiện ở các câu thơ nào ? Những chi tjết nào ?
Phân tích ( Có như từ nhàn trong Nhàn
II Đọc - hiểu văn bản
1) Quan niệm về cuộc sống Nhàn củaNguyễn Bỉnh Khiêm
: + Sống hoà hợp với tự nhiên + Phủ nhận danh lợi ,giữ cốt cách thanh cao
Nhàn là triết lý ,là thái độ sống là tâm trạng
Nhàn thể hiện ở sự ung dung trong phong thái, thảnh thơi, vô sự trong lòng, vui với thú điền viên
2)Lối sống "Nhàn" trong bài thơ:
Hình ảnh người trí sĩ ẩn cư
Năng lực làm chủ và phát triển bản thân: Năng lực tư duy
-Năng lực giải quyết cư vi bất thiện không ? nhàn về thể xác không ? )
Nội dung hai câu thơ đầu thể hiện hoàn cảnh , tâm trạng tác giả như thế nào ? các dùng số từ và nhịp điệu có gì đáng chú ý ?
GVH: Hai tiếng "thơ thẩn "cùng với
"dầu ai vui thú nào" gợi ý gì ?
Hs trình bày không phải nhàn xác thân nhưng cũng không phải lao động cực lực như người nông dân
GV chia lớp làm 4 nhóm, thảo luận theo câu hỏi sau:
- Anh(chị) hiểu như thế nào là nơi vắng vẻ, chốn lao xao?
- Biểu tượng “ Nơi vắng vẻ “ và “
Chốn lao xao đối lập với nhàn dật thể hiện quan niệm sống của nhân vật trữ tình, người chọn cuộc sống đơn giản, tự nhiên Họ tự cuốc đất trồng cây, đào củ, câu cá và ưa thích những nơi vắng vẻ, tránh xa ồn ào Sự ung dung trong phong thái và tâm hồn thảnh thơi, không lo âu, mang lại niềm vui từ thú điền viên Phú quý được coi như giấc mộng, không phải là mục tiêu sống của họ.
“Một mai một cuốc một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.”
+ Thủ pháp liệt kê các công cụ lao động quen thuộc: “mai, cuốc, cần câu”
cuộc sống lao động chất phát, nguyên sơ, như một “lão nông tri điền” thực sự
nhu cầu cuộc sống của tác giả chẳng có gì cao sang thật khiêm tốn , bình dị
+ Nhịp thơ 2/2/3 đều đặn và chậm rãi
trạng thái thảnh thơi, ung dung trong cuộc sống và công việc
Hai tiếng thơ thẩn gợi ra trạng thái thảnh thơi của con người Đó là một con người vô sự trong lòng không bận chút cơ mưu , tự dục
Mấy tiếng "dầu ai vui thú nào
"thể hiện không bận tâm tới lối sống bon chen, chạy đua với danh lợi, khẳng định lối sống của mình đã chọn
Thái độ coi thường danh lợi và phú quý, cùng với niềm vui trong cuộc sống giản dị, thanh cao, thể hiện một lối sống "nhàn" "Nhàn" không chỉ là sự nhận thức về bản thân mà còn là việc nhượng lại sự khôn ngoan cho người khác, xa lánh những bon chen của danh lợi Tìm về "nơi vắng vẻ" và hòa nhập với thiên nhiên là cách để "di dưỡng tinh thần", tạo nên sự bình yên trong tâm hồn.
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn , người đến chốn những tình huống đặt ra
-Năng lực hợp tác, trao đổi, thảo luận
- Năng lực giải quyết vấn đề:
Năng lực sáng tạo Năng lực cảm thụ, thưởng thức cái đẹp
- Em có đồng ý với quan niệm sống
Dại và Khôn của tác giả không ?
(Chú ý hoàn cảnh XH mà tác giả đang sống)
- Quan điểm của tác giả vẻ dại khôn như thế nào ?
GV: Trong hai câu thơ, nhà thơ có cách nói gì bất thường? cách nói này là nhà thơ muốn khẳng định điều gì?
+ GV: Theo em, nhà thơ còn sử dụng cách nói ngược nghĩa trong những cụm từ nào?
+ GV: Liên hệ, so sánh:
“Khôn mà hiểm độc là khôn dại,
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn”
(Thơ Nôm số 94 - Nguyễn Bỉnh
Tại sao nói hai câu 5 và 6 thể hiện cách sống gần gũi với thiên nhiên nhưng vẫn thích thú
Nêu cảm nhận về cuộc sống và sinh hoạt của nhà thơ
GV giới thiệu về trí tuệ của nhà thơ và cái tên Trạng Trình Quan niệm Dại và
Khôn có quan hệ gì với nhau ?
GVH: Cuộc sống của bậc đại ẩn am
Bạch Vân được miêu tả như thế nào ở câu 5&6 ?
Như vậy, em nhận ra được nhân cách gì của nhà thơ được thể hiện trong hai câu thơ? lao xao
- Nơi vắng vẻ: nơi thiên nhiên tĩnh lặng ở chốn thôn quê, sống với tâm hồn thảnh thơi
- chốn lao xao: chốn bon chen, ganh đua thủ đoạn, có ngựa xe tấp nập, có kẻ hầu người hạ
“nơi vắng vẻ >< chốn lao xao”
khẳng định lối sống an nhàn, thanh thản, không màng danh lợi
mang tính đùa vui, hóm hỉnh, ẩn chứa triết lí dân gian: dại mà khôn, khôn mà dại
Nhân cách là khả năng thoát ra khỏi vòng ganh đua của thế tục, không bị cuốn hút bởi tiền tài hay địa vị, để tâm hồn được an nhiên và thanh thản "Nhàn" thể hiện lối sống thuận theo lẽ tự nhiên, tận hưởng những gì có sẵn theo mùa ở nơi thôn dã mà không cần phải mưu cầu hay tranh đoạt.
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”
Bộ bức tranh tứ bình khắc họa cảnh sinh hoạt bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, mang đến hương sắc tự nhiên đặc trưng Những món ăn quê mùa như măng trúc và giá được trồng tại vườn nhà nông, thể hiện nét đẹp giản dị và gần gũi trong đời sống hàng ngày.
rất dân dã, đạm bạc mà thanh cao
+ tắm hồ sem, tắm ao: lối sống phổ biến ở nông thôn
lối sinh hoạt giản dị, gần gũi với người dân quê
sự hài lòng với lối sống giản dị và thanh cao
Nhịp thơ của hai câu là 1/3/1/2, trong đó nhấn mạnh vào sự hài hòa với các mùa trong năm Mỗi mùa mang đến những trải nghiệm thú vị như ăn uống và tắm mát, thể hiện cách sống nhàn nhã và hòa hợp với thiên nhiên.
+ Măng , trúc , giá , hồ sen , ao tất cả đều gần gũi với cuộc sống
- Sử dụng kĩ thuật khăn trải bàn:
+chia lớp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm 06 học sinh và 01 tờ giấy A0
+ tờ Giấy A0 được chia làm 6 phần, còn phần giữa ghi ý kiến thống nhất chung
+ Các thành viên ghi ý kiến của mình rồi thống nhất chung
Triết lý của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở hai câu cuối thể hiện sự hòa hợp giữa cuộc sống giản dị và thanh cao, mặc dù còn nhiều thiếu thốn Cuộc sống nhàn nhã, dù khổ cực, vẫn mang lại niềm vui và sự gần gũi với thiên nhiên, từ đó tỏa sáng nhân cách con người Quan niệm về cuộc đời như một giấc mộng và phú quý chỉ là ảo ảnh là nền tảng cho sự nhàn nhã này.
“Rượu, đến cội cây ta sẽ uống, Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”
- “Rượu, đến cội cây ta sẽ uống”: tìm đến cái say chỉ là để tỉnh, để nhìn ngắm thế sự
Hai câu thơ cuối mượn tích xưa, nhưng mang tính bi quan đã làm mờ đi điển tích, đồng thời nhấn mạnh ý nghĩa coi thường phú quý Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tìm ra lối sống riêng cho mình.
- “Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”: mượn điển tích xưa
triết lí ở đời: công danh, của cải chỉ là giấc chiêm bao thoảng qua, nhân cách của con người mới là điều còn mãi
=> Trí tuệ sáng suốt, uyên thâm: thấu hiểu quy luật cuộc đời, khẳng định lối sông nhàn tản, thanh cao
Trạng Trình là một trí giả uyên thâm, nắm vững quy luật biến dịch và hiểu rõ các khái niệm hoạ/phúc, bĩ/thái, cùng/thông, táng/đắc Nhờ đó, ông sở hữu một nhãn quan tỏ tường, giúp ông nhận thức sâu sắc về cuộc sống Với cái nhìn thông tuệ, ông tìm đến sự say chỉ để tìm lại sự tỉnh táo.
Trí tuệ uyên thâm, tâm hồn thanh cao của nhà thơ thể hiện qua lối sống đạm bạc, nhàn tản, vui với thú điền viên thôn dã
- Sử dụng kĩ thuật trình bày 1 phút:
Nêu thành công nghệ thuật và ý nghĩa văn bản của bài thơ?
- Sử dụng phép đối, điển cố
Năng lực làm chủ và phát triển bản thân: Năng lực tư
- Ngôn từ mộc mạc, tự nhiên mà ý vị, giàu chất triết lí
Vẻ đẹp nhân cách của tác giả : thái độ coi thường danh lợi, luôn giữ cốt cách thanh cao trong mọi cảnh ngộ đời sống duy
-Năng lực giải quyết những tình huống đặt ra
Hoạt động của GV – HS Kiến thức cần đạt Năng lực cần hình thành
Câu hỏi 1: Bài thơ "Nhàn" trích từ tập thơ nào? a Bạch Vân am thi tập b Bạch Vân quốc ngữ thi c Quốc âm thi tập d Các phương án(A,B,C)đều sai
Nơi "vắng vẻ" được hiểu là những khu vực thưa thớt dân cư, nơi thiên nhiên khắc nghiệt, không có sự sống, và là nơi mà con người tự làm và tự nuôi sống bản thân mà không phụ thuộc vào sự ưu đãi của thiên nhiên.
Câu hỏi 3: Cách hiểu đúng về quan niệm sống nhàn trong bài thơ trên là không vất vả, cực nhọc; xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh tao; không quan tâm tới xã hội và chỉ sống riêng cho mình.
Câu thơ "Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao" phản ánh một cuộc sống bình thường, tự nhiên và giản dị Nó mô tả những hoạt động hàng ngày của con người gắn liền với mùa vụ và thiên nhiên, cho thấy sự hòa hợp giữa con người và môi trường xung quanh Từ đó, ta có thể thấy rằng cuộc sống không chỉ là sự khổ cực hay vinh hoa phú quý, mà còn là những khoảnh khắc bình dị và gần gũi với thiên nhiên.
- HS thực hiện nhiệm vụ:
- HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ:
Năng lực giải quyết vấn đề:
Hoạt động của GV – HS Kiến thức cần đạt Năng lực cần hình thành
GV giao nhiệm vụ: Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
( ) Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có học vấn uyên thâm Vua Mạc cũng như các chúa Trịnh,
Nguyễn Bỉnh thường tham khảo ý kiến của ông về những việc quan trọng, và ông luôn có những gợi ý khéo léo nhằm giảm thiểu chiến tranh và thương vong Dù đã sống ẩn dật, ông vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn Nguyễn trong các quyết định hệ trọng.
Khiêm vẫn tham vấn cho triều đình nhà Mạc Ông được phong tước Trịnh Tuyền hầu, Trình Quốc công nên có tên gọi là Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những nhà thơ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, nổi bật với tập thơ chữ Hán "Bạch Vân am thi tập" gồm khoảng 700 bài và tập thơ chữ Nôm "Bạch Vân quốc ngữ thi" với hơn 170 bài Tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tài năng thơ ca mà còn phản ánh sâu sắc tâm tư và triết lý sống của người Việt.
Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
Khả năng áp dụng: đề tài được áp dụng trong quá trình giảng dạy bài thơ
Phương pháp "Nhàn" trong sách ngữ văn lớp 10 có thể áp dụng hiệu quả trong giảng dạy các tác phẩm thơ trong chương trình Ngữ văn THPT Để phương pháp này được triển khai rộng rãi, cần có sự hỗ trợ từ các cấp quản lý giáo dục và nỗ lực từ giáo viên Sự kết hợp giữa công nghệ thông tin và kiến thức liên môn là rất quan trọng Giáo viên cần thể hiện sự nhiệt huyết, đầu tư nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng các câu hỏi thảo luận và dự kiến các phương án trả lời để nâng cao hiệu quả giờ dạy.
Học sinh: Chuẩn bị bài, soạn bài, sách giáo khoa và các đồ dùng học tập khác
Thiết bị dạy học: Máy tính, máy chiếu, giấy A0, A3, A4, bút dạ, sách giáo khoa…
Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có) theo các nội dung sau
áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có) theo các nội dung sau:
10.1 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Qua quá trình thực nghiệm thiết kế giáo án, tôi nhận thấy phương pháp dạy học theo nhóm trong bài “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm (Ngữ văn lớp 10) có tính khả thi và có thể áp dụng thực tiễn Phương pháp dạy học và kỹ thuật dạy học tích cực mở ra nhiều triển vọng cho việc đổi mới dạy học văn chương ở trường phổ thông, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực học sinh theo nhiệm vụ giáo dục hiện nay.
Tóm lại, nghiên cứu này hy vọng sẽ góp phần cải cách phương pháp dạy học văn chương trong trường phổ thông, nhằm làm cho các giờ học trở nên thú vị và hấp dẫn hơn, từ đó đạt được kết quả giáo dục như mong đợi.
10.2 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân: Đề tài nghiên cứu có tính khả thi và ứng dụng vào thực tiễn, mang lại hiệu quả cao trong giờ học văn ở trường phổ thông
Giúp học sinh có niềm say mê và hứng thú với môn học
Với sáng kiến này, tác giả mong muốn nhận được ý kiến đóng góp từ các đồng nghiệp để làm cho đề tài trở nên sâu sắc và thiết thực hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có)
Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Bài “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm
2 Học sinh Trường THPT NguyễnThị
Giang (nơi tôi công tác)
Tất cả các giờ học môn
V ĩnh Tường, ngày tháng năm 2019
Vĩnh Tường, ngày 25 tháng 1 năm 2019
(Ký, ghi rõ họ tên)
PHỤ LỤC 1 : ĐỀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC HỌC SINH
(Thời gian làm bài 90 phút)
I Đọc hiểu (3,0 điểm) Đọc bài thơ Nhàn và trả lời câu hỏi:
“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”
Câu 1 Hãy cho biết bài thơ Nhàn được sáng tác theo thể thơ nào? của tác giả nào? (0,5 điểm)
Câu 2 Nhàn là bài thơ Nôm trích trong Bạch Vân quốc ngữ thi và nhan đề bài thơ do tác giả đặt? (0,5 điểm)
Câu 3 Hãy chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ:
Câu tục ngữ “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ – Người khôn người đến chốn lao xao” phản ánh sự khác biệt trong cách sống giữa người khôn và người dại Người khôn thường chọn những nơi yên tĩnh để tìm kiếm sự bình an và tĩnh lặng, trong khi người dại lại tìm đến những chốn ồn ào, náo nhiệt Trong bài thơ, chữ "nhàn" được hiểu là sự thanh thản, tự tại trong tâm hồn, không bị ràng buộc bởi những lo toan, bon chen của cuộc sống Quan niệm về chữ nhàn trong bài thơ thể hiện giá trị của sự bình yên và an lạc, khuyến khích con người tìm kiếm những giây phút tĩnh lặng để nuôi dưỡng tâm hồn.
Vẻ đẹp cuộc sống nhàn và vẻ đẹp nhân cách người ở ẩn trong bài “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm?