1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật ở việt nam hiện nay

168 347 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quản Lý Nhà Nước Đối Với Biểu Diễn Nghệ Thuật Ở Việt Nam Hiện Nay
Tác giả Lương Thị Hòa
Trường học Trường Đại Học Luật Hà Nội
Chuyên ngành Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính
Thể loại Luận Án Tiến Sĩ Luật Học
Năm xuất bản 2022
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 168
Dung lượng 1,24 MB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (9)
  • 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu (11)
  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (12)
    • 3.1 Đối tượng nghiên cứu của luận án (12)
    • 3.2 Phạm vi nghiên cứu của luận án (12)
  • 4. Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu (12)
    • 4.1 Câu hỏi nghiên cứu (12)
    • 4.2 Giả thuyết nghiên cứu (13)
  • 5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu (13)
    • 5.1 Cơ sở phương pháp luận (13)
    • 5.2 Phương pháp nghiên cứu (14)
  • 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án (15)
  • 7. Kết cấu của luận án (15)
  • CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI (16)
    • 1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước (16)
      • 1.1.1. Các công trình nghiên cứu giai đoạn từ năm 1995 - 2012 (16)
      • 1.1.2. Các công trình nghiên cứu từ năm 2012 đến nay (18)
    • 1.2. Các công trình nghiên cứu ngoài nước (23)
    • 1.3. Đánh giá chung các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án (25)
      • 1.3.1. Những vấn đề đã được đề cập tại các công trình nghiên cứu (25)
      • 1.3.2. Một số vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu (25)
    • 2.1. Khái niệm, phân loại biểu diễn nghệ thuật (29)
      • 2.1.1. Khái niệm, đặc điểm biểu diễn nghệ thuật (29)
      • 2.1.2 Phân loại biểu diễn nghệ thuật (35)
    • 2.2. Khái niệm, đặc điểm quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật (40)
      • 2.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật (40)
      • 2.2.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật (41)
    • 2.3 Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật. 35 (43)
    • 2.4 Nguyên tắc quản lý nhà nước về biểu diễn nghệ thuật (48)
    • 2.5. Chủ thể quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật (52)
    • 2.6 Hình thức và phương pháp quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật (54)
      • 2.6.1 Hình thức quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật (54)
      • 2.6.2 Phương pháp quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật (60)
    • 2.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật (63)
      • 2.7.1 Yếu tố chính trị - pháp lý (63)
      • 2.7.1. Yếu tố kinh tế - xã hội (65)
      • 2.7.2. Yếu tố văn hóa - xã hội (66)
      • 2.7.3. Sự phát triển của khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế (68)
    • 2.8. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật của một số quốc gia (70)
      • 2.8.1. Kinh nghiệm quản lý biểu diễn nghệ thuật của Vương quốc Anh (70)
      • 2.8.2. Kinh nghiệm quản lý biểu diễn nghệ thuật của Trung Quốc (74)
    • 3.1. Pháp luật về quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật (81)
      • 3.1.1. Những quy định của pháp luật về biểu diễn nghệ thuật qua các (81)
      • 3.1.2. Những tồn tại, hạn chế của pháp luật về quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật (89)
    • 3.2. Thực tiễn thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về biểu diễn nghệ thuật (99)
      • 3.2.1. Thẩm quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà nước (99)
      • 3.2.2. Chấp thuận hoạt động nghệ thuật biểu diễn (104)
      • 3.2.3 Thực tiễn thực hiện hoạt động phối hợp liên ngành (108)
      • 3.2.4. Hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm (112)
    • 3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật (120)
  • CHƯƠNG IV: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT (131)
    • 4.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển nghệ thuật biểu diễn (131)
    • 4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về biểu diễn nghệ thuật (137)
      • 4.2.1. Hoàn thiện pháp luật về quản lý Nhà nước về biểu diễn nghệ thuật (137)
      • 4.2.2. Nâng cao năng lực bộ máy, đội ngũ cán bộ thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về biểu diễn nghệ thuật (145)
      • 4.2.3. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động văn hóa, hoạt động biểu diễn nghệ thuật (148)

Nội dung

TÓM TẮT NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN ÁN Về mặt lý luận, luận án đã có những đóng góp cơ bản sau: Trên cơ sở cách tiếp cận dựa trên quyền trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền và bảo vệ quyền con người, luận án nghiên cứu về biểu diễn nghệ thuật dưới góc độ là quyền của người biểu diễn, quyền được hưởng thụ văn hóa nghệ thuật của công chúng, quyền của các cá nhân, tổ chức thực hiện biểu diễn. Cách tiếp cận dựa trên quyền là cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với BDNT theo triết lý cần có những quy định cụ thể hóa và bảo đảm thực hiện quyền của người biểu diễn nghệ thuật, các quyền có liên quan đến biểu diễn… Luận án đã tập trung phân tích rõ những vấn đề lý luận có liên quan đến QLNN về BDNT bao gồm: khái niệm BDNT, các hình thức thực hiện BDNT chuyên nghiệp và không chuyên, BDNT vì mục đích công hay vì mục đích kinh doan trong bối cảnh phát triển công nghệ và toàn cầu hóa để từ đó xác định sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với mỗi loại hình nghệ thuật biểu diễn; khái niệm QLNN về BDNT đáp ứng yêu cầu, mục tiêu của Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Từ đó xác định những giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về BDNT vừa đảm bảo phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc vừa khai thác hoạt động BNDT là một ngành “công nghiệp văn hóa” góp phần vào gia tăng GDP của quốc gia. Về mặt thực tiễn, luận án đã có những đóng góp cơ bản sau: Luận án là tập trung phân tích sâu những thay đổi giữa NĐ 792012 với NĐ 1442020 bởi đây là 02 văn bản pháp lý quan trọng quy định về BDNT. Thông qua đó, luận án tập trung phân tích những vấn đề còn tồn tại, thách thức trong các quy định của pháp luật hiện hành về những quy định cấm trong hoạt động BDNT, phân tích sự thay đổi về việc cấp phép nghệ thuật và chấp thuận hoạt động BDNT. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới như Anh, Trung Quốc, Hàn Quốc, Luận án đã đề xuất giải pháp hoàn thiện khung pháp luật quy định về BDNT đó là đề xuất nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật Biểu diễn nghệ thuật. Sự cần thiết phải nâng cấp từ Nghị định lên thành Luật để tạo hành lang pháp lý, đảm bảo hoạt động BDTN trong thời kỳ cách mạng công nghệ 4.0 và toàn cầu hóa đáp ứng được các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra phù hợp với đặc thù của BDNT là sự đa dạng, sáng tạo, nhưng cũng cần bảo đảm giữ gìn những giá trị truyền thống của của các loai hình NT không có khả năng thu hút khán giả trong nền kinh tế thị trường.

Tính cấp thiết của đề tài

Biểu diễn nghệ thuật (BDNT) không chỉ mang giá trị văn hóa và tinh thần cho mỗi quốc gia mà còn đóng góp vào nền kinh tế Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống là vô cùng quan trọng, giúp quảng bá và thu hút du lịch BDNT được coi là một phần thiết yếu của ngành công nghiệp văn hóa, không chỉ là hoạt động giải trí mà còn là sản phẩm văn hóa đặc trưng của mỗi dân tộc.

Việc "át chủ bài" của nhiều quốc gia trong việc tạo ra giá trị kinh tế lớn không chỉ góp phần vào tăng trưởng chung mà còn giúp quảng bá và nâng cao ảnh hưởng văn hóa của quốc gia trên toàn cầu.

Nghị quyết số 33-NQ/TW và Kết luận số 76-KL/TW nhấn mạnh vai trò quan trọng của các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa trong việc tư vấn cho các cấp ủy đảng và chính quyền, nhằm đưa văn hóa ngang hàng với kinh tế và chính trị Văn hóa không chỉ là trụ cột mà còn là nền tảng cho sự phát triển xã hội, đồng thời là mục tiêu và động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước Cần có “Nhận thức đúng để hành động đẹp” để thực hiện mục tiêu này.

Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, đặc biệt là thời đại công nghiệp 4.0, các loại hình bảo tồn di sản văn hóa (BDNT) ngày càng đa dạng về hình thức và chủng loại Các hình thức BDNT truyền thống như cải lương, tuồng, chèo, ca trù cần được bảo tồn và phát triển Đồng thời, những hình thức BDNT hiện đại cũng đang được du nhập vào Việt Nam, đáp ứng nhu cầu hội nhập và phát triển Việc ứng dụng công nghệ kỹ thuật số trong BDNT ngày càng được tăng cường, tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra thách thức cho nhà nước trong công tác quản lý.

Quản lý nhà nước về văn hóa là một nội dung quan trọng được Đảng và Nhà nước Việt Nam chú trọng Đại hội XIII của Đảng đã xác định phương hướng và mục tiêu cho cách mạng Việt Nam giai đoạn 2021-2025, đồng thời đề ra tầm nhìn đến năm 2045 Đặc biệt, Đại hội yêu cầu nghiên cứu và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, cùng với chuẩn mực con người Việt Nam.

Phát triển công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn là một nhiệm vụ quan trọng, nhằm giữ gìn và phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong bối cảnh mới Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của văn hóa và con người Việt Nam, coi đây là nền tảng và sức mạnh nội sinh thiết yếu cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Việt Nam, với nền văn hóa và lịch sử lâu đời, sở hữu nguồn lực văn hóa được xem là "sức mạnh mềm" quan trọng cho sự phát triển bền vững và nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh việc cần thiết phải phát triển ngành công nghiệp và dịch vụ văn hóa, tập trung vào việc phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, đồng thời áp dụng hiệu quả các giá trị và thành tựu mới trong văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ toàn cầu.

Vào ngày 12/11/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1909/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, tập trung vào ba trụ cột chính: tăng cường đầu tư, đổi mới sáng tạo và đột phá thể chế Chiến lược này nhằm phát huy vai trò của văn hóa gắn liền với kinh tế, chính trị và xã hội, hướng tới phát triển bền vững Nhà nước khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội Văn hóa cần được phát triển song song với các lĩnh vực khác, bảo đảm yếu tố con người trong phát triển kinh tế và thích ứng với xu thế của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư Một trong những mục tiêu quan trọng của chiến lược là xây dựng và phát triển văn hóa, con người.

Việt Nam đang phát triển toàn diện, đáp ứng xu thế hiện đại và yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 Đất nước cũng phải đối mặt với những tác động lớn từ thiên tai, dịch bệnh và khủng hoảng đến kinh tế, xã hội và con người.

BDNT là một yếu tố quan trọng trong văn hóa, được công nhận là một trong 12 lĩnh vực trong Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa của Chính phủ Chiến lược Quốc gia đã đặt ra mục tiêu cụ thể cho sự phát triển này đến năm tới.

2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia

Bài viết "Quan Điểm, Chủ Trương Mới về Phát Triển Văn Hóa Con Người Việt Nam Trong Văn Kiện Đại Hội XIII Của Đảng" nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển văn hóa con người trong bối cảnh hiện đại Đảng khẳng định rằng văn hóa là nền tảng để xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời khuyến khích các giá trị văn hóa truyền thống kết hợp với hiện đại hóa Các chủ trương mới tập trung vào việc nâng cao chất lượng giáo dục, bảo tồn di sản văn hóa và khuyến khích sáng tạo nghệ thuật Qua đó, bài viết kêu gọi sự tham gia của toàn xã hội trong việc xây dựng một nền văn hóa phong phú, đa dạng, góp phần vào sự phát triển bền vững của dân tộc.

4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t 1, tr.34, 216, 25, 116, 47, 143, 214, 145, 145-146, 95, 108, 108, 143.

5 Quyết định số 1909/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030.

Đến năm 2030, mục tiêu là giá trị gia tăng từ các ngành công nghiệp văn hóa, đặc biệt là điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, du lịch văn hóa, mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm và quảng cáo, sẽ đóng góp 7% GDP Nghệ thuật biểu diễn (NTBD) là một phần quan trọng trong ngành công nghiệp văn hóa, vì vậy việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước (QLNN) đối với NTBD là nhiệm vụ trọng tâm để phát triển văn hóa gắn liền với các trụ cột kinh tế, chính trị và xã hội theo hướng bền vững Nghiên cứu về "Quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay" là cần thiết, nhằm đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn QLNN về NTBD trong thời đại công nghệ 4.0, cũng như nhận diện các thách thức và hạn chế Luận án sẽ đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả QLNN đối với NTBD, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.

Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu

Câu hỏi nghiên cứu

Luận án được thực hiện với các câu hỏi nghiên cứu như sau:

- BDNT có ý nghĩa như thế nào đối với sự phát triển của văn hóa và kinh tế?

- Vì sao cần phải QLNN đối với BDNT?

Hiện nay, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNT) đang gặp nhiều thách thức trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển của công nghệ 4.0 Những tồn tại trong công tác quản lý bao gồm sự thiếu hụt chính sách hỗ trợ hiệu quả, khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn, và sự chậm trễ trong việc áp dụng công nghệ mới Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết cho việc cải cách và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của DNNT trong thời đại số.

Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với bảo tồn di sản văn hóa, cần áp dụng các giải pháp đồng bộ nhằm đảm bảo đạt được mục tiêu Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 Việc tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về giá trị di sản văn hóa, kết hợp với việc hoàn thiện khung pháp lý và chính sách hỗ trợ sẽ góp phần bảo vệ và phát huy giá trị di sản Đồng thời, cần chú trọng đến việc phát triển các chương trình hợp tác quốc tế và huy động nguồn lực từ cộng đồng để duy trì và phát triển bền vững các giá trị văn hóa.

Giả thuyết nghiên cứu

BDNT đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, kết hợp giữa giá trị tinh thần và giá trị kinh tế trong công nghiệp văn hóa Nghiên cứu này nhằm xây dựng cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với BDNT, đồng thời phát huy giá trị văn hóa truyền thống và đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững Để giải quyết vấn đề nghiên cứu, NCS đã đưa ra các giả thuyết cho Luận án.

QLNN về BDNT mang những đặc điểm chung của QLNN về văn hóa nhưng có những đặc thù riêng cần được nghiên cứu, tìm hiểu và phân tích rõ.

Thực trạng QLNN về BDNT ở Việt Nam hiện nay đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại và hạn chế.

Nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế trong quản lý nhà nước đối với bảo đảm nhu cầu tiêu dùng xuất phát từ thực trạng quy định pháp luật, năng lực quản lý yếu kém, cùng với tác động của hội nhập và toàn cầu hóa, cũng như sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng công nghệ 4.0.

Nhà nước cần xác định các định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bảo đảm nhu cầu thị trường, phù hợp với xu hướng phát triển toàn cầu Điều này sẽ giúp bảo đảm rằng bảo đảm nhu cầu thị trường hoạt động hiệu quả theo cơ chế thị trường.

Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở phương pháp luận

Luận án tập trung vào các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với quan điểm của Đảng và Nhà nước về văn hóa, đặc biệt là xây dựng và phát triển văn hóa Nó cũng nêu rõ các mục tiêu và phương hướng phát triển văn hóa, đồng thời phân tích mối quan hệ biện chứng giữa phát triển văn hóa và phát triển kinh tế trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam.

Luận án áp dụng phương pháp tiếp cận hiện đại dựa trên quyền, phản ánh sự cần thiết trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền và bảo vệ quyền con người Bảo vệ quyền lợi của người biểu diễn và quyền hưởng thụ của công chúng là yếu tố cốt lõi, do đó, thay vì chỉ tập trung vào việc cấm đoán và hạn chế quyền, cần có một cách tiếp cận dựa trên quyền nhằm hoàn thiện pháp luật Điều này sẽ đảm bảo quyền lợi cho người biểu diễn, các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật, cũng như các cá nhân và tổ chức kinh doanh liên quan đến hoạt động giải trí nghệ thuật.

Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện nghiên cứu, luận án áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Nghiên cứu tập trung vào các vấn đề lý luận liên quan đến bảo đảm an ninh trật tự (BDNT), quản lý nhà nước (QLNN) đối với BDNT, và sự cần thiết của QLNN cùng với các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN về BDNT.

Quá trình nghiên cứu Luận án được xây dựng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý nhà nước, cùng với các quan điểm và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển văn hóa ở giai đoạn hiện nay.

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận án bao gồm:

Phương pháp phân tích được áp dụng nhằm làm rõ các vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật liên quan đến biểu diễn nghệ thuật (BDNT) Bài viết tập trung vào việc phân tích các quy định pháp luật hiện hành theo cách tiếp cận quyền con người, từ đó xác định rõ phạm vi quản lý nhà nước trong lĩnh vực BDNT, bao gồm quyền của người biểu diễn, quyền liên quan trong biểu diễn, và quyền của các cá nhân, tổ chức thực hiện biểu diễn Qua đó, bài viết đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền và bảo đảm quyền con người.

Phương pháp tổng hợp được áp dụng để hệ thống hóa các quan điểm về chính sách và pháp luật liên quan đến quản lý nhà nước (QLNN) đối với bảo đảm an ninh trật tự (BDNT) Các văn bản pháp luật, nghiên cứu và báo cáo liên quan được phân tích để cung cấp thông tin cơ bản, giúp đối chiếu sự thay đổi của pháp luật qua các giai đoạn khác nhau Điều này cũng nhấn mạnh sự cần thiết của QLNN đối với BDNT trong bối cảnh toàn cầu hóa và công nghệ 4.0.

Phương pháp thống kê và nghiên cứu vụ việc điển hình được áp dụng để làm rõ thực trạng bảo vệ di sản nghệ thuật và hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực này hiện nay Nghiên cứu tập trung vào các loại hình nghệ thuật biểu diễn, các tổ chức và cá nhân tham gia biểu diễn, cũng như các vụ việc vi phạm đã được xử lý Bên cạnh đó, kinh nghiệm từ một số quốc gia như Anh, Trung Quốc và Hàn Quốc cũng được lựa chọn để phân tích và rút ra bài học.

Phương pháp hệ thống được áp dụng để làm rõ các vấn đề lý luận và thực trạng quy định pháp luật về quản lý nhà nước (QLNN) đối với bảo đảm an toàn nghề nghiệp (BDNT) Trong bối cảnh Việt Nam, QLNN cần được xem xét dưới góc độ tổng thể của các yếu tố chính trị, văn hóa và xã hội Các văn bản, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước đã được phân tích một cách hệ thống theo thứ tự thời gian, từ đó giúp đánh giá những thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của BDNT.

Phương pháp so sánh luật học là công cụ hữu ích để nghiên cứu và phân tích kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với bảo vệ động vật nuôi tại một số quốc gia như Anh, Trung Quốc và Hàn Quốc Việc so sánh này giúp rút ra những bài học quý giá và áp dụng những biện pháp hiệu quả trong quản lý động vật nuôi.

Bài viết này tập trung nghiên cứu ba quốc gia: Anh, Trung Quốc và Hàn Quốc, với mục tiêu phân tích các quy định pháp luật liên quan đến quản lý nhà nước đối với bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Anh, với hệ thống pháp luật common law, đã có cách tiếp cận dựa trên quyền con người từ sớm Trung Quốc được chọn vì những điểm tương đồng về chính trị, văn hóa và xã hội Hàn Quốc, với hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng phát triển, có ảnh hưởng lớn đến giới trẻ Việt Nam trong việc tiếp cận và thưởng thức các hoạt động này.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Ở góc độ lý luận, luận án làm rõ khái niệm BDNT và nghệ thuật biểu diễn, nội dung của QLNN đối với BDNT

Luận án này đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước đối với bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trong nghệ thuật truyền thống Bên cạnh đó, nó cũng khai thác thế mạnh của nghệ thuật biểu diễn dân tộc như một phần của "công nghiệp văn hóa" Từ đó, các giải pháp được đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa, góp phần thực hiện mục tiêu Chiến lược phát triển văn hóa mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra.

Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận án được chia thành 4 chương với các nội dung cụ thể.

Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài.

Chương 2: Một số vấn đề lý luận và pháp lý về quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật.

Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật.

Chương 4: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật trong giai đoạn hiện nay.

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Các công trình nghiên cứu trong nước

1.1.1 Các công trình nghiên cứu giai đoạn từ năm 1995 - 2012

Giai đoạn từ 1995 đến 2012, Việt Nam đã tích cực thúc đẩy hoạt động giao lưu thương mại và bình thường hóa quan hệ với các quốc gia, đặc biệt là Mỹ Đồng thời, đất nước cũng chú trọng tăng cường hợp tác quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài.

Tại Việt Nam, nhiều tài liệu thống kê và tổng hợp về lịch sử ra đời cùng nội dung cơ bản của các học thuyết quản lý đã được xuất bản Năm 2001, tác giả Lương Hồng Quang đã có loạt bài viết trên tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, trong đó tổng thuật từ cuốn sách về quản lý văn hóa nghệ thuật.

Bài viết "Management and the Arts" của W.J Byrnes giới thiệu nhiều nguyên lý quan trọng trong quản lý văn hóa, bao gồm khái niệm quản lý, vai trò của nhà quản lý, các cấp độ quản lý và quy trình quản lý Tác giả cũng đề cập đến mối liên hệ giữa kinh tế học và nghệ thuật, marketing, cũng như gây quỹ, những vấn đề lý luận cần thiết cho quản lý văn hóa nghệ thuật tại Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay Để cung cấp thêm kiến thức về quản lý văn hóa nghệ thuật, tài liệu "Nhập môn Quản lý Văn hóa nghệ thuật" do Lương Hồng Quang và Đỗ Thị Thanh Thủy dịch năm 2004, bao gồm 7 chương, đã đề cập đến lịch sử quản lý, các trường phái khác nhau, vai trò lãnh đạo, nhân lực và quản lý tài chính trong lĩnh vực này.

Công trình "Về lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật trong công cuộc đổi mới" của tác giả Nguyễn Duy Bắc tổng hợp các nghị quyết, chỉ thị, báo cáo chính trị và bài viết của nhiều nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước, trong đó có Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười Tác phẩm này cung cấp cái nhìn sâu sắc về vai trò lãnh đạo trong việc phát triển văn học nghệ thuật trong bối cảnh đổi mới.

Các tác giả như Lê Khả Phiêu, Hồ Sĩ Vịnh, Nguyễn Duy Bắc, Phạm Duy Đức, Phan Cự Đệ, Trần Văn Bính, Từ Sơn và Trần Đình Sử đã đóng góp nhiều bài viết quan trọng về xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật Những tác phẩm này mang đến nhiều góc độ và quan điểm khác nhau về vai trò lãnh đạo và quản lý văn học nghệ thuật trong bối cảnh đổi mới.

Trong bài viết “Đổi mới quản lý phát triển - kết quả và giải pháp nâng cao”, tác giả Đào Thị Hoàn và Nguyễn Phương Chi nhấn mạnh rằng phát triển văn hóa đóng vai trò quan trọng như một nền tảng tinh thần, được xác định là một trong ba trụ cột của sự nghiệp đổi mới phát triển.

7 Byrnes, W.J (2009), Management anh the Arts (Quản lý và nghệ thuật), 4 th edition), Focal Press, London.

Sau gần ba mươi năm đổi mới, văn hóa Việt Nam đã có những biến đổi sâu sắc, với đời sống văn hóa trở nên đa dạng và phong phú hơn Các loại hình văn hóa - nghệ thuật truyền thống được bảo tồn và phát huy, trong khi những giá trị văn hóa thế giới cũng được tiếp thu rộng rãi Sự đổi mới trong quản lý văn hóa đóng vai trò quyết định trong những thành tựu này Các tác giả nhấn mạnh ba vấn đề quan trọng: đổi mới tư duy, vai trò tích cực của quản lý văn hóa trong xây dựng văn hóa tiến bộ và đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa, cùng với việc thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động văn hóa nhằm phát triển văn hóa Việt Nam trong tương lai.

Tại kỷ yếu Hội thảo khoa học năm 2006, Cục nghệ thuật biểu diễn đã tổ chức các buổi thảo luận tại Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh, tập trung vào “Thực trạng và giải pháp phát triển Nghệ thuật biểu diễn” cũng như “Hoạt động xã hội hóa sân khấu trong giai đoạn hiện nay” Các tham luận trong Hội thảo khoa học năm 2012 tiếp tục làm nổi bật những vấn đề và giải pháp liên quan đến nghệ thuật biểu diễn tại Việt Nam.

Cục Nghệ thuật Biểu diễn đã tổ chức hội thảo tại Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh với chủ đề “Thực trạng và giải pháp phát triển Nghệ thuật biểu diễn” cùng với hội thảo khoa học “Hoạt động xã hội hóa sân khấu trong giai đoạn hiện nay”.

Cuốn sách “Văn học, nghệ thuật trong cơ chế thị trường và hội nhập” của Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương, xuất bản năm 2009, đề cập đến những vấn đề quan trọng trong đời sống văn học, nghệ thuật Việt Nam hiện nay, nhấn mạnh những thành tựu đạt được cũng như những thách thức cần giải quyết Tác phẩm bao gồm nhiều bài viết của các nhà lý luận và hoạt động nghệ thuật, trong đó nổi bật là bài viết của nghệ sĩ nhân dân Chu Thúy Quỳnh về nghệ thuật biểu diễn trong bối cảnh thị trường và hội nhập Tác giả nhấn mạnh sự cần thiết phải xã hội hóa các bộ môn nghệ thuật để phát triển bền vững trong nền kinh tế thị trường và cho rằng hội nhập là chiến lược đúng đắn để khẳng định giá trị nghệ thuật Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa Bên cạnh đó, bài viết của NSƯT Lê Chức cũng đề cập đến bức tranh đa dạng nhưng chưa sắc nét của sân khấu Việt Nam đương đại.

Bài viết của Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân, Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam, đã nêu bật tình hình âm nhạc hiện nay và những vấn đề bức xúc đang tồn tại, từ đó góp phần khắc họa thực trạng nghệ thuật biểu diễn (NTBD) ở Việt Nam.

1.1.2 Các công trình nghiên cứu từ năm 2012 đến nay

Công trình "Mấy vấn đề lí luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta" của Hoàng Vinh đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển hệ thống lý luận về quản lý văn hóa Ngoài ra, giáo trình "Lịch sử Quản lý văn hóa ở Việt Nam" của Hoàng Sơn Cường cùng với tập bài giảng bồi dưỡng kiến thức quản lý ngành văn hóa thông tin từ Trường Cán bộ quản lý văn hóa, thể thao và du lịch cũng góp phần nâng cao hiểu biết về quản lý văn hóa trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nguyễn Tri Nguyên được biên soạn nhằm phục vụ giảng dạy và học tập cho giảng viên, sinh viên tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Trường Cán bộ Quản lý Văn hóa Các giáo trình này đề cập đến các vấn đề quản lý trong lĩnh vực văn hóa và giao lưu quốc tế, nhưng chủ yếu mang tính chất đại cương, cơ bản, cung cấp kiến thức nền tảng về quản lý văn hóa.

Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, quản lý văn hóa (QLVH) đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu Các bài viết trong cuốn Văn hóa đã thể hiện rõ những vấn đề quan trọng liên quan đến QLVH và vai trò của nó trong sự phát triển xã hội.

Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của nhiều tác giả, Nguyễn Chí

Cuốn sách "Bền chủ biên" cung cấp cái nhìn tổng quát về nền văn hóa Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử, phản ánh mọi khía cạnh của đời sống văn hóa xã hội Đồng thời, tác phẩm cũng phân tích hiện trạng và những ảnh hưởng của quá trình hội nhập quốc tế đối với các yếu tố của văn hóa dân tộc.

Các công trình nghiên cứu ngoài nước

Quản lý nghệ thuật, theo Theo Byrnes trong cuốn "Management và The Arts", là quá trình tổ chức và sử dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu của tổ chức Quá trình này bao gồm các bước lập kế hoạch, điều hành, lãnh đạo và giám sát.

Trong cuốn sách "Những vấn đề cốt yếu của quản lý" (1992) của Harold Koontz, Cyril Odonnell và Heinz Weihrich, các tác giả đã nhấn mạnh rằng hơn 90% thất bại trong kinh doanh xuất phát từ việc thiếu năng lực và kinh nghiệm quản lý.

In their 1993 work, "The Economics of Art and Culture - An American Perspective," James Heilbrun and Charles M Gray explore the financial and economic aspects of visual arts and performing arts in the United States They examine public policy and its significant role in shaping various forms of cultural expression and artistic endeavors.

9 Byrnes, W.J (2009), Management anh the Arts (Quản lý và nghệ thuật), 4th edition), Focal Press, London.

10 Harold Koontz, Cyril Odonnell, Heinz Weihrich (1992), Những vấn đề cốt yếu của quản lý, Vũ Thiều,

Nguyễn Mạnh Quân và Nguyễn Đăng Dậu đã biên soạn một công trình nghiên cứu về nghệ thuật biểu diễn, tập trung vào các khái niệm và lý thuyết liên quan đến hoạt động biểu diễn nghệ thuật Bài viết cũng đề cập đến các vấn đề sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nghệ thuật, cũng như các khía cạnh tài chính và thị trường nghệ thuật trong xã hội hiện đại Cuối cùng, tác phẩm đưa ra dự báo về sự phát triển của nghệ thuật biểu diễn tại Hoa Kỳ trong tương lai.

Throsby David and Glenn A Withers: The Economic of the Performing Arts

Cuốn sách "Kinh tế học về Nghệ thuật biểu diễn" (1993) của Edward Arnold (Australia) không chỉ nghiên cứu lý thuyết mà còn phân tích các kinh nghiệm về chính sách công trong nghệ thuật biểu diễn Tác giả phát triển các lý thuyết cơ bản liên quan đến hành vi của các tổ chức nghệ thuật, người tiêu dùng và khách hàng trung thành, đồng thời kiểm chứng tính đúng đắn của những lý thuyết này với thực tiễn.

Cùng với Throsby David, giáo sư Victor A Ginsburgh, một nhà kinh tế học người Bỉ gốc Áo, đã cho ra đời tác phẩm "Sổ tay Kinh tế học Văn hóa và Nghệ thuật" Tác phẩm này gồm 5 phần, khám phá các chủ đề chuyên sâu như giá trị và cách xác định giá trị trong nghệ thuật và văn hóa, cung cầu, tiêu dùng và đầu tư, đổi mới công nghệ, thương mại, phát triển đa dạng văn hóa, cùng với các vấn đề văn hóa rộng hơn.

Harry Hillman, Joni M Cherbo và Margarer J Wyszomirski (2000) The

Công trình "Đời sống công cộng của nghệ thuật ở Mỹ" gồm hai phần: "Khám phá một bối cảnh đang thay đổi" và "Công chúng và nghệ thuật", đã đóng góp quan trọng vào tài liệu nghệ thuật tại Mỹ Nghiên cứu cho thấy 96% người dân Mỹ tham gia vào hoạt động nghệ thuật, từ khán giả đến những người thưởng thức qua các phương tiện truyền thông Ngoài ra, nền nghệ thuật biểu diễn đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế Mỹ, trong khi ngành công nghiệp văn hóa đang nỗ lực phục vụ lợi ích công tốt hơn Các tác giả nhấn mạnh rằng chính sách công của chính phủ có ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật và văn hóa, vì vậy cần tiếp tục hỗ trợ nghệ thuật biểu diễn để nâng cao chất lượng cuộc sống cộng đồng và duy trì sự sáng tạo của nghệ sĩ và tổ chức nghệ thuật tại Mỹ.

11 James Heilbrun and Charles M.Gray (1993), The Economics of Art and Culture - An American Perspective

- Kinh tế học về Nghệ thuật và Văn hóa – Một triển vọng ở Mỹ, Cambridge University Press.

Công trình cung cấp một cách toàn diện các vấn đề cốt lõi trong quản lý nghệ thuật biểu diễn là Theatre Management: Producing and Managing the Performing

Arts - Quản lý Nhà hát: Sản xuất và quản lý nghệ thuật biểu diễn của David M.

Theo Conte và Stephen Langley (2007), quản lý nghệ thuật biểu diễn (NTBD) tập trung vào việc sản xuất và giới thiệu các sản phẩm nghệ thuật phù hợp với nhu cầu khách hàng và khả năng của đơn vị nghệ thuật Các nhiệm vụ quan trọng bao gồm tổ chức, cơ cấu pháp lý, địa điểm thực hiện dự án, phòng vé và công tác bán vé, cùng với các vấn đề gây quỹ, tiếp thị và quảng cáo Tài liệu này cung cấp thông tin cập nhật từ các nhà quản lý nhà hát ở Mỹ, giúp giải quyết những thách thức mà các nhà quản lý nghệ thuật phải đối mặt trong thế kỷ XXI, trở thành tài liệu tham khảo thiết yếu cho sự phát triển của thị trường nghệ thuật biểu diễn.

Đánh giá chung các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

1.3.1 Những vấn đề đã được đề cập tại các công trình nghiên cứu

Các nghiên cứu đã xác định rõ ràng tính tất yếu và đặc thù của nghệ thuật, nghệ thuật biểu diễn (NTBD) và biểu diễn nghệ thuật (BDNT) Những nghiên cứu này cũng đã cung cấp các khái niệm, đặc điểm và vai trò quan trọng của nghệ thuật và nghệ thuật biểu diễn trong đời sống văn hóa.

- Lý luận về nhu cầu thẩm mỹ, thụ hưởng nghệ thuật, các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động BDNT;

- Bước đầu nghiên cứu vai trò, ý nghĩa của thị trường văn hóa, vai trò của BDNT.

Quản lý nhà nước (QLNN) về văn hóa và bảo tồn di sản văn hóa (BDNT) đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam hiện đại, giàu bản sắc dân tộc Các khái niệm, đặc trưng và nội dung của QLNN trong lĩnh vực này không chỉ góp phần bảo tồn giá trị văn hóa mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng kinh tế thị trường có cả tác động tích cực và tiêu cực Việc phân tích các vấn đề lý luận liên quan đến thị trường văn hóa và công nghiệp văn hóa trên thế giới cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực này tại Việt Nam.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra thực trạng hoạt động văn hóa nghệ thuật tại Việt Nam, đồng thời đề xuất định hướng phát triển và các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động văn hóa nghệ thuật Trong số đó, một trong những giải pháp quan trọng là hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về văn hóa nghệ thuật nói chung và bảo tồn di sản văn hóa nói riêng.

1.3.2 Một số vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu

Dưới tác động của hội nhập quốc tế, BDNT thế giới đang trải qua những biến động quan trọng nhờ sự xuất hiện của yếu tố “thị trường” và “XHH” Đồng thời, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông, đã đưa nhân loại vào thời kỳ kinh tế tri thức và chuyển đổi số Điều này tạo ra một làn sóng toàn cầu hóa mạnh mẽ, buộc BDNT phải được định hướng lại về cấu trúc và chức năng, đồng thời mở rộng quy mô để đối mặt với thách thức của toàn cầu hóa Quá trình tái định hướng này được gọi là

Hội nhập quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực bảo vệ động vật nuôi và thủy sản (BDNT), là một yêu cầu quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hóa Điều này đòi hỏi Chính phủ phải rà soát và cải tiến cơ chế quản lý nhà nước, bổ sung hệ thống lý luận cũng như đánh giá tác động thực tiễn Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về BDNT là cần thiết để thích ứng với các điều kiện và yêu cầu mới trong hoạt động BDNT cả trong nước lẫn quốc tế.

Quản lý nhà nước về bảo đảm an toàn thực phẩm (QLNN về BDNT) trước đây chủ yếu tập trung vào quy định mối quan hệ giữa Nhà nước và các đơn vị BDNT công lập, trong đó Nhà nước vừa là nhà cung cấp vừa là người chỉ huy và kiểm soát Hiện nay, QLNN về BDNT đã chuyển hướng cơ bản sang vai trò giám sát hoạt động BDNT.

Xây dựng và phát triển "thị trường văn hóa" và "công nghiệp văn hóa" là vấn đề quan trọng được Đảng và Nhà nước đề cập trong các văn kiện Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan Quản lý nhà nước về bảo tồn và phát triển văn hóa cần được tiếp cận theo xu hướng chung của thế giới.

Dựa trên việc kế thừa và lựa chọn những kết quả nghiên cứu đã công bố, cùng với bối cảnh trong nước và quốc tế, nghiên cứu sinh sẽ tiếp tục giải quyết các vấn đề quan trọng theo quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.

Luận án này làm rõ khái niệm và đặc điểm của Bảo tồn Di sản Nghệ thuật (BDNT), đồng thời phân tích cấu trúc và vai trò của BDNT trong quản lý nhà nước Bên cạnh đó, luận án cũng đề cập đến các vấn đề lý luận liên quan như nhu cầu thẩm mỹ, hoạt động nghệ thuật và thưởng thức nghệ thuật.

Về mặt thực tiễn, luận án tập trung vào các vấn đề sau:

Phân tích các yếu tố khách quan và chủ quan tác động đến công tác QLNN về BDNT ở Việt Nam hiện nay.

Khảo sát và đánh giá hiện trạng công tác quản lý nhà nước về bảo vệ động vật hoang dã (BDNT) tại Việt Nam, đồng thời phân tích số liệu từ báo cáo tổng kết quản lý Bài viết chỉ ra những kết quả đã đạt được cũng như những vấn đề tồn tại và hạn chế trong công tác này, từ đó tìm ra nguyên nhân của những khó khăn hiện tại.

Dự báo xu hướng phát triển của thị trường văn hóa và công nghiệp văn hóa tại Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực bảo tồn và phát triển nghệ thuật truyền thống (BDNT), sẽ có những thay đổi tích cực trong thời gian tới Để thúc đẩy BDNT, cần áp dụng các giải pháp chuyển đổi số nhằm thích ứng với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế Các khuyến nghị cụ thể bao gồm việc nâng cao nhận thức về giá trị văn hóa, đầu tư vào công nghệ và phát triển các nền tảng trực tuyến để quảng bá và bảo tồn nghệ thuật truyền thống.

1.4 Những điểm mới của luận án

Về mặt lý luận, luận án có một số đóng góp sau đây:

Luận án nghiên cứu biểu diễn nghệ thuật từ góc độ quyền của người biểu diễn, quyền hưởng thụ văn hóa nghệ thuật của công chúng, cùng quyền của cá nhân và tổ chức thực hiện biểu diễn Cách tiếp cận dựa trên quyền là nền tảng lý luận quan trọng nhằm hoàn thiện pháp luật quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật, nhấn mạnh sự cần thiết có các quy định cụ thể để bảo đảm thực hiện quyền của người biểu diễn và các quyền liên quan đến hoạt động biểu diễn.

Luận án phân tích các vấn đề lý luận liên quan đến quản lý nhà nước về biểu diễn nghệ thuật (BDNT), bao gồm khái niệm BDNT, các hình thức thực hiện chuyên nghiệp và không chuyên, cũng như mục đích công và kinh doanh trong bối cảnh công nghệ và toàn cầu hóa Từ đó, xác định sự cần thiết quản lý nhà nước đối với từng loại hình nghệ thuật biểu diễn Bên cạnh đó, luận án đề cập đến khái niệm quản lý nhà nước về BDNT nhằm đáp ứng yêu cầu và mục tiêu của Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, với tầm nhìn đến năm 2045 Cuối cùng, luận án nêu ra các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về BDNT, vừa bảo tồn giá trị truyền thống dân tộc, vừa khai thác BDNT như một ngành “công nghiệp văn hóa” góp phần vào gia tăng GDP quốc gia.

Về mặt thực tiễn, luận án có một số đóng góp sau:

Luận án đã tiến hành phân tích các quy định pháp luật qua hai giai đoạn từ 1995 đến 2012 và từ 2012 đến nay, nhằm đánh giá sự thay đổi trong quy định về quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật (BDNT) Tập trung vào sự khác biệt giữa Nghị định 79/2012 và Nghị định 144/2020, luận án chỉ ra những vấn đề tồn tại và thách thức trong các quy định hiện hành, đặc biệt là các quy định cấm trong hoạt động BDNT, cùng với sự thay đổi trong quy trình cấp phép nghệ thuật và chấp thuận hoạt động BDNT.

Khái niệm, phân loại biểu diễn nghệ thuật

2.1.1 Khái niệm, đặc điểm biểu diễn nghệ thuật

Nghệ thuật biểu diễn (NTBD) và biểu diễn nghệ thuật (BDNT) là hai khái niệm có mối quan hệ biện chứng nhưng vẫn tồn tại sự khác biệt rõ rệt Việc làm rõ sự khác biệt giữa NTBD và BDNT là cần thiết để xác định nội hàm của quản lý nhà nước đối với lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật.

Nghệ thuật biểu diễn (NTBD) có một lịch sử lâu đời và phát triển mạnh mẽ, phản ánh hoạt động sáng tạo của con người từ thuở sơ khai đến nay Là một lĩnh vực đặc thù của văn hóa, NTBD đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra giá trị văn hóa nghệ thuật độc đáo Sản phẩm của NTBD không chỉ đơn thuần là hình thức giải trí mà còn tác động sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm, lý tưởng và thẩm mỹ, góp phần vào sự phát triển toàn diện của nhân cách con người.

Nghệ thuật là hình thái ý thức xã hội đặc thù, phản ánh hiện thực qua những hình tượng sinh động và gợi cảm, nhằm thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người Sản phẩm của hoạt động sáng tạo này gắn liền với tâm tư và tình cảm của con người, giúp nhận thức các giá trị chân, thiện, mỹ Nghệ thuật không chỉ cải tạo thế giới mà còn tác động mạnh mẽ đến thế giới nội tâm, tạo sự gắn bó với cộng đồng Với ý nghĩa xã hội sâu sắc, nghệ thuật phản ánh đời sống và tâm lý của xã hội, thể hiện chiều sâu của mối quan hệ giữa con người và hiện thực.

Nền văn hoá nghệ thuật toàn nhân loại đã trải qua năm thời kỳ phát triển kỹ thuật sân khấu nghệ thuật biểu diễn Thời kỳ đầu tiên là nghệ thuật diễn xướng dân gian (folklore), với không gian sân khấu diễn kể hỗn đồng mang ý thức tâm linh Tiếp theo, thời kỳ thứ hai chứng kiến sự phát triển của sân khấu biểu diễn chuyên nghiệp với kịch nói cổ điển Châu Âu, trong đó khái niệm "Nghệ thuật biểu diễn" đã được ra đời vào năm 1711.

12 Đỗ Huy (2000), Mỹ học - Khoa học về các quan thệ thẩm mỹ, Nxb, Khoa học Xã hội, Hà Nội.

13 Lê Ngọc Cẩn (2013), Khái niệm của Chủ nghĩa hậu hiện đại - nguồn literature criticism online.

According to dictionaries such as the Oxford Advanced Learner's Dictionary and the Cambridge Dictionary, "performing arts" encompasses forms of art like music, dance, and theater, presented before an audience The modern performing arts emerged around 1880, followed by contemporary performing arts in the 1960s By the 1970s, postmodern performance art began to take shape, marking the evolution of performing arts through various distinct periods.

Theo từ điển bách khoa toàn thư Encarta, nghệ thuật biểu diễn (NTBD) bao gồm nhiều loại hình nghệ thuật được thể hiện trên sân khấu Những loại hình này bao gồm múa, hát, kịch, kịch câm, tạp kỹ, xiếc và rối, cũng như các hình thức kết hợp như opera và kịch hát.

Nghệ thuật sân khấu, theo cách tiếp cận toàn cầu, được coi là một loại hình nghệ thuật tổng hợp lâu đời, kết hợp nhiều yếu tố như văn học, hội họa, kiến trúc, âm nhạc, múa và điện ảnh Sân khấu tạo ra hình tượng nghệ thuật sống động cho công chúng, với ngôn ngữ đặc trưng là hành động, bao gồm hành động hình thể, tâm lý và ngôn ngữ, thông qua diễn xuất và biểu đạt cảm xúc của diễn viên Hành động sân khấu mang tính kịch và xung đột, nhằm thể hiện tư tưởng nhất quán của tác phẩm Mặc dù khái niệm nghệ thuật biểu diễn đã xuất hiện từ lâu ở Việt Nam, nhưng vẫn chưa có sự thống nhất về nội hàm của nó.

Tác giả Đỗ Thị Hương định nghĩa nghệ thuật diễn xuất hay nghệ thuật biểu diễn là một hình thức nghệ thuật tồn tại thông qua việc "diễn" trên sân khấu bởi con người Trong nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, cách tiếp cận performance tập trung vào việc phân tích hành động, sự kiện, thể loại hoặc hình thức từ nhiều khía cạnh khác nhau để hiểu rõ cách thức thực hiện, bối cảnh diễn ra, và những người tham gia vào quá trình này.

14 Oxford Advandced Learner’s Dictionary, Cambridge Dictionary

15 Như Huy (2008), Sơ lược lịch sử nghệ thuật biểu diễn, báo Tia sáng.

16 Trần Thị Thu Thuỷ, Nghiêm Thị Thanh Nhã, Lương Đức Thắng (2009) Giáo trình Giáo dục Nghệ thuật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

17 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Cục Nghệ thuật biểu diễn, Sở Văn hóa thể thao và Du lịch tp HCM

(2011), Tham luận hội nghị nâng cao thẩm mỹ trong nghệ thuật biểu diễn, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.14.

Nghệ thuật biểu diễn, theo quan niệm của NSND GS.TS Lê Ngọc Canh, bao gồm các loại hình nghệ thuật có chung đặc điểm và môi trường trình diễn, được hình thành và phát triển qua nhiều thế hệ trong lịch sử văn hóa các tộc người Các loại hình nghệ thuật biểu diễn như ca, múa, nhạc, tuồng, chèo, diễn xướng chuyển động trong không gian và thời gian khác nhau, do các nghệ nhân, nghệ sĩ thể hiện qua âm thanh, hình thể, điệu bộ và cảm xúc Những nghệ nhân này không chỉ tái tạo mà còn bổ sung và hoàn thiện các bài bản nghệ thuật đã tồn tại trong đời sống văn hóa cộng đồng.

Nghệ thuật biểu diễn là một loại hình nghệ thuật phong phú, kết hợp nhiều yếu tố chuyển động, hình thức và âm thanh Theo các nhà nghiên cứu, đây là nghệ thuật động mang tính thẩm mỹ cao, cung cấp trải nghiệm đa dạng cho người xem thông qua cảm nhận thị giác và thính giác.

Nghệ thuật biểu diễn, theo tác giả Phạm Tấn Anh, là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, bao gồm cả không gian và thời gian, được sáng tạo bởi các nghệ sĩ chuyên nghiệp và không chuyên Nó được trình diễn trực tiếp trên sân khấu bằng ngôn ngữ đặc trưng, tạo ra mối quan hệ biện chứng giữa tác giả, đạo diễn, diễn viên và các thành phần sáng tạo khác như họa sĩ, nhạc sĩ, biên đạo múa, ánh sáng, âm thanh, phục trang, ca múa, cùng với khán giả.

Nghệ thuật sân khấu được xem là một hình thức nghệ thuật tổng hợp và tập thể, trong đó nghệ thuật biểu diễn của diễn viên giữ vai trò chủ yếu và trung tâm Mặc dù có đầy đủ các yếu tố như kịch bản, sân khấu, và đạo cụ, nhưng nếu thiếu diễn viên, buổi biểu diễn sẽ không thể diễn ra.

Nhà nghiên cứu Trần Trí Trắc nhấn mạnh rằng nghệ thuật biểu diễn là một hình thức thể hiện sáng tạo của nghệ sĩ trước khán giả Đây không chỉ là sự giao tiếp từ trái tim đến trái tim, mà còn là sự kết nối giữa tình cảm của người biểu diễn và người xem, tạo nên một bảo tàng sống động của văn hóa dân tộc.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cùng với Cục Nghệ thuật biểu diễn, đã tổ chức hội thảo vào năm 2006 nhằm đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển ngành nghệ thuật biểu diễn Kỷ yếu hội thảo được xuất bản tại Hà Nội, cung cấp những thông tin quý giá về tình hình và hướng đi của lĩnh vực này, với nội dung được ghi lại từ trang 193 đến 194.

19 Phạm Tấn Anh, Luận văn thạc sĩ quản lý văn hoá “Quản lý nghệ thuật biểu diễn chuyên nghiệp ở Thái Bình”, năm 2013, tr.9.

20 Đình Quang (2001), Văn học nghệ thuật Thăng Long - Hà Nội quá khứ và hiện đại, Nxb Chính trị Quốc gia,

21 Trần Trí Trắc (2009) Đại cương nghệ thuật sân khấu, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.24.

Nghệ thuật biểu diễn (NTBD) là hoạt động nghệ thuật chủ yếu xoay quanh vai trò của người biểu diễn, người này chi phối các yếu tố nghệ thuật khác Quá trình sáng tạo của diễn viên bắt đầu từ việc nghiên cứu tác phẩm cho đến việc hóa thân vào nhân vật, thể hiện qua tâm hồn và cơ thể trong vai kịch hoặc qua âm nhạc Điều này cho thấy rằng việc bài trí và trang phục không phải là yếu tố quyết định; ngay cả trong những điều kiện tối giản như một cái hòm hay một chiếc chiếu, vẫn có thể tổ chức buổi biểu diễn Sự thành công của một đêm diễn phụ thuộc chủ yếu vào diễn viên, vì vậy, như Xta-ni-xlap-xki đã nói, diễn viên được coi là "ông vua bà chúa" của nghệ thuật biểu diễn.

Khái niệm, đặc điểm quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật

2.2.1 Khái niệm quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật

Xã hội được hình thành từ các giá trị vật chất và tinh thần, trong đó đời sống văn hóa tinh thần phong phú và lành mạnh là mục tiêu mà nhà nước hướng tới Hoạt động văn hóa cần được chú trọng thông qua các định hướng và chính sách quản lý nhằm nâng cao hiệu quả Hoạt động BDNT là một phần quan trọng trong văn hóa, phản ánh sự nhạy cảm của đời sống văn hóa hiện nay Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội mà còn là động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước Việc xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, trong đó nhân dân là chủ thể sáng tạo Quản lý nhà nước về BDNT là hoạt động quản lý văn hóa, mang đầy đủ đặc điểm của quản lý văn hóa.

Quản lý nhà nước (QLNN) đối với bảo đảm nhu cầu thị trường (BDNT) là một quá trình chuyển đổi từ việc hiểu rõ hiện trạng đến việc xác định và đáp ứng nhu cầu thiết yếu QLNN trong hoạt động BDNT bao gồm sự can thiệp tổng lực của nhà nước trong các lĩnh vực khác nhau, nhằm tác động hiệu quả theo quy luật phát triển của ngành nhu cầu thị trường, phục vụ cho các nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể.

27 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 12

28 Nguyễn Văn Hy, Phan Văn Tú, Quản lý hoạt động văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1998, tr.5.

Quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa là một yếu tố thiết yếu trong việc phát triển văn hóa tổng thể, đặc biệt là trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn Việc nghiên cứu QLNN về bảo tồn nghệ thuật biểu diễn cần được thực hiện trong bối cảnh phát triển văn hóa rộng lớn hơn để đảm bảo sự hài hòa và bền vững.

Quản lý nhà nước về bảo đảm an toàn thực phẩm (QLNN về BDNT) là quá trình tác động có tổ chức của nhà nước lên các cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức trong lĩnh vực này Quá trình này không chỉ nhằm khai thác tiềm năng mà còn xác định rõ hướng đi và mục tiêu quản lý, tạo động lực cho các hoạt động Để đạt được hiệu quả, chủ thể quản lý cần hiểu rõ đối tượng và điều khiển chúng một cách hiệu quả Việc xây dựng, ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật là công cụ quan trọng trong quản lý, giúp tạo ra hành lang pháp lý cho các lực lượng tham gia ngành BDNT hoạt động theo đúng định hướng của Đảng và pháp luật của Nhà nước Đồng thời, cơ quan quản lý nhà nước dựa vào các văn bản này để thực hiện chức năng của mình.

Quản lý nhà nước về biểu diễn nghệ thuật (QLNN về BDNT) được định nghĩa là một phần quan trọng trong quản lý nhà nước về văn hóa Đây là hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền thực hiện quản lý đối với tất cả các hoạt động nghệ thuật biểu diễn, bao gồm cả chuyên nghiệp và không chuyên, trên toàn quốc Mục tiêu của QLNN về BDNT là định hướng, thiết lập trật tự và kỷ cương cho hoạt động biểu diễn nghệ thuật, nhằm thúc đẩy sự phát triển của nghệ thuật biểu diễn quốc gia.

2.2.2 Đặc điểm của quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật

BDNT, hay biểu diễn nghệ thuật, là các hoạt động văn hóa do cá nhân và tổ chức thực hiện nhằm phục vụ nhu cầu giải trí và tinh thần của con người Để BDNT phát triển bền vững và phù hợp với nền văn hóa tiên tiến, đồng thời giữ gìn bản sắc dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế, việc quản lý nhà nước là cần thiết Văn hóa là tổng thể các hoạt động sáng tạo qua các thời kỳ, hình thành nên hệ thống giá trị và truyền thống riêng của mỗi dân tộc Quản lý nhà nước về văn hóa đòi hỏi sự can thiệp có tổ chức và có mục đích từ hệ thống pháp luật và bộ máy nhà nước nhằm phát triển và điều chỉnh các hoạt động văn hóa.

Tổng giám đốc UNESCO F Mayor đã đề xuất khái niệm về văn hóa cá nhân, nhấn mạnh sự quan trọng của việc quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa Quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa (BDNT) là một trong những nội dung quan trọng trong lĩnh vực văn hóa, phản ánh đầy đủ các đặc điểm chung của quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

QLNN về BDNT là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi các chủ thể có thẩm quyền trong lĩnh vực văn hóa Hệ thống quản lý nhà nước này được tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương, với quyền quản lý được phân cấp rõ ràng: cấp trung ương, cấp tỉnh (bao gồm tỉnh và các thành phố trực thuộc trung ương), cấp huyện (huyện thuộc tỉnh và quận thuộc thành phố), và cấp xã (xã thuộc huyện và phường thuộc quận) Mỗi cấp chính quyền sẽ đảm nhiệm vai trò quản lý BDNT tương ứng với phạm vi và cấp độ của cơ quan nhà nước đó.

Khách thể của quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa (BDNT) bao gồm các trật tự quản lý trong lĩnh vực văn hóa nhằm bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời phòng ngừa các vi phạm ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục Mục tiêu là giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến với bản sắc dân tộc đậm đà, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân Tuy nhiên, trong hoạt động quản lý nhà nước về BDNT, mỗi cấp, mỗi địa phương và từng hoạt động cụ thể cần xác định mục đích quản lý sát với yêu cầu nhiệm vụ và hoàn cảnh cụ thể để đảm bảo hiệu quả Ví dụ, chương trình mục tiêu BDNT ở cấp Trung ương cần có mục đích cụ thể để hoạt động quản lý đạt được kết quả tốt nhất.

Hoạt động quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa được thực hiện bởi nhiều chủ thể, có thể là chuyên nghiệp hoặc tự phát, và dựa trên hệ thống chính sách cùng văn bản pháp luật liên quan đến văn hóa Mục tiêu chính của hoạt động này là xây dựng và phát triển nền văn hóa, đồng thời phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc.

Ngoài ra, QLNN về BDNT cũng mang những đặc điểm riêng đó là:

Hoạt động quản lý nhà nước (QLNN) trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn (NTBD) cần phải đảm bảo tính đa dạng của các loại hình nghệ thuật, do NTBD bao gồm cả nghệ thuật chuyên nghiệp và không chuyên từ nhiều cá nhân và tổ chức khác nhau Điều này cho thấy NTBD không chỉ mang giá trị văn hóa truyền thống, mà còn có giá trị kinh tế trong ngành công nghiệp văn hóa Do đó, chính sách quản lý nhà nước cần phải phù hợp với những đặc thù này để phát huy tối đa tiềm năng của NTBD.

Bài viết của Lê Thị Bích Thuận trên Tạp chí VHNT số 352, tháng 10-2013, đề cập đến những vấn đề quản lý nhà nước về văn hóa, nhấn mạnh rằng không thể áp dụng một chính sách chung cho tất cả các loại hình hoạt động bảo tồn di sản văn hóa (BDNT) Điều này cho thấy sự cần thiết phải có những chiến lược quản lý linh hoạt và phù hợp với từng loại hình BDNT khác nhau.

Quản lý nhà nước về biểu diễn nghệ thuật (BDNT) cần bảo đảm quyền tự do sáng tạo cho những người tham gia hoạt động nghệ thuật BDNT không chỉ là hoạt động thể hiện các loại hình nghệ thuật biểu diễn mà còn bao gồm thi người đẹp, người mẫu và các sự kiện kết hợp với trình diễn thời trang cùng các hoạt động văn hóa, thể thao Điều này cho thấy sự gắn kết giữa BDNT và các lĩnh vực khác như văn hóa, thể thao và kinh tế, do đó, quản lý nhà nước trong lĩnh vực này thường mang tính liên ngành và yêu cầu sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành khác nhau.

Đối tượng quản lý nhà nước về biểu diễn nghệ thuật (QLNN về BDNT) bao gồm cá nhân và tổ chức tham gia hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp và không chuyên Hiện nay, hoạt động nghệ thuật biểu diễn rất đa dạng về nội dung và hình thức, không chỉ diễn ra trực tiếp mà còn thông qua các phương tiện kỹ thuật Ngoài việc biểu diễn một loại hình nghệ thuật, còn có sự kết hợp giữa các loại hình khác nhau, tạo điều kiện cho công chúng tiếp xúc và thưởng thức nghệ thuật một cách phong phú.

Hoạt động nghệ thuật biểu diễn bao gồm việc tạo ra các sản phẩm nghệ thuật dưới dạng văn bản, âm thanh và hình ảnh, nhằm truyền đạt thông điệp đến công chúng qua nhiều hình thức biểu diễn khác nhau Các sản phẩm này có thể được lưu hành dưới dạng bản ghi âm và ghi hình, góp phần vào việc phổ biến nghệ thuật đến đông đảo người xem.

Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật 35

Nghệ thuật biểu diễn (NTBD) là một hoạt động đa dạng với sự tham gia của nhiều thành phần như diễn viên và các đơn vị tổ chức NTBD không chỉ chuyển tải thông điệp đến một lượng lớn khán giả mà còn có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến xã hội Do đó, cần thiết phải có các quan điểm quản lý hợp lý và quy định cụ thể về các điều kiện và tiêu chí cho công tác biểu diễn, bao gồm địa điểm và hình thức biểu diễn.

Nghị định 144/2021, Điều 4, Khoản 1 quy định rằng chương trình nội dung biểu diễn phải phù hợp với thuần phong mỹ tục, hoàn cảnh xã hội và văn hóa dân tộc, đồng thời xác định quyền lợi và nghĩa vụ của các đối tượng tham gia Trong bối cảnh lịch sử, đất nước đã trải qua thời kỳ tập trung, bao cấp, nơi mà Nhà nước quản lý toàn bộ quá trình văn hóa, từ sản xuất đến tiêu dùng Mặc dù mô hình này đã nâng cao đời sống văn hóa cho nhân dân và hướng tới sự thống nhất tư tưởng, nhưng cũng đã tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến nền văn hóa và xã hội, với quản lý văn hóa mang tính áp đặt và không đáp ứng kịp thời nhu cầu đa dạng của quần chúng Hệ quả là nhiều hoạt động văn hóa bị tẻ nhạt, xa rời thực tế và hạn chế tính sáng tạo của cộng đồng trong việc sản xuất và thưởng thức nghệ thuật.

Tại Đại hội VI, Đảng và Nhà nước đã mạnh dạn khởi xướng công cuộc đổi mới, chuyển từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường năng động và sáng tạo Đường lối đổi mới này đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực xã hội, đặc biệt là nghệ thuật biểu diễn (NTBD) NTBD ngày càng linh hoạt và kịp thời đáp ứng nhu cầu đa dạng của công chúng, với sự phong phú về hình thức, thể loại và nội dung hấp dẫn, tạo nên sức sống mới cho đời sống xã hội.

Ngành nghệ thuật biểu diễn (NTBD) hiện đang đối mặt với nhiều thách thức do tác động tiêu cực từ nền kinh tế thị trường Sự xuất hiện của các tác phẩm nhắm đến thị hiếu thấp kém, tình trạng bầu sô chèo kéo, việc giả danh nghệ sĩ, đạo nhạc, cùng với các vấn đề liên quan đến trang phục và phong cách biểu diễn đang gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng nghệ thuật.

Gần đây, các cơ quan nhà nước gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm soát hoạt động biểu diễn nghệ thuật (BDNT) do một số địa phương tổ chức các sự kiện này để thu hút du khách Ngoài ra, các công ty và trường học cũng tham gia vào việc tổ chức BDNT Các lễ hội mới như Halloween và Canavan đang thu hút sự tham gia nhiệt tình của giới trẻ, nhưng chúng thường diễn ra tự phát và khó kiểm soát, tạo điều kiện cho những hành vi xấu ảnh hưởng đến trật tự và an ninh xã hội.

Tổ chức BDNT không chuyên tại các hội nghị và cuộc họp thường mời ca sĩ, diễn viên chuyên nghiệp tham gia, với mức thù lao cao gấp nhiều lần quy định của Nhà nước Hiện tượng này phổ biến và tạo ra nhiều thách thức cho các nhà quản lý trong việc đảm bảo tính công bằng và minh bạch.

Trong bối cảnh đó việc uốn nắn, điều chỉnh, quản lý của các cơ quan QLNN có chức năng đã và đang trở thành một tất yếu khách quan:

Quản lý hoạt động BDNT là tạo môi trường thuận lợi cho ngành NTBD phát triển.

Chính sách và văn bản pháp luật giống như những dòng kẻ trên khuông nhạc, nếu thiếu chúng, các nốt nhạc sẽ trở nên lộn xộn và mất đi ý nghĩa Chủ thể của khuông nhạc này là Nhà nước, giống như một nhạc sĩ, cần phải sáng tạo và sắp xếp các quy định sao cho tạo thành một bản nhạc hài hòa và có giá trị.

Quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật là nhằm đảm bảo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, bảo đảm quyền con người, quyền công dân

Hiến pháp 2013, Điều 2, khoản 1 khẳng định rằng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền vì Nhân dân, trong khi Điều 8, Khoản 1 nhấn mạnh việc tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ Hoạt động BDNT đóng vai trò thiết yếu trong xã hội, ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức và chuẩn mực xã hội Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, bên cạnh việc phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, cũng xuất hiện những hoạt động BDNT có nội dung phản cảm, thậm chí chống phá Nhà nước Do đó, cần xây dựng khung pháp luật nhằm quản lý hoạt động này, bảo đảm quyền con người và quyền công dân, đặc biệt là quyền tiếp cận và hưởng thụ các giá trị văn hóa Nhà nước cam kết đảm bảo mọi người dân đều có cơ hội tham gia vào hoạt động BDNT, góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của xã hội.

Theo Hiến pháp 2013, Điều 41, nhà nước cần ban hành các chính sách nhằm nâng cao mức hưởng thụ nghệ thuật biểu diễn (NTBD) cho nhân dân, đặc biệt là ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa Chính vì vậy, việc xây dựng hệ thống cơ quan sản xuất, bảo quản, nhân bản và phổ biến tác phẩm NTBD là rất quan trọng trong chính sách của nhà nước đối với ngành này.

Hệ thống nhà hát, cung văn hóa, cơ quan xuất bản, và các đơn vị truyền thông đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối và phổ biến tác phẩm nghệ thuật đến công chúng Sự phát triển vượt bậc của công nghệ đã tạo ra nhiều phương tiện truyền thông đa dạng, giúp tác phẩm nghệ thuật tiếp cận nhanh chóng, phong phú và hấp dẫn hơn với khán giả.

Quản lý hoạt động biểu diễn Nghệ thuật là tạo môi trường thuận lợi cho ngành nghệ thuật biểu diễn phát triển.

Trong những năm gần đây, Nhà nước đã khuyến khích phát triển ngành nghệ thuật biểu diễn (NTBD) thông qua đầu tư vào cơ sở vật chất, hạ tầng và nguồn nhân lực Ưu tiên hàng đầu là bảo tồn và phát huy các loại hình nghệ thuật truyền thống như tuồng, chèo, rối và dân ca, cùng với việc khôi phục các vở chèo, tuồng cổ để gìn giữ văn hóa dân tộc Bên cạnh đó, Nhà nước cũng khuyến khích xây dựng và phát triển các loại hình nghệ thuật nước ngoài như giao hưởng và nhạc vũ kịch.

Nhà nước đặt ưu tiên vào việc nâng cao chất lượng nghệ thuật trong ngành NTBD, từ sáng tạo tác phẩm đến dàn dựng và biểu diễn Điều này tạo động lực cho việc sản xuất các tác phẩm có giá trị tư tưởng và thẩm mỹ cao, phản ánh chân thực cuộc sống và góp phần bồi dưỡng nhân cách con người Qua đó, hướng tới lối sống lành mạnh, phù hợp với thuần phong mỹ tục.

Nhà nước cam kết đào tạo tài năng trẻ và khuyến khích thành lập các đơn vị nghệ thuật ngoài công lập, nhằm định hướng và tạo điều kiện phát triển đội ngũ nghệ sĩ, cũng như thúc đẩy sự lớn mạnh của các đơn vị nghệ thuật trong và ngoài công lập.

Nhà nước đã triển khai các chính sách cụ thể nhằm xây dựng đồng bộ cơ sở kỹ thuật phục vụ cho luyện tập và biểu diễn nghệ thuật Các nhà hát và trung tâm biểu diễn nghệ thuật đa năng đang được hình thành tại các thành phố lớn và khu du lịch, góp phần nâng cao chất lượng văn hóa và giải trí.

Ngành nuôi trồng và chế biến thủy sản (NTBD) có thể được ví như một đoàn tàu, trong khi các chính sách của Nhà nước giống như đường ray giúp đoàn tàu di chuyển Quản lý hoạt động BDNT tương tự như việc điều khiển đoàn tàu để đảm bảo nó chạy đúng hướng Do đó, việc quản lý hiệu quả hoạt động BDNT sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành NTBD.

Quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật góp phần ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế và mở rộng hội nhập quốc tế

Nguyên tắc quản lý nhà nước về biểu diễn nghệ thuật

Để thiết lập và vận hành ngành NTBD, các cơ quan quản lý cần tuân thủ các chuẩn mực và quy định bắt buộc, đảm bảo hoạt động quản lý không trái với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa và sự phát triển xã hội Nguyên tắc quản lý nhà nước đối với BDNT vừa mang tính chủ quan vừa khách quan, nhằm bảo vệ quyền BDNT và đáp ứng nhu cầu văn hóa của công chúng Việc tuân thủ các nguyên tắc này không chỉ phản ánh ý chí của Nhà nước mà còn phải phù hợp với các quy luật khách quan, đạo đức và chuẩn mực xã hội Hơn nữa, Nhà nước cần áp dụng các nguyên tắc quản lý một cách linh hoạt và sáng tạo trong từng tình huống cụ thể.

Quản lý nhà nước đối với bảo tồn di sản văn hóa (QLNN đối với BDNT) là một phần quan trọng trong lĩnh vực văn hóa, cần tuân thủ các nguyên tắc chính trị - xã hội của quản lý hành chính nhà nước Những nguyên tắc này bao gồm sự lãnh đạo của Đảng, tập trung - dân chủ, sự tham gia đông đảo của nhân dân lao động trong quản lý nhà nước, bình đẳng giữa các dân tộc và pháp chế xã hội chủ nghĩa.

QLNN đối với hoạt động BDNT có những nguyên tắc đặc thù, xuất phát từ giá trị văn hoá và kinh tế của lĩnh vực này, tác động trực tiếp đến đời sống và tinh thần của người dân Để hoạt động BDNT phù hợp với các chủ trương, chính sách của nhà nước, cần đảm bảo sự phù hợp với xu thế phát triển chung của nhân loại BDNT không chỉ là một phần của sự phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật mà còn đóng góp vào sự phát triển kinh tế như một ngành công nghiệp văn hoá Những nguyên tắc đặc thù của QLNN đối với BDNT cần được xác định rõ ràng để thúc đẩy sự phát triển bền vững trong lĩnh vực này.

Thứ nhất, nguyên tắc kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế, xã hội

BDNT là hoạt động văn hóa tư tưởng, đòi hỏi quản lý phải kết hợp hài hòa lợi ích kinh tế và xã hội Lợi ích không chỉ là mục tiêu và nhu cầu mà còn là động lực cho hoạt động của con người Sự thống nhất về lợi ích là điều kiện cần thiết để đạt được sự đồng thuận về mục tiêu và hành động.

Trong nền kinh tế đa dạng hiện nay, việc thỏa mãn nhiều loại lợi ích là rất quan trọng Đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng và thị trường nghệ thuật biểu diễn, ba yếu tố chính của hệ thống lợi ích bao gồm lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tổ chức doanh nghiệp và lợi ích xã hội Trong đó, lợi ích của tổ chức doanh nghiệp không chỉ phản ánh quyền lợi của tác giả mà còn đảm bảo sự tôn trọng đối với tính sáng tạo của họ.

Quá trình sản xuất kinh doanh (SXKD) sản phẩm và dịch vụ nội thất, theo giáo trình Luật Hành chính nhà nước, mang lại lợi ích cho Nhà nước thông qua nguồn thu thuế và các khoản thu khác vào ngân sách Đồng thời, lợi ích xã hội từ quản lý thị trường nội thất khó có thể định lượng, nhưng lại rất quan trọng, vì nó giúp xã hội tiếp cận và tiếp thu giá trị tri thức, văn hóa, nâng cao dân trí, và thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Quản lý tốt thị trường sản phẩm và dịch vụ nội thất không chỉ tạo ra sự phát triển đồng bộ và hiệu quả trong SXKD mà còn xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, góp phần củng cố trật tự kỷ cương và đạo đức xã hội, đồng thời đáp ứng tốt nhất nhu cầu học tập, nghiên cứu, ứng dụng và giải trí của công chúng.

Vì vậy nguyên tắc này cần đảm bảo các yêu cầu sau:

- Trong các quyết định QLNN cần phải quan tâm trước hết đến lợi ích của các đối tượng quản lý.

- Trong quá trình quản lý, Nhà nước phải có cơ chế, chính sách tạo ra những lợi ích chung và kết hợp hài hòa các lợi ích.

- Trong quá trình quản lý, Nhà nước phải coi trọng các lợi ích vật chất và tinh thần, lợi ích kinh tế và xã hội.

Nguyên tắc quản lý ngành và chức năng cần kết hợp chặt chẽ với quản lý theo địa phương để khai thác hiệu quả giá trị văn hóa đa dạng của 54 dân tộc tại Việt Nam Sự phong phú về văn hóa truyền thống của các vùng miền đòi hỏi một chiến lược quản lý linh hoạt và phù hợp, nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa độc đáo của từng dân tộc Việc thực hiện nguyên tắc này không chỉ giúp bảo vệ di sản văn hóa mà còn góp phần phát triển bền vững cộng đồng địa phương.

Bộ VHTTDL đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý ngành văn hóa tại Việt Nam, với sự phát triển của các loại hình nghệ thuật biểu diễn (NTBD) khác nhau ở từng địa phương do điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội Thành phố Hồ Chí Minh được coi là trung tâm văn hóa giải trí thương mại, trong khi các vùng sâu, xa và miền núi vẫn chưa phát triển mạnh mẽ về NTBD Do đó, nhà nước cần đầu tư và phát triển văn hóa tại những khu vực này để bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống và đảm bảo quyền hưởng thụ nghệ thuật của người dân Ngược lại, ở những địa phương có hoạt động BDNT phát triển nhưng xảy ra nhiều sai phạm, cần có chính sách và biện pháp quản lý riêng để hạn chế vi phạm trong lĩnh vực này.

Thứ ba, nguyên tắc quản lý ngành phối hợp với quản lý theo chức năng, quản lý liên ngành

BDNT không chỉ là hoạt động văn hóa mà còn yêu cầu sự phối hợp quản lý từ nhiều ngành khác nhau Để chương trình BDNT diễn ra thành công, quản lý cần chú trọng đến nội dung biểu diễn, trang phục ca sĩ, bản quyền, an ninh trật tự, an toàn xã hội, và phòng cháy chữa cháy Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ mua bản quyền cho các cơ quan, tổ chức nhằm phổ biến các tác phẩm có giá trị tư tưởng, khoa học, giáo dục và nghệ thuật, góp phần phát triển kinh tế - xã hội Bộ VHTTDL hàng năm phải phối hợp với các cơ quan liên quan để xây dựng ngân sách cho các chương trình BDTN Đối với các chương trình biểu diễn trực tiếp, việc phối hợp với các cơ quan chức năng như an ninh và phòng cháy chữa cháy là rất quan trọng, đặc biệt khi các hoạt động BDNT thu hút đông khán giả Trong bối cảnh công nghệ 4.0 và hội nhập quốc tế, người dân dễ tiếp cận với các chương trình văn hóa có nội dung phản cảm trên mạng Quản lý nhà nước đối với BDNT cần sự phối hợp chặt chẽ trong việc chấp thuận, tạm dừng, và thanh tra, kiểm tra các chương trình, ví dụ như tạm dừng biểu diễn nếu không đảm bảo điều kiện về phòng cháy chữa cháy hoặc vi phạm bản quyền.

Nghị định 22/2018/NĐ-CP, ban hành ngày 23/2/2018, quy định chi tiết các điều và biện pháp thi hành Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, cùng với những sửa đổi, bổ sung của Luật sở hữu trí tuệ năm 2009, đặc biệt liên quan đến quyền tác giả và quyền liên quan, được nêu rõ trong Điều 4, khoản 1.

Cục Sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học Công nghệ cần tăng cường phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc quản lý Bảo vệ Nhãn hiệu và Đối tượng trí tuệ (BNDT) Sự hợp tác hiệu quả giữa các cơ quan này là rất quan trọng, bởi nếu thiếu sự phối hợp, sẽ gây ra những tác động tiêu cực đến các cá nhân và tổ chức tham gia BNDT, cũng như ảnh hưởng đến các chương trình Bảo vệ Nhãn hiệu và Đối tượng trí tuệ.

Chủ thể quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật

Chủ thể quản lý biểu diễn nghệ thuật bao gồm các cơ quan nhà nước và cá nhân được nhà nước ủy quyền, thực hiện các phương pháp quản lý đối với hoạt động này Các cơ quan quản lý từ trung ương đến địa phương, như Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát và điều phối các hoạt động biểu diễn nghệ thuật.

Du lịch; các Bộ ngành Trung ương; UBND cấp tỉnh, cấp huyện.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc quản lý hoạt động nghệ thuật biểu diễn theo Nghị định, bao gồm việc ban hành cơ chế, chính sách và văn bản pháp luật liên quan Bộ cũng có nhiệm vụ chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định pháp luật, đồng thời phối hợp với các bộ, ngành để phát triển nhân lực và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực này Ngoài ra, Bộ còn thực hiện thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm liên quan đến nghệ thuật biểu diễn, cũng như tổ chức các cuộc thi và liên hoan nghệ thuật quốc gia và quốc tế cho các hội chuyên ngành.

Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật trên các phương tiện truyền thông và môi trường mạng Đồng thời, Bộ cũng chỉ đạo và hướng dẫn các cơ quan báo chí cũng như hệ thống thông tin cơ sở trong việc tổ chức và thực hiện các hoạt động nghệ thuật biểu diễn Ngoài ra, Bộ Ngoại giao còn có trách nhiệm phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để tổ chức các hoạt động nghệ thuật phục vụ cho công tác đối ngoại chính trị.

Theo Điều 13 Khoản 2, điểm a của Nghị định 144/2020/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2020, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài trong việc quản lý và hỗ trợ tổ chức, cá nhân Việt Nam hoạt động biểu diễn nghệ thuật tại nước ngoài Bộ Công an cũng phải thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn, an ninh cho các hoạt động này, đồng thời phối hợp với các cơ quan liên quan để quản lý an ninh và xuất, nhập cảnh cho nghệ sĩ nước ngoài tại Việt Nam Ngoài ra, Bộ Ngoại giao cần phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để tổ chức các hoạt động nghệ thuật phục vụ công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế Các bộ, cơ quan ngang bộ cũng phải phối hợp để đảm bảo công tác quản lý nhà nước về hoạt động nghệ thuật biểu diễn được thực hiện hiệu quả.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động nghệ thuật biểu diễn trên địa bàn, bao gồm việc chấp thuận tổ chức các cuộc thi và liên hoan Cơ quan này chỉ đạo các cơ quan chuyên môn về văn hóa và các cấp ủy ban nhân dân thực hiện các quy định theo Nghị định và pháp luật liên quan Họ ban hành các cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật và kế hoạch cho hoạt động nghệ thuật biểu diễn Ngoài ra, Ủy ban cũng hướng dẫn, đôn đốc và phổ biến các quy định pháp luật, đồng thời chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, phát triển nhân lực và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn Cuối cùng, họ thực hiện thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động nghệ thuật biểu diễn trên địa bàn.

Ủy ban nhân dân cấp huyện đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, bao gồm việc tiếp nhận thông báo từ các tổ chức và cá nhân liên quan đến cuộc thi, liên hoan nghệ thuật Theo Điều 12 khoản 2 điểm b Nghị định 144/2020/NĐ-CP, Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi tổ chức sự kiện có trách nhiệm này nhằm đảm bảo sự tuân thủ các quy định pháp luật trong lĩnh vực nghệ thuật.

Hội chuyên ngành về nghệ thuật biểu diễn thuộc Trung ương có trách nhiệm thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về việc tổ chức cuộc thi, liên hoan nghệ thuật sau khi nhận được sự chấp thuận từ Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ chỉ đạo các cơ quan liên quan thực hiện các biện pháp quản lý nhà nước, đảm bảo hoạt động tổ chức cuộc thi trên địa bàn tuân thủ đúng quy định pháp luật.

Hình thức và phương pháp quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật

Quản lý nhà nước đối với bảo tồn di sản văn hóa (QLNN đối với BDNT) là chuỗi hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền, thực hiện quyền lực Nhà nước để quản lý các cá nhân và tổ chức trong lĩnh vực bảo tồn di sản Mục tiêu của hoạt động này là phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của công chúng và bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống của dân tộc.

Quản lý nhà nước đối với bảo đảm an toàn thực phẩm (BDNT) được thực hiện thông qua các hình thức và phương pháp quản lý, bao gồm cả hình thức pháp lý và phi pháp lý Mục tiêu chính là điều chỉnh các hoạt động BDNT để đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật, phù hợp với đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng cũng như pháp luật của Nhà nước.

2.6.1 Hình thức quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật

2.6.1.1 Hoạt động ban hành chính sách, pháp luật quy định về biểu diễn nghệ thuật

Hoạt động ban hành chính sách và pháp luật là một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lý nhà nước (QLNN), tạo ra khung pháp lý cần thiết cho cá nhân và tổ chức trong việc thực hiện hoạt động bảo vệ di sản văn hóa (BDNT) QLNN đối với BDNT đóng vai trò then chốt trong lĩnh vực văn hóa, chủ yếu được thực hiện bởi các cơ quan hành chính nhà nước ở cả trung ương và địa phương.

37 Điều 12 khoản 2 điểm b Nghị định 144/2020/NĐ-CP Quy định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn.

38 Khoản 5 Điều 13 Nghị định 144/2020/NĐ-CP Quy định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn.

39 Điều 16 khoản 3 Nghị định 144/2020/NĐ-CP Quy định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn.

40 Trường Đại học Luật Hà nội, Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân,

Theo Hiến pháp 2013, Quốc hội thực hiện quyền lập pháp và ban hành các luật điều chỉnh hoạt động văn hóa Dựa trên cơ sở này, cơ quan hành chính nhà nước có chức năng quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa sẽ ban hành các văn bản pháp luật và chính sách nhằm thực hiện hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa.

Các chính sách và văn bản pháp luật quy định về quản lý nhà nước đối với bảo đảm đầu tư (BDNT) bao gồm các quy định về các loại hình bảo đảm đầu tư, tổ chức thực hiện hoạt động BDNT, các hành vi bị cấm trong lĩnh vực này, thẩm quyền quản lý của các chủ thể cụ thể, cùng với cách thức và thủ tục thực hiện hoạt động BDNT của cá nhân và tổ chức liên quan.

Mỗi giai đoạn phát triển của đất nước đều đòi hỏi các chính sách và quy định pháp luật được ban hành hoặc sửa đổi để phù hợp với các mục tiêu cụ thể Việc hoàn thiện khung pháp luật về quản lý nhà nước đối với bảo tồn di sản văn hóa (BDNT) là rất quan trọng, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quản lý Do đó, ban hành chính sách và pháp luật về BDNT là một trong những hoạt động thiết yếu trong quản lý nhà nước Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, việc đơn giản hóa thủ tục hành chính để phát huy giá trị văn hóa truyền thống và khai thác tiềm năng kinh tế của nền công nghiệp văn hóa càng làm nổi bật vai trò của các chính sách và văn bản pháp luật.

Nhà nước điều tiết và quản lý BDNT thông qua các chính sách cụ thể cho từng nhóm sản phẩm và khu vực, nhằm đáp ứng nhu cầu và nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho toàn dân Các chính sách này bao gồm đầu tư tài chính, giá cả, thuế đối với sản phẩm và dịch vụ văn hóa phục vụ nhiệm vụ chính trị, cùng với chính sách khen thưởng và kỷ luật cho các thành phần tham gia NTBD Những chính sách này cần phù hợp với quy luật vận động của thị trường văn hóa và đảm bảo định hướng phát triển văn hóa quốc gia.

QLNN cũng được thể hiện qua các mối quan hệ hợp tác quốc tế trong sản xuất, kinh doanh và việc quảng bá sản phẩm, dịch vụ NTBD ra toàn cầu, bao gồm các hoạt động trao đổi, mua bán, liên kết sản phẩm và giao dịch bản quyền tác giả.

Các nội dung quản lý cần tuân thủ quy định phân cấp và chức năng của cơ quan Nhà nước, giúp xác định rõ mục tiêu và nội dung quản lý Điều này cho phép các chủ thể quản lý trả lời câu hỏi "phải làm gì?" và "làm như thế nào?" Để đạt hiệu quả, Nhà nước cần áp dụng các phương pháp quản lý phù hợp, liên quan chặt chẽ đến mục tiêu quản lý Các phương pháp này xác định con đường và biện pháp cụ thể để thực hiện mục tiêu, có ảnh hưởng quan trọng đến sự thành công hay thất bại trong quản lý.

2.6.1.2 Hoạt động áp dụng pháp luật quy định về biểu diễn nghệ thuật

Hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật là quá trình mà các chủ thể quản lý có thẩm quyền dựa trên các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để giải quyết các vấn đề cụ thể trong quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng Do tính đa dạng của các hình thức và loại hình hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, việc áp dụng quy định pháp luật để xử lý các vấn đề phát sinh yêu cầu các chủ thể quản lý phải chủ động và sáng tạo Điều này không chỉ đảm bảo tuân thủ đúng quy định của pháp luật mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

Hoạt động bảo tồn và phát triển nghệ thuật truyền thống (BDNT) được thực hiện bởi cá nhân và tổ chức, với nhiều hình thức và nội dung phong phú nhằm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Để đạt được mục tiêu này, các chương trình BDNT cần tuân thủ quy định pháp luật, đảm bảo rằng các chủ thể thực hiện phải chấp hành pháp luật và cơ quan quản lý sẽ căn cứ vào các quy định hiện hành để quản lý hiệu quả các hoạt động BDNT.

Hoạt động kiểm duyệt nội dung trong chương trình BDNT là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong việc thực hiện BDNT của cá nhân và tổ chức Các cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ vào các quy định pháp luật liên quan để quyết định chấp thuận hoặc tạm dừng hoạt động BDNT.

Chấp thuận BDNT 41 là hành động của cơ quan có thẩm quyền thể hiện ý chí của nhà nước trong việc công nhận tính hợp pháp của các hoạt động BDNT, đảm bảo không vi phạm các nội dung cấm và tuân thủ các quy định pháp luật Đồng thời, các hoạt động này cũng phải tôn trọng an ninh, chính trị, cũng như các giá trị văn hóa, thuần phong mỹ tục và truyền thống của dân tộc.

Tạm dừng BDNT là hành động của cơ quan có thẩm quyền nhằm xử lý các cá nhân, tổ chức vi phạm các quy định cấm hoặc có hoạt động gây mất trật tự, an toàn và an ninh.

41 Lưu ý, NDD79/2012 quy định về cấp phép biểu diễn NT và hoạt động này hiện nay đã được quy định bởi

NĐ 144/2020 về chấp thuận biểu diễn nghệ thuật

Các hoạt động chấp thuận hoặc tạm dừng các dự án BDNT cần được thực hiện dựa trên cơ sở pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân và tổ chức liên quan đến BDNT.

Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật

2.7.1 Yếu tố chính trị - pháp lý

BDNT đóng vai trò quan trọng trong văn hóa, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của nhân dân Các chương trình BDNT cần tuân thủ đúng các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11 năm 1946, Bác Hồ nhấn mạnh rằng văn hóa phải dẫn dắt quốc dân trong việc thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ, đồng thời khẳng định vai trò quyết định của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 cần có tầm nhìn dài hạn để đầu tư cho văn hóa nghệ thuật, nhằm góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước Yếu tố chính trị - pháp lý là một trong những yếu tố quan trọng nhất, ảnh hưởng lớn đến quản lý nhà nước đối với bảo tồn và phát triển nghệ thuật.

Quản lý nhà nước đối với văn hóa biểu diễn nghệ thuật (BDNT) cần dựa trên các chủ trương của Đảng và pháp luật Nhà nước, nhằm phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Văn hóa không chỉ gắn liền với chính trị mà còn là nền tảng xây dựng tư tưởng chính trị của người dân Chính sách lãnh đạo của Đảng tập trung vào việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc BDNT không chỉ phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần và giải trí mà còn thực hiện nhiệm vụ chính trị, trong đó việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến người dân là rất quan trọng Các hoạt động BDNT như kịch nói, ca múa nhạc là công cụ hiệu quả để truyền tải tư tưởng và quan điểm chính trị một cách gần gũi và dễ tiếp cận đến từng người dân.

Quản lý nhà nước (QLNN) đối với biểu diễn nghệ thuật (BDNT) cần đáp ứng các mục tiêu đã được Đảng và Nhà nước đề ra, như trong Quyết định số 1456/QĐ-TTg ngày 19/8/2014, nhấn mạnh phát triển nghệ thuật biểu diễn để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, bảo tồn nghệ thuật truyền thống và tiếp thu tinh hoa nghệ thuật thế giới Quyết định 1909/QĐ-TTg ngày 12/11/2021 cũng khẳng định tầm quan trọng của việc quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới, nâng cao vị thế quốc gia và bảo đảm phát triển bền vững Do đó, QLNN đối với BDNT và văn hóa cần phù hợp với chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, thông qua việc ban hành các văn bản, chính sách và khung pháp lý để điều chỉnh mọi hoạt động BDNT, đặc biệt trong bối cảnh cách mạng công nghệ 4.0.

Với sự gia tăng đáng kể về số lượng và hình thức hoạt động của các chương trình không chuyên, tự phát, việc quản lý nội dung của những hoạt động này đã trở thành một thách thức lớn.

2.7.1 Yếu tố kinh tế - xã hội

Chính sách và pháp luật về quản lý nhà nước đối với bản dịch nội dung (BDNT) chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa, giáo dục và y tế, một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước Tư tưởng xã hội hóa đã được Đảng nêu ra từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII và được cụ thể hóa trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, nhấn mạnh rằng các vấn đề chính sách xã hội cần được giải quyết theo tinh thần xã hội hóa Các đại hội tiếp theo đã tiếp tục khẳng định chủ trương này như một nhiệm vụ trọng tâm, đặc biệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã nhấn mạnh rằng các chính sách xã hội phải thực hiện theo tinh thần xã hội hóa, đồng thời đề cao trách nhiệm của chính quyền các cấp và huy động nguồn lực từ nhân dân Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X tiếp tục cụ thể hóa việc "đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo" cùng với "xúc tiến xã hội hóa các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thông tin" phù hợp với từng loại hình và vùng miền Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16-6-2008 của Bộ Chính trị khóa IX đã chỉ ra rõ ràng về việc xây dựng và thực hiện kế hoạch xã hội hóa các hoạt động văn học - nghệ thuật, xác định các lĩnh vực cần xã hội hóa và những lĩnh vực mà Nhà nước phải đầu tư, bảo tồn, xây dựng và phát triển.

Để thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/NQ-CP vào ngày 21-8-1997 về việc xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế và văn hóa Tiếp theo, Nghị định số 73/1999/NĐ-CP được ban hành vào ngày 19-8-1999 nhằm cụ thể hóa các phương hướng và chủ trương này.

Năm 1999, Chính phủ đã ban hành chính sách khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa và thể thao, tiếp theo là Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP vào ngày 18-4-2005, nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất của nhân dân trong việc chăm lo cho sự nghiệp này Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng đã phát hành Chỉ thị số 32/2008/CT-BVHTTDL vào ngày 08-4-2008, với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động xã hội hóa, khuyến khích sự tham gia của mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là người nghèo và các đối tượng chính sách Chỉ thị này nhằm cải thiện mức hưởng thụ văn hóa, thể thao và du lịch cho người dân, đồng thời đổi mới cơ chế quản lý và mở rộng quyền tham gia của nhân dân và các thành phần kinh tế trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch.

2.7.2 Yếu tố văn hóa - xã hội

Việt Nam là quốc gia với 54 dân tộc, mỗi dân tộc và vùng miền đều có những nét văn hóa độc đáo, tạo nên sự đa dạng phong phú cho nền văn hóa dân tộc Sự khác biệt này hình thành từ quá trình phát triển dân tộc, điều kiện tự nhiên và truyền thống tín ngưỡng lâu đời Mặc dù có sự khác nhau về tâm lý, hình thái văn hóa và cách ứng xử, các vùng văn hóa vẫn có chung nguồn gốc dân tộc và lịch sử Do đó, không thể áp dụng một chính sách chung cho việc bảo tồn và phát triển văn hóa cho tất cả các vùng miền Tuy nhiên, việc phát huy giá trị văn hóa truyền thống là cần thiết để đảm bảo sự phát triển thống nhất Bên cạnh những giá trị tốt đẹp, cũng tồn tại những tư tưởng lạc hậu và ảnh hưởng tiêu cực từ văn hóa ngoại lai, như các chương trình biểu diễn không phù hợp, cần được điều chỉnh để bảo tồn thuần phong mỹ tục của Việt Nam Giao lưu văn hóa là yếu tố quan trọng nhưng cần được cân nhắc để tránh những tác động tiêu cực đến bản sắc văn hóa dân tộc.

49 Thanh Lê Duy, “Những văn hóa đặc trưng chỉ có ở miền Bắc,” VanHoa (blog), April 19, 2021, https://vanhoagiaoduc.vn/nhung-van-hoa-dac-trung-chi-co-o-mien-bac/.

Trong nghiên cứu của Huỳnh Công Bá (2019), tác giả nhấn mạnh rằng sự phát triển văn hóa không chỉ phụ thuộc vào sự lan tỏa từ các trung tâm văn hóa mà còn phản ánh tính sáng tạo của các địa phương và dân tộc Để quản lý nhà nước về văn hóa, đặc biệt là bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể (BDNT), cần tránh biện pháp cấm đoán cực đoan và thay vào đó, khuyến khích giao lưu và ảnh hưởng văn hóa Nhà nước không thể "đóng cửa" trước văn hóa ngoại lai, bởi nhu cầu thưởng thức văn hóa nghệ thuật của mỗi dân tộc và vùng miền là đa dạng và phong phú Tuy nhiên, sự thay đổi trong thị hiếu của giới trẻ đang khiến các loại hình nghệ thuật truyền thống như chèo, cải lương, tuồng, ca trù dần bị mai một Do đó, hoạt động quản lý nhà nước cần chủ động và sáng tạo để thích ứng với những biến đổi của xã hội và văn hóa hiện nay.

51 Huỳnh Công Bá (2019): Đặc trưng và sắc thái văn hóa vùng - tiểu vùng ở Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.37

2.7.3 Sự phát triển của khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, ngành nghệ thuật biểu diễn (NTBD) đã trở thành một "công nghiệp văn hóa" không biên giới, với sự cạnh tranh trong nhập khẩu và xuất khẩu, đồng thời cần đảm bảo hiệu quả đầu tư Việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc như một thương hiệu quốc gia là rất quan trọng, bên cạnh việc tiếp thu những thành tựu văn minh nhân loại Do đó, quản lý nhà nước về BDNT cần đặc biệt chú trọng đến vấn đề này Mọi quy định pháp quy liên quan đến việc "đóng cửa biên giới" hay "mở toang biên giới" đều có thể cản trở sự phát triển và đổi mới của NTBD.

Trong bối cảnh hiện tại và tương lai, việc 52 thành viên của Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) thông qua Hiệp định Bắc Kinh về hoạt động biểu diễn trên các phương tiện nghe nhìn vào ngày 28 tháng 4 năm 2020 sẽ tạo ra nhiều thay đổi lớn, mở rộng các lĩnh vực từ truyền thống đến hiện đại, bao gồm cả điện ảnh Pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ cần phải tương thích với các quy định và cam kết quốc tế, đặc biệt là bảo vệ quyền độc quyền của người biểu diễn trong việc định hình, sao chép, phân phối và công bố các tác phẩm của họ Hơn nữa, việc nâng cao ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan Nhà nước đã được chú trọng, với nhiều kế hoạch và chính sách được triển khai nhằm nâng cấp hạ tầng kỹ thuật thông tin Từ 2014 đến 2020, Việt Nam đã liên tục cải thiện thứ hạng Chính phủ điện tử theo đánh giá của Liên hợp quốc, từ vị trí 99 lên 86, ghi nhận sự phát triển trong nhóm các nước phát triển.

52 “Tổ Chức Sở Hữu Trí Tuệ Thế Giới (WIPO) - World Intellectual Property Organization (WIPO) | Hồ Sơ -

I don't know!

53 Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), 2015, Điều 4.3

Chính phủ điện tử ở mức cao, thậm chí cao hơn chỉ số trung bình thế giới Vị trí xếp hạng 86/193 quốc gia, vùng lãnh thổ 54

Quyết định số 942/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030, đặt ra mục tiêu cho các cơ quan nhà nước thiết kế mô hình tổ chức và vận hành dựa trên dữ liệu và công nghệ số, nhằm cải thiện hiệu quả công việc và khả năng hợp tác Chiến lược xác định chỉ tiêu cụ thể là 90% hồ sơ công việc cấp bộ, 80% cấp huyện và 60% cấp xã sẽ được xử lý trực tuyến, trừ hồ sơ bí mật nhà nước Trong bối cảnh công nghệ 4.0 và ảnh hưởng của Covid-19, việc ứng dụng công nghệ trong các chương trình BDNT ngày càng phong phú, với sự gia tăng các hoạt động trực tuyến qua các nền tảng mạng xã hội Tuy nhiên, việc kiểm soát nội dung các chương trình BDNT do cá nhân, tổ chức thực hiện đang gặp thách thức lớn, khi các nội dung phản cảm, lệch lạc dễ dàng phát tán qua livestream trên mạng xã hội như Facebook, TikTok, tạo ra khó khăn cho quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

Phát triển chính phủ điện tử là một yếu tố quan trọng trong việc hướng tới kinh tế số và xã hội số Việc ứng dụng công nghệ thông tin không chỉ nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước mà còn tạo ra môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân Chính phủ điện tử giúp cải thiện dịch vụ công, tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước Để đạt được mục tiêu này, cần có sự đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng công nghệ và nâng cao kỹ năng số cho cán bộ, công chức.

Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật của một số quốc gia

BDNT được coi là quyền biểu diễn trước công chúng, và mỗi quốc gia có cách tiếp cận riêng trong việc quản lý quyền này Việc nghiên cứu các quy định pháp luật của một số quốc gia sẽ giúp đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về BDNT tại Việt Nam trong tương lai.

2.8.1 Kinh nghiệm quản lý biểu diễn nghệ thuật của Vương quốc Anh

Giống như nhiều quốc gia khác, mỗi loại hình nghệ thuật như âm nhạc, kịch, và cuộc thi sắc đẹp đều có những quy định riêng biệt để phù hợp với từng hình thức Luật pháp Anh tiếp cận vấn đề này dựa trên quyền của người biểu diễn và các quyền liên quan đến biểu diễn Đặc biệt, pháp luật Anh đã thiết lập các quy định cụ thể để phân biệt rõ ràng giữa hai nhóm quyền này.

Về quyền của người biểu diễn thường gắn liền với việc bảo vệ quyền tác giả

Quyền sở hữu trí tuệ tại Vương quốc Anh được quy định trong Đạo luật Bản quyền, Kiểu dáng và Bằng sáng chế năm 1988 (CDPA 1988) Quyền của người biểu diễn bảo vệ các buổi biểu diễn kịch và âm nhạc, bao gồm cả những bản ghi lại, khỏi việc thực hiện trái phép và các giao dịch bất hợp pháp Quyền này đặc biệt quan trọng trong việc ngăn chặn các bản ghi bất hợp pháp (bootlegs) của các buổi biểu diễn mà không có sự đồng ý của người biểu diễn Thời gian bảo hộ quyền của tác giả thường là 50 năm, bắt đầu từ năm diễn ra buổi biểu diễn Nếu trong khoảng thời gian này có bản ghi của buổi biểu diễn được phát hành, các quy tắc cụ thể sẽ được áp dụng.

Quyền của người biểu diễn đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo họ nhận được thù lao cho các tác phẩm của mình Khi các bản ghi âm từ buổi biểu diễn được phát công khai, người biểu diễn sẽ được thanh toán Điều này cũng áp dụng khi các bản ghi âm được phát sóng trên các chương trình truyền hình rộng rãi Bên cạnh đó, người biểu diễn còn được bảo vệ bởi các quyền nhân thân.

55 “Performers’ Rights and Rights in Performances | Legal Guidance | LexisNexis,” accessed February

Quyền của người biểu diễn bao gồm quyền được xác định danh tính và quyền phản đối những hành vi xúc phạm Quyền phản đối cho phép họ ngăn chặn các thay đổi có thể làm tổn hại đến danh tiếng của mình Điều này rất quan trọng trong các buổi biểu diễn, nơi mà sự thay đổi có thể ảnh hưởng đến hình ảnh và uy tín của nghệ sĩ.

Quyền biểu diễn trước công chúng trong lĩnh vực âm nhạc ở Anh được quy định bởi pháp luật với những điều kiện cụ thể.

Pháp luật Anh không định nghĩa cụ thể về "biểu diễn ở nơi công cộng", nhưng các tòa án đã hướng dẫn rằng đây là bất kỳ buổi biểu diễn âm nhạc nào diễn ra bên ngoài một tòa nhà Theo Quy tắc Ứng xử của PPL, "biểu diễn ở nơi công cộng" có ý nghĩa pháp lý rộng rãi, không được định nghĩa trong Đạo luật năm 1988 Các tòa án xác định rằng bất kỳ hình thức phát âm thanh nào từ các bản ghi âm, bao gồm cả qua truyền hình và đài phát thanh, ngoài một môi trường gia đình cũng được coi là biểu diễn ở nơi công cộng Do đó, việc phát nhạc đã ghi tại nơi làm việc có thể được xem là "biểu diễn ở nơi công cộng", mà không yêu cầu công chúng phải có quyền truy cập vào địa điểm biểu diễn.

Pháp luật Anh yêu cầu các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân cung cấp dịch vụ giải trí phải xin giấy phép hoặc ủy quyền từ cơ quan cấp phép, thường là hội đồng địa phương Các loại hình kinh doanh cần giấy phép bao gồm câu lạc bộ đêm, địa điểm nhạc sống, rạp chiếu phim, rạp hát lớn, lễ hội ngoài trời và sân vận động.

Theo Luật cấp phép 2003 của Anh, việc quản lý các chương trình và hoạt động biểu diễn nghệ thuật (BNDT) yêu cầu phải xin cấp phép cho nhiều loại hình như biểu diễn kịch, chiếu phim, biểu diễn âm nhạc và nhảy múa, đặc biệt khi có sự tham gia của một lượng khán giả nhất định.

Để đảm bảo an toàn cho cộng đồng, việc cấp phép biểu diễn cho 500 người được quy định chỉ diễn ra trước 8 giờ sáng hoặc sau 11 giờ đêm Mục đích của quy định này là ngăn chặn tội phạm và mất trật tự, bảo vệ an toàn nơi công cộng, hạn chế phiền toái cho người dân, cũng như bảo vệ trẻ em khỏi những nguy hiểm có thể xảy ra.

56 “Performers’ Rights,” GOV.UK, accessed February 23, 2022, https://www.gov.uk/government/publications/performers-rights/performers-rights.

57 “Entertainment Licensing,” GOV.UK, accessed February 23, 2022, https://www.gov.uk/guidance/entertainment-licensing-changes-under-the-live-music-act.

58 Điều 4 (2) Đạo luật cấp phép năm 2003 của Anh

Hoạt động cấp phép biểu diễn là một phương thức quản lý quan trọng mà nhà nước Anh áp dụng để kiểm soát các chương trình biểu diễn nghệ thuật Cấp phép không chỉ là công cụ xác định các điều kiện cần thiết mà cá nhân hoặc tổ chức phải đáp ứng khi tham gia hoặc tổ chức biểu diễn nghệ thuật.

Theo quy định tại Điều 3 (1) Đạo luật cấp phép, cơ quan có thẩm quyền cấp phép bao gồm: (a) Hội đồng quận ở Anh, (b) Hội đồng bang ở Anh khi không có hội đồng quận, (c) Hội đồng của bang hoặc thành phố ở xứ Wales, (d) Hội đồng của thành phố Luân Đôn, (e) Hội đồng chung của thành phố thuộc Luật Đôn, (f) Người đứng đầu the Inner Temple, (g) Người điều hành “the Middle Temple”, và (h) Hội đồng các đảo Scilly.

Các cơ sở nghệ thuật ở Anh hoạt động với cơ chế linh hoạt, mở rộng nhiều kênh thu nhập như tài trợ từ ngân sách, doanh thu bán vé và dịch vụ bổ sung như ăn uống, bán đồ lưu niệm và trông giữ xe Những nguồn thu này không chỉ minh bạch và hợp pháp mà còn giúp các đơn vị nghệ thuật đảm bảo quỹ lương, trả thù lao cho nghệ sĩ và đầu tư phát triển.

Mục đích chính của nghệ thuật là phục vụ công chúng, và mọi kế hoạch cũng như chương trình nghệ thuật đều phải dựa trên tiêu chí này Sự phát triển của nghệ thuật không nên bị chi phối bởi những mong muốn hay sở thích cá nhân của các quan chức, kể cả những người có quyền phê duyệt ngân sách.

Các cơ quan quản lý văn hóa của Chính phủ, bao gồm Bộ Văn hóa, Bộ Truyền thông và Thể thao, Hội đồng Anh và Hội đồng nghệ thuật, thực hiện chức năng quản lý nhà nước một cách hiệu quả Họ chỉ định hướng chính sách, phân bổ ngân sách và thanh tra, kiểm tra để bảo vệ quyền tác giả Tuy nhiên, các cơ quan này không thay thế các đơn vị tổ chức trong việc thực hiện các sự kiện văn hóa như festival, triển lãm, cuộc thi nghệ thuật hay tu bổ kiến trúc Những hoạt động văn hóa và nghệ thuật cụ thể này do các đơn vị thực hiện độc lập.

Pháp luật về quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật

3.1.1 Những quy định của pháp luật về biểu diễn nghệ thuật qua các giai đoạn 3.1.1.1 Giai đoạn từ năm 1995 - 2012

Giai đoạn từ năm 1995 đến 2012 đánh dấu sự phát triển quan trọng của đất nước trong thời kỳ đổi mới, với sự tập trung vào công nghiệp hóa và hiện đại hóa Bên cạnh sự phát triển kinh tế, Nhà nước cũng chú trọng đến việc phát triển văn hóa và nghệ thuật, nhằm nâng cao đời sống tinh thần của người dân.

Nghị định số 87/1995/CP, ban hành vào ngày 12 tháng 12 năm 1995, nhằm tăng cường quản lý các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa, đồng thời thúc đẩy việc bài trừ một số tệ nạn xã hội nghiêm trọng Nghị định này cũng quy định về Quy chế lưu hành, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý trong lĩnh vực văn hóa.

Kể từ năm 1995, chúng tôi đã hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh phim, băng đĩa hình và băng đĩa nhạc Chúng tôi chuyên cung cấp dịch vụ bán và cho thuê xuất bản phẩm, đồng thời tham gia vào các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa công cộng Ngoài ra, chúng tôi còn cung cấp dịch vụ quảng cáo, viết nội dung và đặt biển hiệu.

Quy chế hoạt động biểu diễn và tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp kèm theo Quyết định số 32/1999/QĐ-BVHTT ngày 29 tháng 4 năm 1999

Nghị định 59/2002/NĐ-CP ban hành ngày 04/06/2002 của Chính Phủ nhằm bãi bỏ một số giấy phép và thay thế chúng bằng các phương thức quản lý khác, góp phần đơn giản hóa thủ tục hành chính và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.

Nghị định 87/1995 quy định về biểu diễn nghệ thuật nhằm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, bảo tồn bản sắc dân tộc và giáo dục lối sống văn minh Điều 1 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ngăn chặn sản phẩm văn hóa độc hại, trong khi Điều 3 cấm các hoạt động văn hóa có nội dung đồi truỵ và kích động bạo lực Các quy định này tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa và thuần phong mỹ tục Đa số các đơn vị nghệ thuật công lập hoạt động hiệu quả, hoàn thành nhiệm vụ và phục vụ nhu cầu văn hóa của nhân dân, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo.

Năm 1999, thẻ hành nghề được cấp cho hàng nghìn nghệ sĩ biểu diễn, nhưng chỉ sau ba năm, Nghị định 59/2002/NĐ-CP đã bãi bỏ giấy phép hành nghề BDNT cho nghệ sĩ Kể từ đó, thẻ hành nghề không còn tồn tại trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.

Khoản 2 Điều 21 Nghị định số 87/CP ngày 12 tháng 12 năm 1995 của Chính phủ quy định “Công dân Việt Nam và người nước ngoài muốn hoạt động thường xuyên tại nơi công cộng phải được Sở Văn hóa - Thông tin sở tại xác nhận trình độ nghề nghiệp và cấp Giấy phép hành nghề mới được hoạt động” Để triển khai thực hiện quy định trên, Bộ Văn hóa - Thông tin đã ban hành Quy chế hoạt động biểu diễn và tổ chức BDNT chuyên nghiệp kèm theo Quyết định số 32/1999/QĐ- BVHTT ngày 29 tháng 4 năm 1999, trong đó hướng dẫn chi tiết việc cấp giấy phép hành nghề cho nghệ sỹ, diễn viên. Để hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phục vụ công tác QLNN, ngày 02 tháng 7 năm 2004 Bộ Văn hóa - Thông tin đã ký Quyết định số 47/2004/QĐ-BVHTT ban hành Quy chế hoạt động biểu diễn và tổ chức BDNT chuyên nghiệp thay thế hoàn toàn Quy chế hoạt động BDNT chuyên nghiệp (gọi tắt là Quy chế 32 đã ban hành ngày 29/4/1999).

Quy chế mới được xây dựng gồm 7 chương và 26 điều, quy định cụ thể về quyền lợi và nghĩa vụ của diễn viên chuyên nghiệp Nó cũng nêu rõ các điều kiện tổ chức biểu diễn và quy trình cấp phép biểu diễn, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động biểu diễn và tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp.

Nhà nước quản lý thống nhất các hoạt động biểu diễn và tổ chức biểu diễn nghệ thuật truyền thống (BDNT) thông qua pháp luật, đồng thời tạo điều kiện cho công dân tự do sáng tạo trong lĩnh vực này Chính phủ khuyến khích việc sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và phát triển nghệ thuật dân tộc, cũng như tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa nghệ thuật quốc tế Ngoài ra, nhà nước hỗ trợ việc đưa các chương trình nghệ thuật mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam ra nước ngoài biểu diễn.

So với Quy chế 32, các điều khoản trong “Quy chế hoạt động biểu diễn và tổ chức nghệ thuật chuyên nghiệp” do Bộ Văn hóa - Thông tin mới ban hành đã phản ánh thực tế hơn Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề cần xem xét.

Việc cấp thẻ hành nghề biểu diễn hiện gặp nhiều khó khăn do sự lúng túng của các nhà chức trách, đoàn nghệ thuật và nghệ sĩ về các tiêu chí như tóc dài bù xù hay trang phục hở hang Điều này đặt ra câu hỏi về trách nhiệm giám sát và xử lý các nghệ sĩ biểu diễn “lậu” ra nước ngoài Ngày 16/6/2008, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW nhằm phát triển văn học, nghệ thuật, trong đó nhấn mạnh việc xây dựng cơ chế quản lý và chế tài để ngăn chặn những hoạt động sáng tác có nội dung không phù hợp, đồng thời yêu cầu sửa đổi, bổ sung các luật liên quan như Luật Báo chí và Luật Xuất bản, nhằm nâng cao trách nhiệm trong việc thẩm định và quyết định công bố các tác phẩm nghệ thuật.

Ngày 09 tháng 9 năm 2010, Bộ VHTTDL ban hành Kế hoạch số 3159/KH- BVHTTDL về việc thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 27 tháng 7 năm 2010 của Ban Bí thư về chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây huỷ hoại đạo đức xã hội Trong đó, Cục Điện ảnh, Cục Nghệ thuật biểu diễn có nhiệm vụ duyệt và kiểm soát chặt chẽ các loại phim nhựa, phim video, băng, đĩa ca nhạc, sân khấu, chương trình biểu diễn, ca nhạc, sân khấu, thời trang, không để các sản phẩm văn hóa độc hại xâm nhập vào nước ta Chỉ đạo các đơn vị chức năng, tăng cường sản xuất, nhập khẩu, tạo thêm các sản phẩm văn hóa lành mạnh, có chất lượng nghệ thuật cao để phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân dân.

Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch phát triển nghệ thuật biểu diễn Việt Nam đến năm 2010 đề ra các nội dung chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại hình nghệ thuật biểu diễn, đồng thời khuyến khích sự phát triển bền vững của ngành nghệ thuật này.

1) Phát triển nghệ thuật biểu diễn nhằm góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

2) Bảo tồn và phát huy giá trị các loại hình nghệ thuật truyền thống, đồng thời xây dựng và phát triển các loại hình nghệ thuật hiện đại.

3) Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động biểu diễn nghệ thuật, phát huy hơn nữa hiệu quả quản lý nhà nước Huy động tối đa các nguồn lực trong, ngoài nước và sự tham gia đóng góp của toàn xã hội trong việc xây dựng và phát triển nghệ thuật biểu diễn Việt Nam

Trong giai đoạn đầu sau đổi mới, hoạt động biểu diễn nghệ thuật (BDNT) còn đơn giản, chủ yếu do các đơn vị nghệ thuật và nghệ sỹ công lập thực hiện theo kế hoạch và nhận lương từ ngân sách Nhà nước, vì vậy, sai phạm trong BDNT hầu như không xảy ra Thời điểm này, một số doanh nghiệp nhà nước và tư nhân đã được thành lập để tham gia vào hoạt động biểu diễn nghệ thuật, nhưng số lượng còn ít, phạm vi hoạt động hạn chế, chưa phát triển mạnh và được quản lý chặt chẽ.

Thực tiễn thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về biểu diễn nghệ thuật

3.2.1 Thẩm quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà nước

Thẩm quyền quản lý được quy định cụ thể như sau:

Cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương:

Chính phủ đảm nhận vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động nghệ thuật biểu diễn và chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc điều hành toàn bộ các hoạt động trong lĩnh vực này.

68 Cục Nghệ thuật Biểu diễn, Báo cáo tổng kết công tác nghệ thuật biểu diễn, 2020.

Bộ VHTTDL chịu trách nhiệm giúp Chính phủ thực hiện việc thống nhất QLNN về hoạt động biểu diễn nghệ thuật QLNN ở cấp Bộ có nội dung như sau:

(i) Ban hành hoặc trình cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật

(ii) Xây dựng, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển sự nghiệp.

Chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để tổ chức nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực chuyên môn và nghiệp vụ, đồng thời thúc đẩy hoạt động hợp tác quốc tế.

(iv) Tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

(v) Thực hiện công tác thi đua khen thưởng, tôn vinh các nghệ sĩ, cá nhân, tập thể

Chủ trì và phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để quản lý, kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm, đồng thời giải quyết khiếu nại, tố cáo trên toàn quốc.

Cần phân công nhiệm vụ và ủy quyền cho các cơ quan trực thuộc, cũng như các đơn vị thuộc diện quản lý ngành, nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động nghệ thuật biểu diễn.

Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động nghệ thuật biểu diễn, đảm bảo thực thi đúng quyền hạn và nghĩa vụ trong phạm vi thẩm quyền của mình.

Cục Nghệ thuật biểu diễn, thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, có nhiệm vụ tham mưu cho Bộ trưởng trong việc quản lý nhà nước về hoạt động biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang, và thi người đẹp Cục cũng chịu trách nhiệm về lưu hành và kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu và văn học Ngoài ra, Cục được giao nhiệm vụ chỉ đạo và hướng dẫn phát triển sự nghiệp nghệ thuật biểu diễn và văn học trên toàn quốc, theo chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Cơ quan quản lý đối với BDNT ở địa phương:

UBND tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm quản lý và định hướng hoạt động NTBD tại địa phương UBND thành phố phải báo cáo với Trung ương về việc thực hiện chiến lược phát triển NTBD và đảm bảo sự ổn định của thị trường NTBD.

Theo Quyết định 1697/QĐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành ngày 5/10/2018, Cục Nghệ thuật biểu diễn có chức năng quản lý, thanh tra và kiểm tra các hoạt động nghệ thuật biểu diễn (NTBD) tại địa phương Quyết định này quy định việc thu hồi giấy phép đối với các cơ sở tổ chức doanh nghiệp trong lĩnh vực NTBD nếu vi phạm quy định Cục có quyền tạm đình chỉ giấy phép do cơ quan quản lý nhà nước cấp, thông báo cho Bộ để giải quyết, đồng thời thu hồi, cấm lưu hành hoặc tiêu hủy sản phẩm NTBD theo quy định của Chính phủ.

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động nghệ thuật biểu diễn (NTBD) tại địa phương, trực tiếp chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Đây là cơ quan chuyên môn hỗ trợ chủ tịch UBND cấp tỉnh thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến NTBD Sở đảm bảo việc quản lý nhà nước đối với các hoạt động nghệ thuật biểu diễn trong phạm vi địa phương.

Chỉ đạo các cơ quan chuyên môn về văn hóa và các đơn vị trực thuộc địa phương thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động nghệ thuật biểu diễn, tuân thủ quy định của Nghị định này cùng các văn bản pháp luật liên quan.

(ii) Triển khai các biện pháp thực hiện chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển sự nghiệp hoạt động biểu diễn nghệ thuật trong phạm vi địa phương.

Tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo nhằm phát triển nhân lực chuyên môn về nghệ thuật biểu diễn tại địa phương, đồng thời thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.

(iv) Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hoạt động nghệ thuật biểu diễn tại địa phương

Phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để tổ chức các cuộc thi và liên hoan nghệ thuật biểu diễn tại địa phương.

Phân cấp quản lý và kiểm tra hoạt động nghệ thuật biểu diễn tại địa phương là rất quan trọng Cơ quan chủ trì cần phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện công tác quản lý, kiểm tra và thanh tra Đồng thời, cần xử lý các vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động nghệ thuật biểu diễn trong phạm vi địa phương.

(viii) Báo cáo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về hoạt động nghệ thuật biểu diễn tại địa phương khi được yêu cầu.

Thanh tra văn hóa thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động biểu diễn nghệ thuật Theo quy định của Luật và Luật xử lý vi phạm hành chính, Thanh tra có nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể để đảm bảo việc thực hiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực nghệ thuật.

+ Thanh tra việc quản lý nhà nước về NTBD

+ Thanh kiểm tra việc chấp hành qui định pháp luật của các tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực NTBD

+ Xử lý vi phạm hành chính đối với tổ chức cá nhân thực hiện hành vi vi phạm trong quá trình hoạt động.

Trước năm 2000, ngành NTBD quản lý các đơn vị nghệ thuật theo cơ chế hành chính mà không có căn cứ pháp luật để thẩm định nghệ thuật, dẫn đến việc chỉ duyệt chương trình biểu diễn về hình thức mà không quan tâm đến nội dung nghệ thuật Điều này khiến các nhà hát và đơn vị nghệ thuật không chú trọng đổi mới nội dung và chất lượng, dẫn đến nhiều chương trình nghệ thuật kém hấp dẫn Nhận thức được vấn đề này, vào ngày 24/12/2013, Bộ VHTTDL đã ban hành Thông tư số 15/2013/TT-BVHTTDL quy định về tổ chức và hoạt động của hội đồng nghệ thuật trong lĩnh vực NTBD.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn quản lý nhà nước đối với biểu diễn nghệ thuật

Mặc dù công tác quản lý nhà nước đã đạt được một số kết quả quan trọng trong việc hoàn thiện quản lý hoạt động bảo đảm an toàn, vẫn tồn tại những hạn chế cần khắc phục.

Báo cáo số 629/BCNTBD của Cục Nghệ thuật biểu diễn ngày 6/12/2021 nêu rõ tình hình nghệ thuật biểu diễn tại Việt Nam trong năm 2021 và định hướng cho năm 2022 Bài báo chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến những tồn tại, hạn chế trong quản lý nhà nước đối với nghệ thuật biểu diễn, từ đó phác thảo bức tranh toàn cảnh về lĩnh vực này tại Việt Nam hiện nay.

Thứ nhất, thiếu triết lý phát triển nghệ thuật

“Triết lý phát triển” khác với “chiến lược phát triển” ở chỗ nó mang tính định hướng lâu dài và cốt lõi, quyết định sự tồn tại của ngành Triết lý này đặt ra câu hỏi quan trọng về lý do và mục đích phát triển: Ngành của chúng ta phát triển vì ai và vì cái gì? Thời điểm hiện tại không còn phù hợp cho những tranh luận vô nghĩa nữa.

Trong nghệ thuật, cần làm rõ mục đích sáng tác: "nghệ thuật vị nghệ thuật" hay "nghệ thuật vị nhân sinh" Việc xác định đối tượng công chúng mà nghệ sĩ hướng tới là rất quan trọng, vì nó ảnh hưởng đến sự phát triển và ý nghĩa của tác phẩm nghệ thuật.

Việc xác định đúng đối tượng thụ hưởng giúp tác phẩm nghệ thuật được định hướng theo nhu cầu và mong muốn của công chúng, từ đó tạo ra sự phong phú cho hệ thống nhu cầu văn hóa tinh thần trong xã hội Khi khán giả đón nhận và khuyến khích tác phẩm, nghệ sĩ sẽ có thêm động lực và điều kiện để tiếp tục sáng tác, đóng góp nhiều tác phẩm mới Điều này không chỉ thúc đẩy sự phát triển của thị trường nghệ thuật mà còn đảm bảo sự bền vững trong mối quan hệ giữa nghệ sĩ và công chúng.

Hiện nay, Nhà nước chưa xác định rõ đối tượng khách hàng mục tiêu cho sự phát triển văn hóa, dẫn đến tình trạng nhiều tác giả sáng tác theo hướng dễ dãi, đáp ứng nhu cầu của công chúng dễ dãi nhất Nhiều nghệ sĩ, đặc biệt là trong dòng nghệ thuật thị trường, đang chiều theo thị hiếu của nhóm công chúng này, làm cho thị hiếu dễ dãi càng trở nên phổ biến Ngược lại, nhóm công chúng có yêu cầu cao và chính kiến ngày càng xa lánh các tác phẩm nghệ thuật thị trường Sự phân định rõ ràng giữa nghệ thuật thị trường và nghệ thuật chính thống đã tạo ra những khiếm khuyết trong các tác phẩm, khi sản phẩm ăn khách thường kém chất lượng nghệ thuật, trong khi những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao lại không được công chúng đón nhận.

Một nền văn hóa nghệ thuật thiếu triết lý phát triển sẽ gặp nhiều khó khăn và bất cập Để cải thiện tình hình, việc xây dựng một triết lý phát triển nghệ thuật rõ ràng là cần thiết, trong đó xác định khách hàng mục tiêu và tiêu chí cho các tác phẩm nghệ thuật Nếu không thực hiện điều này, những vấn đề hiện tại sẽ tiếp tục cản trở sự tiến bộ trong lĩnh vực nghệ thuật.

Thứ hai, tư duy quản lý còn lạc hậu và xơ cứng

Theo đánh giá của một số nhà nghiên cứu về quản lý văn hóa, hiện nay chúng ta đang quản lý bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể (BDNT) dựa trên một số tư duy chủ yếu.

Tư duy thời chiến không chỉ đơn giản hóa vấn đề mà còn mang đậm tính duy ý chí, khi người nghệ sĩ trở thành chiến sĩ với nhiệm vụ định hướng tâm trí cộng đồng vào những vấn đề lớn lao và kêu gọi sự hy sinh Nghệ thuật trong thời kỳ này chủ yếu là nghệ thuật tuyên truyền, cần dễ hiểu và có nội dung tư tưởng rõ ràng, thông qua các hình tượng điển hình Những mong muốn tìm tòi và đổi mới nghệ thuật về hình thức và ngôn ngữ của nghệ sĩ phải tạm gác lại trong bối cảnh này.

Trước đây, nghệ thuật biểu diễn (NTBD) chỉ được coi là công cụ tuyên truyền, thể hiện qua việc đánh giá tác phẩm và tác giả tập trung vào nội dung và chủ đề tư tưởng, mà không chú trọng đến sự sáng tạo nghệ thuật Trong tổ chức hoạt động, ý nghĩa chính trị được nhấn mạnh hơn chuyên môn, và định hướng thường quay về các giá trị truyền thống thay vì khuyến khích đổi mới Điều này dẫn đến việc nhà nước chưa chú trọng đầy đủ đến việc phổ cập kiến thức nghệ thuật cho công chúng.

Tình hình thực tế và yêu cầu xã hội đã thay đổi căn bản, nhưng lối tư duy quản lý cũ vẫn cản trở sự phát triển của nền nghệ thuật biểu diễn (NTBD), làm giảm hiệu quả trong việc định hướng và tổ chức hoạt động nghệ thuật Các hội đồng duyệt tác phẩm hiện nay thường chú trọng nhiều đến chủ đề tư tưởng, tác động đến an ninh chính trị, trật tự xã hội và đạo đức lối sống, hơn là chất lượng nghệ thuật của các chương trình biểu diễn Đến nay, ngay cả những định hướng chiến lược vĩ mô cũng vẫn bị chi phối bởi tư duy cũ, với quan điểm rằng "Văn hóa là một mặt trận, người nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy", phản ánh một tư duy mang tính chiến tranh.

Tư duy “siêu xơ cứng” tại Việt Nam thể hiện sự phân biệt rõ ràng giữa nghệ thuật đích thực và nghệ thuật thị trường, tạo ra hai dòng nghệ thuật tách biệt.

Tác phẩm nghệ thuật và tác phẩm thị trường cần có sự kết nối chặt chẽ để phát triển thị trường văn hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế Công chúng xứng đáng được thưởng thức những tác phẩm âm nhạc chất lượng, đồng thời các tác phẩm có giá trị nghệ thuật cũng cần được đưa đến gần hơn với khán giả Việc tôn trọng nhu cầu của công chúng và nâng cao giá trị nghệ thuật sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường văn hóa.

Quản lý BDNT theo những quan điểm này cản trở nghiên cứu, gây khó khăn cho phê bình và ngăn chặn sự phát triển của nghệ sĩ.

Thứ ba, thiếu quan tâm tới cơ sở khoa học của công tác quản lý

Tại Việt Nam, nghiên cứu về quản lý văn hóa và ngành nghệ thuật biểu diễn (NTBD) vẫn chưa được chú trọng đầy đủ và nghiêm túc Thỉnh thoảng, có những nghiên cứu riêng lẻ từ các lĩnh vực như xã hội học, văn hóa học hay quản lý văn hóa, nhưng chúng thiếu tính liên ngành và chỉ tập trung vào một khía cạnh hoặc mảng nhỏ của hoạt động BDNT Những nghiên cứu này không chỉ hạn chế về quy mô mà còn không đủ sức để phác họa bức tranh tổng thể về ngành NTBD, do đó không thể đưa ra cái nhìn tổng quan để đánh giá và đề xuất hướng phát triển cho ngành này.

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT

Ngày đăng: 25/03/2022, 19:59

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Dương Viết Á (2005), Mấy vấn đề văn hóa âm nhạc Việt Nam, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mấy vấn đề văn hóa âm nhạc Việt Nam
Tác giả: Dương Viết Á
Nhà XB: Nxb. Vănhóa Dân tộc
Năm: 2005
2. Hoàng Tuấn Anh (2014), “Tăng cường công tác quản lý nhà nước về văn hóa hiện nay”, Tạp chí điện tử Quốc phòng toàn dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tăng cường công tác quản lý nhà nước về vănhóa hiện nay”
Tác giả: Hoàng Tuấn Anh
Năm: 2014
3. Phạm Tấn Anh (2013), Quản lý nghệ thuật biểu diễn chuyên nghiệp ở Thái Bình, Luận văn thạc sĩ quản lý văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quản lý nghệ thuật biểu diễn chuyên nghiệp ởThái Bình
Tác giả: Phạm Tấn Anh
Năm: 2013
4. Huỳnh Công Bá (2019), Đặc trưng và sắc thái văn hóa vùng – tiểu vùng ở Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa, Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đặc trưng và sắc thái văn hóa vùng – tiểu vùngở Việt Nam
Tác giả: Huỳnh Công Bá
Nhà XB: Nxb. Thuận Hóa
Năm: 2019
5. Nguyễn Duy Bắc (T.c) (2001), Về lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật trong công cuộc đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuậttrong công cuộc đổi mới
Tác giả: Nguyễn Duy Bắc (T.c)
Nhà XB: Nxb. Chính trị Quốc gia
Năm: 2001

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w