Phát huy vai trò của chủ nghĩa yêu nước trong phong trào thi đua phát triển sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao đời sống nhân dân theo tư tưởng hồ chí minh Phát huy vai trò của chủ nghĩa yêu nước trong phong trào thi đua phát triển sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao đời sống nhân dân theo tư tưởng hồ chí minh Phát huy vai trò của chủ nghĩa yêu nước trong phong trào thi đua phát triển sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao đời sống nhân dân theo tư tưởng hồ chí minh
Chủ nghĩa yêu nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa yêu nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh - sự hoà quyện giữa truyền thống và hiện đại.
Chủ nghĩa yêu nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa tinh thần yêu nước chân chính của dân tộc Việt Nam và những giá trị văn hóa truyền thống, cùng với hệ tư tưởng tiến bộ của giai cấp công nhân, mà chủ nghĩa Mác-Lênin là đại diện Điều này thể hiện sự hòa quyện giữa tư tưởng truyền thống và hiện đại, trong đó chứa đựng sức mạnh dân tộc và sức mạnh của thời đại.
Tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh thể hiện sự yêu Tổ quốc và nhân dân, coi việc đánh đổ đế quốc và thực dân là yếu tố hàng đầu để giải phóng dân tộc Mục tiêu cuối cùng là mang lại tự do, ấm no và hạnh phúc cho nhân dân Đây là lòng yêu nước chân chính, sâu sắc và triệt để, không nửa vời, mang tính vô sản và nhân văn sâu sắc Tư tưởng này được thể hiện rõ qua từng lời nói và việc làm của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với chiến sĩ Hải quân (Ảnh tư liệu)
Vào đầu năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ khát vọng mãnh liệt về độc lập và tự do cho dân tộc, nhấn mạnh rằng: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập.” Ông khẳng định rằng độc lập không có ý nghĩa nếu dân không được hưởng hạnh phúc và tự do Từ đó, chủ nghĩa yêu nước của Hồ Chí Minh gắn liền với tình yêu thương dân tộc và khát vọng xây dựng xã hội công bằng Hai mục tiêu đấu tranh giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng của ông luôn hòa quyện và hỗ trợ lẫn nhau.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về chủ nghĩa yêu nước, thể hiện qua quá trình đấu tranh vì độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân mà không vì lợi ích cá nhân Ông từng khẳng định: “Nước Việt Nam là gia đình của tôi”, cho thấy lòng yêu nước sâu sắc của Người Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng yêu Tổ quốc phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có như vậy dân tộc mới được ấm no và Tổ quốc mới phát triển Chủ nghĩa yêu nước của Người không chỉ dừng lại ở lý tưởng giải phóng dân tộc mà còn hướng tới xây dựng một Việt Nam xã hội chủ nghĩa phồn vinh, ấm no và hạnh phúc cho mọi người Tư tưởng này đã được lan tỏa và hiện thực hóa trong từng giai đoạn của cách mạng Việt Nam, góp phần tạo nên sức mạnh cho toàn dân tộc.
Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, nhân dân Việt Nam đã trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với sự lãnh đạo của Đảng, tinh thần yêu nước của dân tộc đã được khơi dậy, tạo nên sự đoàn kết mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh giành độc lập Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã phát triển lên một tầm cao mới, thể hiện qua những tấm gương anh hùng và sự cống hiến của hàng triệu người dân, từ tiền tuyến đến hậu phương Những chiến công hiển hách đã đưa Việt Nam ngang hàng với các dân tộc tiên phong chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc trong thế kỷ XX Thành công của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã mang lại độc lập và thống nhất cho đất nước, đồng thời tạo động lực tinh thần mạnh mẽ cho nhân dân tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, với chính quyền thuộc về nhân dân Đất nước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và ngày càng tham gia sâu rộng vào các tổ chức quốc tế.
Chủ nghĩa yêu nước trong xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa yêu cầu mỗi cá nhân và các thành phần kinh tế cần phát huy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, đồng thời duy trì thái độ lao động trung thực, lấy chất lượng và hiệu quả làm tiêu chí đóng góp Chúng ta cần kiên quyết chống lại gian lận và dối trá, không để mặt trái của cơ chế thị trường cản trở công cuộc đổi mới Thi đua yêu nước xã hội chủ nghĩa và cạnh tranh lành mạnh sẽ là động lực thúc đẩy xây dựng xã hội mới Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, mục tiêu là xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, bảo đảm an ninh quốc gia và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, kết hợp nội lực với ngoại lực để phát triển đất nước.
Trong bối cảnh bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới, chủ nghĩa yêu nước thể hiện qua quyết tâm kiên định trong việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Điều này bao gồm việc bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, cũng như những thành quả của sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Đồng thời, cần bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa, nhằm duy trì ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh cách mạng mới và sự tác động của cơ chế thị trường, nhiều cán bộ, đảng viên đang đối mặt với tình trạng tha hóa tư tưởng và đạo đức, dẫn đến sự phai nhạt chủ nghĩa yêu nước và lý tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội Để khắc phục tình trạng này, cần thiết phải xây dựng và thực hiện các cơ chế, chính sách phù hợp, đồng thời đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng Việc giáo dục về các chủ trương, đường lối và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần được đổi mới về nội dung, hình thức và phương pháp, nhằm nâng cao tính tự giác của cán bộ, đảng viên và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa yêu nước chân chính – Một động lực lớn của Chủ nghĩa yêu nước
2 Chủ nghĩa yêu nước chân chính – Một động lực lớn của Chủ nghĩa yêu nước.
Khi bước vào giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các cường quốc tư bản phương Tây đã tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa, thiết lập ách thống trị của chủ nghĩa thực dân thông qua những chính sách tàn bạo.
Từ những năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra rằng áp bức và bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa ngày càng gia tăng, dẫn đến sự phản kháng mạnh mẽ từ các quốc gia này.
Dân tộc Việt Nam phải đối mặt với áp bức nặng nề, không chỉ riêng quần chúng lao động như công nhân và nông dân, mà còn cả các giai cấp khác trong xã hội như tiểu tư sản, tư sản và địa chủ Tất cả đều chung nỗi nhục của một dân tộc mất nước, thiếu độc lập và tự do.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của tiềm năng dân tộc trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, đồng thời lên án chủ nghĩa thực dân và khuyến khích các dân tộc thuộc địa đứng lên chống lại áp bức.
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc về sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước chân chính trong cộng đồng dân tộc thuộc địa, coi đây là động lực quan trọng trong cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, tinh thần yêu nước là động lực chính giúp quân đội và nhân dân Việt Nam kiên cường chống lại thực dân và bọn việt gian, với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ và phú cường Ông nhấn mạnh rằng chủ nghĩa yêu nước chân chính là một phần của tinh thần quốc tế, khác biệt hoàn toàn với tinh thần "vị quốc" của các thế lực đế quốc phản động.
Xuất phát từ việc phân tích mối quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa và truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, điều mà những người cộng sản cần nắm bắt và phát huy.
LÝ LUẬN HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘNG LỰC CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Để đạt được những mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần nhận diện các động lực và điều kiện cần thiết để biến động lực đó thành sức mạnh thực sự Đặc biệt, cần chú trọng vào các động lực bên trong và nguồn nội lực của chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, động lực phát triển biểu hiện ở cả phương diện vật chất lẫn tinh thần, bao gồm yếu tố nội sinh và ngoại sinh Ông nhấn mạnh rằng con người, đặc biệt là nhân dân lao động, là động lực quan trọng và quyết định nhất, với công – nông – trí thức là nòng cốt Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến lợi ích chính đáng và thiết thân của họ, đồng thời chú trọng bồi dưỡng sức dân, nhằm đảm bảo lợi ích cho nhân dân và từng cá nhân.
Xem con người là động lực quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự kết hợp giữa sức mạnh cá nhân và sức mạnh cộng đồng Ông cho rằng chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ duy nhất coi trọng lợi ích chính đáng của cá nhân Truyền thống yêu nước, sự đoàn kết cộng đồng và sức lao động sáng tạo của nhân dân tạo nên sức mạnh tổng hợp, tạo động lực quan trọng cho chủ nghĩa xã hội.
Nhà nước là đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm thực hiện chức năng quản lý xã hội và đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi Đặc biệt, nhà nước chú trọng đến hiệu lực của tổ chức, bộ máy, tính nghiêm minh của kỷ luật và pháp luật, cũng như sự trong sạch, liêm khiết của đội ngũ cán bộ, công chức từ trung ương đến địa phương.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của động lực kinh tế trong việc phát triển sản xuất và kinh doanh Ông khuyến khích giải phóng mọi năng lực sản xuất để mọi cá nhân và gia đình đều góp phần vào lợi ích quốc gia Đồng thời, ông cũng gắn kết kinh tế với kỹ thuật và xã hội để tạo ra sự phát triển toàn diện.
Hồ Chí Minh không chỉ chú trọng đến phát triển kinh tế mà còn đặc biệt quan tâm đến văn hóa, khoa học và giáo dục, coi đây là những yếu tố tinh thần thiết yếu cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Tất cả các yếu tố động lực đã nêu là nguồn lực tiềm năng cho sự phát triển Để biến những khả năng và năng lực tiềm tàng thành sức mạnh và phát triển bền vững, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự lãnh đạo đúng đắn từ Đảng trong việc thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa xã hội Điều này chính là hạt nhân trong hệ động lực của chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng bên cạnh các động lực nội tại, cần phải kết hợp sức mạnh của thời đại để tăng cường đoàn kết quốc tế Ông cho rằng chủ nghĩa yêu nước cần gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đồng thời cần khai thác hiệu quả những thành tựu khoa học và kỹ thuật toàn cầu.
Phong cách tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh nổi bật ở việc không chỉ chỉ ra các nguồn phát triển của chủ nghĩa xã hội mà còn cảnh báo về những yếu tố kìm hãm sự phát triển này Ông nhấn mạnh rằng chủ nghĩa cá nhân là “bệnh mẹ” gây ra nhiều vấn đề khác như tham ô, lãng phí và coi đó là “giặc nội xâm.” Bên cạnh đó, Người cũng chỉ ra các căn bệnh như chia rẽ bè phái, mất đoàn kết, vô kỷ luật, chủ quan, bảo thủ và giáo điều, đều là những trở ngại lớn đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng nội lực là yếu tố quyết định nhất trong sự nghiệp xây dựng đất nước, trong khi ngoại lực cũng đóng vai trò quan trọng Ông khuyến khích tinh thần độc lập tự chủ, nhưng đồng thời cũng coi trọng việc hợp tác và nhận sự hỗ trợ từ quốc tế Sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh quốc tế là cần thiết để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo đảm quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, và cùng nhau phát triển trong hòa bình.
CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong chỉ đạo phát triển sản xuất Nông nghiệp
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế luôn gắn liền với các vấn đề chính trị - xã hội Người nhấn mạnh rằng tự do và độc lập không có ý nghĩa nếu người dân vẫn phải đối mặt với nạn đói và thiếu thốn Ngay sau khi giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân tích cực tăng gia sản xuất, quyết tâm xóa bỏ nạn dốt và nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng và Chính phủ trong việc đảm bảo đời sống nhân dân: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi”.
Nông nghiệp và nông dân giữ vai trò quan trọng trong tư tưởng kinh tế của Hồ Chí Minh Người nhấn mạnh tầm quan trọng của nông nghiệp trong một quốc gia nông nghiệp, đề xuất cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp Nông nghiệp không chỉ là mặt trận hàng đầu bảo đảm an ninh lương thực mà còn là nền tảng vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa và cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng phải bao gồm công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, ứng dụng khoa học và kỹ thuật tiên tiến Ông khẳng định rằng khi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển, sự bóc lột theo chủ nghĩa tư bản sẽ dần được xoá bỏ, từ đó nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cần được xây dựng trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất Trong thời kỳ quá độ, tồn tại bốn hình thức sở hữu chính: sở hữu Nhà nước là của toàn dân, sở hữu hợp tác xã là của tập thể nhân dân lao động, sở hữu của người lao động riêng lẻ, và một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản Kinh tế quốc doanh, với vai trò là hình thức sở hữu của toàn dân, lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước ưu tiên phát triển Hồ Chí Minh đã sớm đề xuất phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, khẳng định tính tất yếu của công nghiệp hoá Để đảm bảo đời sống sung sướng bền vững, công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa phải là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường dẫn đến ấm no cho nhân dân Vai trò của công nghiệp nặng được nhấn mạnh là yếu tố then chốt trong việc xây dựng thắng lợi xã hội chủ nghĩa, yêu cầu chúng ta phải quyết tâm phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp này.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của nghiên cứu và phổ biến khoa học kỹ thuật trong sản xuất Ông khẳng định rằng khoa học phải phát sinh từ sản xuất và quay trở lại phục vụ sản xuất, nhằm nâng cao năng suất lao động và cải thiện đời sống nhân dân Nhiệm vụ của khoa học và kỹ thuật là rất quan trọng, do đó, mọi ngành nghề và cá nhân đều cần tham gia vào công tác này.
Quản lý và hạch toán kinh tế là yếu tố then chốt cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân Như một doanh nghiệp, một quốc gia cũng cần phải có lãi để duy trì và phát triển Việc quản lý tại các xí nghiệp giúp xác định rõ ràng thu chi, từ đó đánh giá được hiệu quả làm việc của từng cá nhân và bộ phận, cũng như nhận diện những ai vượt chỉ tiêu hoặc không đạt yêu cầu.
Hồ Chí Minh đề xuất chính sách mở cửa và hợp tác với các nước để thu hút ngoại lực và phát huy nội lực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tầm quan trọng của chế độ khoán trong sản xuất, cho rằng đây là điều kiện cần thiết cho chủ nghĩa xã hội Ông khẳng định rằng chế độ làm khoán không chỉ thúc đẩy sự tiến bộ của công nhân mà còn mang lại lợi ích cho nhà máy Theo Người, việc thực hiện khoán một cách hợp lý và công bằng là rất cần thiết trong bối cảnh hiện tại của đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu hiện nay là phát triển sản xuất nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân Người chỉ thị cần thực hiện ngay các mục tiêu thiết yếu: đảm bảo dân có ăn, có mặc, có chỗ ở và được học hành.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của lợi ích cá nhân, nhưng luôn đặt trong bối cảnh hài hòa với lợi ích xã hội Ông nhận định rằng động lực từ lợi ích cá nhân là rất quan trọng, và kinh nghiệm của Đảng cho thấy, ở những nơi mà cán bộ giải quyết tốt lợi ích thiết yếu của nhân dân, cách mạng sẽ phát triển mạnh mẽ.
Theo Hồ Chí Minh, việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân bao gồm việc nâng cao ý thức cách mạng và độc lập dân tộc Điều này đòi hỏi sự kiên trì phấn đấu cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa, phát huy tinh thần yêu nước và truyền thống đoàn kết dân tộc Ông nhấn mạnh rằng ý thức tự lực tự cường và giá trị của độc lập, tự do là vô cùng quý báu đối với nhân dân.
Cần thực hiện công bằng xã hội để đảm bảo sự ổn định và yên tâm trong lòng dân Như một lời nhắc nhở, chúng ta không nên sợ thiếu thốn hay nghèo khó, mà điều đáng lo ngại là sự bất công Công bằng không đồng nghĩa với việc cào bằng hay áp dụng chủ nghĩa bình quân, mà phải duy trì động lực phát triển kinh tế – xã hội.
Phát triển dân trí và coi giáo dục là quốc sách là nhiệm vụ quan trọng Đảng và Nhà nước cần nắm vững khoa học và kỹ thuật, đồng thời mỗi đảng viên phải nỗ lực học tập văn hóa cũng như kiến thức khoa học và kỹ thuật Cán bộ cần có văn hóa làm nền tảng, và nông dân cũng phải được trang bị kiến thức văn hóa.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp toàn diện vào phát triển nông nghiệp Việt Nam hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong sự phát triển của đất nước, với câu nói: “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh.” Ông khẳng định rằng phát triển nông nghiệp một cách toàn diện là điều tất yếu khách quan, là nền tảng cho sự phát triển của các ngành kinh tế khác và tạo điều kiện cho công nghiệp hóa đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm hỏi nông dân Hợp tác xã Hùng Sơn (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) đang gặt lúa - Nguồn: tuyengiao.vn
Nội dung cốt lõi trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp toàn diện
Thứ nhất , đó là sự cân đối, hợp lý trong cơ cấu ngành nông nghiệp và với các ngành khác.
Sau Cách mạng tháng Tám, tại cuộc họp đầu tiên của ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc vào ngày 10-01-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ quan trọng là đảm bảo cuộc sống cho người dân, bao gồm việc cung cấp thực phẩm, quần áo, chỗ ở và giáo dục.
Nông nghiệp và công nghiệp được ví như hai chân của con người, thể hiện sự cần thiết và bổ trợ lẫn nhau trong nền kinh tế Giống như một người không thể thiếu một chân, nền kinh tế cũng không thể thiếu sự phát triển của nông nghiệp Sự kết hợp chặt chẽ giữa hai ngành này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an ninh lương thực.
Công nghiệp và nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế, giống như hai chân của con người; nếu một chân yếu, sự vững chắc sẽ bị ảnh hưởng Cần phải chú ý đến sự phát triển đồng bộ giữa hai lĩnh vực này, tránh tình trạng "khập khiễng" Để đảm bảo sự phát triển bền vững, các ngành như công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, văn hóa và giáo dục cần có sự cân đối và hỗ trợ lẫn nhau.
Việc phát triển sản xuất lương thực cần gắn bó chặt chẽ với các ngành sản xuất khác như thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, nhằm tạo ra sự thống nhất và cân đối cho nền kinh tế Để đảm bảo đời sống cho nhân dân, cần tập trung giải quyết vấn đề phát triển nông nghiệp, nhưng điều này phải diễn ra song song với sự phát triển của công nghiệp và thương nghiệp Do đó, phát triển nông nghiệp phải được đặt trong mối quan hệ tương hỗ với các ngành khác, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hợp lý của nền kinh tế.
Thứ hai , phát triển nông nghiệp toàn diện là giải pháp quan trọng để phát triển bản thân nền nông nghiệp.
Kinh tế nông nghiệp bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp, với sự phát triển đồng bộ của từng lĩnh vực này góp phần vào sự phát triển toàn diện của ngành Để đảm bảo sự phát triển cân đối, ngành nông nghiệp không chỉ cần mở rộng quy mô và diện tích mà còn phải nâng cao năng suất, sản lượng và điều chỉnh cơ cấu phù hợp với các loại cây trồng và ngành nghề khác.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền nông nghiệp toàn diện cần phát triển ngành trồng trọt, với cây lương thực là ưu tiên hàng đầu, đặc biệt là cây lúa Ông nhấn mạnh rằng sản xuất nông nghiệp phải toàn diện, bao gồm cả cây hoa màu như ngô, khoai, sắn phục vụ chăn nuôi Bên cạnh đó, cần chú trọng trồng cà phê, lạc, và vừng vì đây là những sản phẩm xuất khẩu có giá trị, giúp đổi lấy máy móc phục vụ sản xuất.
Người nhắc nhở rằng nông nghiệp cần phát triển một cách toàn diện, không chỉ tập trung vào các loại cây lương thực như gạo, ngô, khoai, sắn mà còn phải chú trọng đến các loại cây khác Tăng diện tích sản xuất mà không gia tăng sản lượng là điều vô ích Đồng thời, cần đảm bảo sự cân bằng trong việc chăm sóc các loại cây trồng, không chỉ chú trọng vào lúa mà còn phải quan tâm đến ngô, khoai, sắn và cả cây công nghiệp Sự thiếu chú ý đến một trong các loại cây trồng sẽ dẫn đến khuyết điểm trong phát triển nông nghiệp.
Ngành chăn nuôi cần phát triển song song với trồng trọt để đảm bảo nguồn thực phẩm và phân bón cho sản xuất nông nghiệp Cùng với đó, cần chú trọng đến lâm nghiệp và ngư nghiệp, bảo vệ rừng để khai thác nguồn lợi lớn từ cây rừng Đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số cần được cải thiện thông qua kế hoạch phát triển bền vững, tránh tình trạng khai thác bừa bãi Để nâng cao thu nhập cho nông dân, các hộ gia đình nông thôn nên phát triển nghề phụ bên cạnh nghề nông, tận dụng lao động và tăng thu nhập Việc trồng cây ăn quả và cây lấy gỗ cũng được khuyến khích để tăng cường nguồn lợi kinh tế cho mỗi gia đình Cuối cùng, để có năng suất nông nghiệp cao, cần chú ý đến việc nuôi trâu, bò, lợn để sản xuất phân bón cho cây trồng.
Nông nghiệp toàn diện không chỉ bao gồm sản xuất chính mà còn tích hợp các ngành nghề phụ và nghề truyền thống ở nông thôn Để đạt được sự phát triển bền vững, cần chú trọng vào việc phát triển các nghề phụ gia đình như mây tre đan, chạm khảm, và dệt Việc này không chỉ nâng cao đời sống người dân mà còn bảo tồn bản sắc văn hóa của các làng nghề truyền thống, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của ngành nông nghiệp.
Thứ ba , phát triển nông nghiệp toàn diện còn được thể hiện ở sự hợp lý trong trình tự phát triển và điều kiện phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng gia sản xuất lương thực, bao gồm cả lúa và màu, nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện Việc mở rộng ngành nghề ở nông thôn không chỉ giúp khai thác và tận dụng các yếu tố sản xuất, mà còn giải quyết việc làm và cải thiện đời sống người lao động Hơn nữa, nó còn góp phần bảo vệ và cải tạo môi trường sinh thái, đồng thời có ảnh hưởng tích cực đến tâm lý và thái độ của con người đối với thiên nhiên và xã hội.
Tăng gia và mở rộng sản xuất nông nghiệp cần phải phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương, bao gồm lợi thế về vị trí địa lý, thổ nhưỡng, thời tiết, cũng như trình độ phát triển của hệ thống máy móc và con người Việc phát triển nông nghiệp phải được thực hiện một cách toàn diện, tùy thuộc vào từng địa phương để đảm bảo sản xuất lương thực và thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp địa phương, thủ công nghiệp và nông nghiệp, cùng với sản xuất, chế biến, thương mại và giao thông để đạt được hiệu quả cao nhất trong phát triển kinh tế.
Để lãnh đạo hiệu quả, cần tuân theo đường lối chung nhưng phương pháp thực hiện phải linh hoạt, phù hợp với từng địa phương và hoàn cảnh cụ thể Việc áp dụng máy móc kinh nghiệm từ nơi này sang nơi khác, như cải cách ruộng đất ở miền đồng bằng cho miền biển, là không chính xác Hơn nữa, cần xem xét sự thay đổi theo mùa, vì có mùa người dân bận rộn hơn và có mùa họ lại rảnh rỗi hơn.
Sự phát triển toàn diện của nông nghiệp được ví như một “guồng máy” trong công xưởng, nơi các loại máy móc khác nhau cần được bố trí và kết hợp hài hòa để đạt hiệu quả sản xuất tốt nhất Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc tổ chức và liên kết các yếu tố trong nông nghiệp để thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, cần có sự liên kết chặt chẽ giữa các khâu từ chọn giống đến thu hoạch Việc tăng vụ và mở rộng diện tích canh tác là điều cần thiết, tuy nhiên, để thực hiện được điều này, cần cải tiến nông cụ và kỹ thuật canh tác Để đạt được năng suất cao, cần phải chăm sóc ruộng đất bằng cách bón phân đầy đủ và phát triển chăn nuôi, từ đó tạo ra nguồn thức ăn cho gia súc Ba yếu tố quan trọng mà nông nghiệp cần chú trọng là sự đồng bộ trong quy trình sản xuất, cải tiến công nghệ và phát triển bền vững.
Thiên thời - Mùa nào thì cần phải làm việc gì, nhất là phải làm kịp thời vụ. Địa lợi - Đất nào phải trồng th~ gì cho thích hợp.
Nhân hòa trong nông nghiệp là yếu tố quan trọng, với sự đa dạng về sức khỏe và kỹ năng của xã viên, yêu cầu phân phối công việc hợp lý để mọi người đều có cơ hội lao động Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lập kế hoạch trong nông nghiệp, cần chủ động và có tầm nhìn xa, đồng thời chú trọng vào việc thực hiện các công việc một cách cẩn thận và liên tục Lãnh đạo và kế hoạch cần phải phù hợp với thực tế từng vùng, tránh rập khuôn và nóng vội trong việc áp dụng chính sách, nhằm đảm bảo sự phát triển nông nghiệp toàn diện.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển nông nghiệp Việt Nam hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp toàn diện được Đảng ta vận dụng sáng tạo trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Tại Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn nhằm tăng nhanh khối lượng và tỷ suất hàng hóa nông sản Cần ưu tiên đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật, vật tư và lao động kỹ thuật, đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn đầu tư Đầu tư cho nông nghiệp cần đồng bộ từ sản xuất đến chế biến, vận chuyển và bảo quản để gia tăng sản phẩm cuối cùng Phương châm phát triển nông nghiệp là kết hợp chuyên môn hóa với phát triển toàn diện, đồng thời chú trọng phát triển cây công nghiệp ngắn ngày Để phát triển nông nghiệp bền vững, cần tập trung vào thâm canh, tăng vụ và mở rộng diện tích một cách hiệu quả.
Nghị quyết số 26/NQ-TW của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 khóa X, ngày 05-8-2008, đã nhấn mạnh vai trò chiến lược của nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội bền vững và đảm bảo an ninh - quốc phòng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định hướng phát triển nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện, gắn với việc cải thiện đời sống nông dân và nông thôn, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển nông nghiệp hiện đại, hiệu quả và bền vững, tận dụng lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới Tiếp tục, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII khẳng định chủ trương phát huy lợi thế của ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn.
Ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp không chỉ nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và tăng giá trị gia tăng Việc đẩy mạnh xuất khẩu và cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững là cần thiết để phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp Đặc biệt, việc áp dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học và công nghệ thông tin, vào sản xuất và quản lý nông nghiệp sẽ thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, từ đó tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả cạnh tranh Điều này không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân.
Sau hơn 30 năm đổi mới và hội nhập, nông nghiệp Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, nâng cao đời sống nông dân và cải thiện diện mạo nông thôn Tuy nhiên, ngành nông nghiệp vẫn gặp phải những hạn chế như năng suất lao động thấp, thiếu quy hoạch dài hạn, giá trị gia tăng chưa cao, quy mô sản xuất nhỏ và phân tán, trình độ lao động còn hạn chế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, đầu tư giảm, và sự phát triển khoa học - công nghệ còn chậm.
Để áp dụng các nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp toàn diện vào bối cảnh hiện nay, cần tập trung giải quyết những vấn đề quan trọng như nâng cao năng suất cây trồng, cải thiện đời sống nông dân, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững Đồng thời, cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận các nguồn lực và thị trường, nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế nông thôn.
Cần rà soát và điều chỉnh chiến lược quy hoạch các ngành, lĩnh vực và sản phẩm để phát huy tiềm năng quốc gia, vùng và địa phương Việc lựa chọn vùng trồng cây lương thực và cây công nghiệp với năng suất cao và giá trị gia tăng lớn là cần thiết Thực tế cho thấy, nhiều sản phẩm nông nghiệp như cà-phê, cao-su và hồ tiêu đã sản xuất vượt xa chỉ tiêu quy hoạch, cho thấy chất lượng quy hoạch chưa phù hợp và dự báo trong quy hoạch còn thiếu chính xác.
Phát triển công nghiệp hỗ trợ nông nghiệp là yếu tố quan trọng để gắn kết hai lĩnh vực này, trong đó công nghiệp cần phục vụ cho nông nghiệp Việc đa dạng hóa ngành nghề ở nông thôn không chỉ giúp công nghiệp hóa nông nghiệp và phát triển công nghiệp chế biến, mà còn giải quyết vấn đề thừa lao động trong nông nghiệp Điều này sẽ nâng cao giá trị gia tăng cho ngành nông nghiệp và cải thiện đời sống của người dân.
Việc hình thành các vùng sản xuất tập trung và chuyên canh quy mô lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng khoa học - công nghệ, đồng thời phát huy lợi thế từ quy mô Điều này giúp tập trung vào các nhóm sản phẩm chủ lực của quốc gia, vùng và địa phương, đồng thời đa dạng hóa các hình thức liên kết Qua đó, việc xây dựng thương hiệu sẽ gắn liền với nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, đáp ứng kịp thời sự thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng.
NHỮNG THÀNH TỰU VIỆT NAM ĐẠT ĐƯỢC TRONG PHÁT TRIỂN, SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
Phát triển, sản xuất Nông Nghiệp trong tình hình kinh tế - xã hội hiện nay
Giai đoạn 2011 – 2016, ngành Nông nghiệp Việt Nam ghi nhận tốc độ tăng trưởng không ổn định, giảm từ 4,02% vào năm 2011 xuống chỉ còn 1,36% vào năm 2016, mức thấp nhất trong lịch sử.
Ngành Nông nghiệp đã chứng kiến sự suy giảm nhanh chóng trong mức độ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế Đến năm 2016, tỷ lệ đóng góp chỉ còn 0,22%, giảm hơn 50% so với năm 2015 và hơn 3 lần so với năm 2011 Mức đóng góp vào tăng trưởng kinh tế ở mức 3,5% trong năm 2016, giảm 60% so với năm 2015.
Tốc độ tăng trưởng của ngành Nông nghiệp đã giảm xuống mức thấp kỷ lục trong 30 năm qua, chỉ đạt 6,21% vào năm 2016, không đạt mục tiêu 6,7% Sự suy giảm này đã ảnh hưởng tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế Nguyên nhân của tình trạng này cần được xác định để có giải pháp khắc phục hiệu quả.
Dòng vốn đầu tư vào ngành nông nghiệp tại Việt Nam hiện đang ở mức thấp, không đáp ứng yêu cầu phát triển Từ năm 2011 đến 2016, nguồn vốn ngân sách chỉ chiếm khoảng 6% tổng vốn đầu tư xã hội, trong khi vốn ODA lũy kế gần 6 tỷ USD chỉ chiếm 7% tổng vốn ODA vào Việt Nam Vốn FDI tích lũy gần 4 tỷ USD, tương đương 1,5% tổng vốn FDI Hơn nữa, tài chính vi mô cho ngành nông nghiệp chỉ chiếm hơn 4% GDP Hiệu quả đầu tư chỉ đáp ứng khoảng 60% nhu cầu, không tương xứng với đóng góp của sản xuất nông nghiệp cho nền kinh tế Các cơ chế và chính sách thu hút vốn cho nông thôn vẫn chưa thực sự năng động và phù hợp.
Thiên tai và biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành nông nghiệp Việt Nam, với sản xuất lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long giảm mạnh vào năm 2016 do hạn hán và xâm nhập mặn, gây thiệt hại khoảng 15.000 tỷ đồng Nhiều nông dân buộc phải rời bỏ ruộng đất để tìm kiếm việc làm tại các đô thị Đồng thời, thị trường thủy sản cũng gặp khó khăn khi một số thị trường lớn giảm nhu cầu nhập khẩu và đưa ra cảnh báo về chất lượng hải sản từ Việt Nam.
Mô hình sản xuất nông nghiệp hiện nay chủ yếu vẫn ở quy mô nhỏ và phân tán, với gần 80% tổng diện tích đất tự nhiên của cả nước được sử dụng cho ngành này Dù có sự thay đổi mạnh mẽ trong cơ cấu đất nông nghiệp, quy mô đất nông nghiệp vẫn nhỏ bé, với gần 70% hộ sử dụng ruộng dưới 0,5 ha và chỉ 6% hộ sở hữu trên 2 ha Công tác dồn điền đổi thửa ở nhiều địa phương vẫn gặp nhiều khó khăn.
Theo số liệu từ Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, năm 2016, cả nước có 30.000 trang trại với giá trị sản xuất hàng hóa bình quân chỉ khoảng 2 tỷ đồng/trang trại Số lượng doanh nghiệp tham gia đầu tư vào lĩnh vực này chỉ khoảng 4.000, chiếm chưa tới 1% tổng số doanh nghiệp cả nước, trong đó 90% là doanh nghiệp quy mô nhỏ và rất nhỏ Bên cạnh đó, có khoảng 12.000 hợp tác xã và 56.000 tổ hợp tác đang hoạt động, cho thấy rằng nhân tố chủ chốt trong tổ chức sản xuất nông nghiệp vẫn còn rất hạn chế.
Lực lượng lao động trong ngành Nông nghiệp hiện nay rất đông, nhưng trình độ chuyên môn vẫn còn thấp Theo Báo cáo Điều tra lao động việc làm, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên có bằng cấp hoặc chứng chỉ nghề trong ngành này chỉ đạt 2,7% vào năm 2011, và mặc dù đã tăng lên gần 4,5% vào năm 2016, nhưng điều này vẫn là một yếu tố cản trở tốc độ tăng trưởng của ngành Nông nghiệp.
Báo cáo tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH năm 2020 và 5 năm 2016-2020; dự kiến kế hoạch năm 2021 và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2021- 2025.
Năm 2019, ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) đã đạt nhiều thành tựu nổi bật, đặc biệt trong giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản, số xã đạt chuẩn nông thôn mới và tỷ lệ che phủ rừng Những thành tựu này sẽ tạo điều kiện và động lực để ngành tiếp tục hoàn thành các nhiệm vụ mới trong năm 2020.
Năm 2020, ngành nông nghiệp phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP đạt từ 2,8
Một năm gặt hái nhiều thành tựu.
Năm 2019, ngành sản xuất nông nghiệp đối mặt với nhiều thách thức lớn về năng suất, chất lượng và hiệu quả, trong bối cảnh sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp Ngành nông nghiệp bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dịch tả lợn châu Phi, lan rộng ra 63 tỉnh, thành phố, gây thiệt hại lớn cho chăn nuôi Thời tiết bất lợi, bao gồm hạn hán, lũ lụt và cháy rừng, đã xảy ra ở nhiều khu vực như Tây Nguyên và Bắc, Nam Trung Bộ Thêm vào đó, thị trường nông sản không ổn định, giá cả giảm mạnh và bị tác động bởi chiến tranh thương mại giữa các quốc gia lớn, đặc biệt là với các mặt hàng nông sản chủ lực xuất khẩu vào Trung Quốc, nơi có quy định và yêu cầu ngày càng khắt khe hơn.
Trong bối cảnh hiện tại, toàn ngành nông nghiệp đã nỗ lực vượt qua khó khăn và thách thức, triển khai các giải pháp đồng bộ và linh hoạt nhằm cơ cấu lại và đổi mới mô hình tăng trưởng Việc khuyến khích đổi mới sáng tạo và chủ động ứng dụng khoa học công nghệ là cần thiết để tạo ra giá trị gia tăng và nâng cao sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường quốc tế.
Năm 2019, ngành nông lâm thủy sản đã đạt nhiều thành tựu nổi bật, hoàn thành và vượt 3/4 chỉ tiêu đề ra Kim ngạch xuất khẩu đạt 41,3 tỷ USD, tỷ lệ che phủ rừng đạt 41,85%, và 54% số xã đã hoàn thành tiêu chí nông thôn mới, với 111 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn trong xây dựng nông thôn mới.
Năm 2019, thị trường xuất khẩu nông sản nổi bật với tổng kim ngạch đạt 41,3 tỷ USD, tăng 3,2% so với năm 2018, mặc dù giá nông sản giảm từ 10-15% Thặng dư thương mại toàn ngành đạt kỷ lục 10,4 tỷ USD, tăng 19,3% so với năm trước Ngành nông lâm thủy sản tiếp tục duy trì 8 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1,0 tỷ USD.
Trong năm qua, Bộ NN&PTNT đã nỗ lực đàm phán để mở rộng xuất khẩu các loại trái cây tươi giá trị cao sang các thị trường như Mỹ, Úc, Nhật Bản và Trung Quốc Đồng thời, Bộ cũng thúc đẩy xuất khẩu thịt gà chế biến sang Nhật Bản, lợn sữa sang Malaysia và Hồng Kông, cũng như mật ong sang EU và Hoa Kỳ Đặc biệt, lô sữa đầu tiên đã được xuất khẩu sang Trung Quốc vào tháng 10/2019.
Mỹ đã công nhận tương đương đối với cá da trơn Việt Nam, trong khi Trung Quốc chấp thuận nhập khẩu 48 loài thủy sản sống và 128 sản phẩm thủy sản chế biến từ Việt Nam Trong lĩnh vực lâm nghiệp, việc thực hiện Hiệp định VPA/FLEGT và tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã tạo ra nhiều cơ hội cho ngành chế biến và xuất khẩu gỗ, với giá trị sản xuất lâm nghiệp tăng 8%, vượt kế hoạch đề ra là 6%.
Tác động của phát triển Nông nghiệp đối với đời sống của nhân dân
Việt Nam, với nền kinh tế nông nghiệp chủ đạo, đã từng bước nâng cao chất lượng đời sống và đạt được nhiều thành tựu đáng kể Tuy nhiên, đất nước vẫn phải đối mặt với thách thức đói nghèo, đặc biệt là ở các vùng Đông Bắc và Tây Bắc, nơi tỷ lệ hộ nghèo vẫn cao Năm 1999, tỷ lệ hộ nghèo ở Đông Bắc và Tây Bắc lần lượt là 40,63% và 40,7%, so với 40,34% ở Bắc Trung Bộ, cho thấy sự chênh lệch trong phát triển kinh tế giữa các khu vực Mặc dù mức sống của người dân đã cải thiện và tỷ lệ hộ nghèo giảm, nhưng vẫn cần nhiều nỗ lực để thu hẹp khoảng cách giữa các vùng.
Bảng 2.1: Tỷ lệ hộ nghèo năm 1999 phân theo thành thị, nông thôn và phân theo vùng. Đơn vị: %
Chung Chia ra Đồng bằng sông
Nghèo lương thực, thực phẩm 7.55 3.94 8.65 Đồng Bắc và Tây
Nghèo lương thực, thực phẩm 17.07 5.51 19.77
Nghèo lương thực, thực phẩm 19.29 8.82 21.48
Nghèo lương thực, thực phẩm
Nghèo lương thực, thực phẩm
Nghèo lương thực, thực phẩm
Nghèo lương thực, thực phẩm
(*): Bao gồm nghèo lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm.
Theo Tổng cục Thống kê năm 2000, nhiều xã ở miền núi phía Bắc, đặc biệt là tỉnh Hà Giang, có tỷ lệ hộ nghèo vượt quá 40%, với 53 xã ghi nhận tình trạng này Điều này phản ánh mức độ đói nghèo nghiêm trọng và cho thấy rằng việc xóa đói giảm nghèo tại khu vực này sẽ gặp nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt là đối với những hộ nghèo còn lại có tình trạng đói nghèo trầm trọng hơn.
Bảng 2.2: Số xã có tỷ lệ hộ nghèo trên 40% ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Đơn vị: xã
Tỉnh Số xã có tỷ lệ hộ nghèo trên
Nguồn: Bộ Lao Động Thương binh và Xã hội, 2004
Để nâng cao hiệu quả phát triển nông nghiệp và tăng thu nhập cho người nông dân, ngành nông nghiệp Hà Giang đang nỗ lực tạo ra những đột phá nhằm phát triển bền vững, dựa trên tiềm năng và thế mạnh của địa phương.
Phát triển chăn nuôi bò hàng hóa là một trong những thế mạnh của 4 huyện cao nguyên đá (ảnh: Một góc phiên chợ bò huyện Mèo Vạc, Hà Giang)
Ngành nông nghiệp Hà Giang đang thực hiện Đề án Tái cơ cấu gắn với xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 và Chương trình phát triển cây dược liệu nhằm xóa đói giảm nghèo tại 6 huyện 30a Để tạo ra các sản phẩm nông nghiệp an toàn và mang tính thương hiệu, tỉnh đã khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương, chuyển hướng sản xuất từ chiều rộng sang chiều sâu, đồng thời đầu tư có trọng tâm, trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất theo hướng hàng hóa.
Trong những năm qua, Hà Giang đã chú trọng phát triển nông nghiệp bền vững với việc mở rộng diện tích cây trồng chủ lực theo tiêu chuẩn VietGAP và chăn nuôi an toàn Đến cuối tháng 3/2019, tỉnh đã có hơn 3.527 ha cam Sành, 7.153 ha chè và hàng nghìn ha rau đạt tiêu chuẩn VietGAP, cùng với 1.920 ha chè hữu cơ, gần 900 ha cây dược liệu và 28.400 đàn ong phát triển Nhiều mô hình nông nghiệp liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân đã được triển khai, như mô hình dồn điền đổi thửa tại Bắc Quang, trồng mía tại Vị Xuyên, sản xuất mạ khay kết hợp máy cấy tại Quang Bình và trồng dưa tại Vị Xuyên, Bắc Quang.
Trong những năm qua, tỉnh Hà Giang đã triển khai nhiều chính sách nhằm khai thác tiềm năng của các địa phương, khuyến khích người dân, hợp tác xã và doanh nghiệp phát triển chăn nuôi bò hàng hóa và nuôi ong mật Bạc hà tại 4 huyện Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh và Quản Bạ Đồng thời, tỉnh cũng hỗ trợ người dân tại hai huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần mở rộng phát triển đàn trâu và đàn dê theo hướng hàng hóa Nghị quyết số 209/2015NQ - HĐND ngày 10.12.2015 của Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang đã nhấn mạnh chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp giai đoạn 2016 – 2020 tập trung phát triển các cây trồng và vật nuôi thế mạnh như cam, chè, cây dược liệu, đồng thời đẩy mạnh chăn nuôi trâu, bò và ong theo hướng hàng hóa.
UBND tỉnh Hà Giang đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tiến hành phục hồi, cải tạo và mở rộng quy mô sản xuất các giống cây trồng và vật nuôi đặc sản địa phương Những sản phẩm nổi bật bao gồm gà xương đen của đồng bào dân tộc Mông tại Cao nguyên đá Đồng Văn, ngô nếp núi đá huyện Yên Minh, gạo Khẩu Mang huyện Đồng Văn, gạo Già Dui huyện Xín Mần, và hồng không hạt huyện Quản Bạ.
Tỉnh Hà Giang đang khai thác tiềm năng nông nghiệp thông qua việc đầu tư cơ giới hóa từ khâu làm đất đến thu hoạch và chế biến Đồng thời, tỉnh cũng chú trọng xây dựng thương hiệu và chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm đặc trưng như Mật ong Bạc hà, Cam sành và chè Shan tuyết Hà Giang tiếp tục phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp, chuyển đổi mô hình hợp tác xã theo Luật HTX năm 2012, và duy trì hoạt động của hơn 1.250 Tổ Hợp tác để tổ chức sản xuất cho nông dân Ngoài ra, UBND tỉnh cũng kêu gọi doanh nghiệp đầu tư và liên kết mở rộng sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp đặc thù.
Thành phố Hà Giang tạo đà phát triển nông nghiệp bền vững
BHG - Mặc dù nông nghiệp không phải là ngành kinh tế chủ lực của thành phố Hà Giang, nhưng chính quyền địa phương đã chú trọng vào việc tái cơ cấu ngành này Điều này đã tạo điều kiện cho kinh tế nông nghiệp phát triển bền vững, đặc biệt tại ba xã ngoại thành: Phương Độ, Phương Thiện và Ngọc Đường.
Chủ trương TCC ngành NN của thành phố nhằm cụ thể hóa Đề án TCC ngành NN của tỉnh giai đoạn 2016 – 2020 Để triển khai hiệu quả, UBND thành phố đã thành lập Ban Chỉ đạo Đề án và hướng dẫn các xã ngoại thành lập Ban Chỉ đạo cấp xã Nhiều nội dung quan trọng trong TCC ngành NN đã được xác định, bao gồm phát triển chăn nuôi đại gia súc, ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm sản, cũng như phát triển các sản phẩm nông nghiệp.
Sản phẩm làng nghề NN phục vụ du lịch, góp phần tạo ra vành đai thực phẩm an toàn và chất lượng Đồng thời, xã Ngọc Đường được xây dựng trở thành điển hình và kiểu mẫu trong phát triển kinh tế nông nghiệp.
Sản xuất rau, quả hữu cơ tại Công ty TNHH ALANDA giúp nhiều nông dân xã Phương Thiện có thu nhập bình quân 3,5 triệu đồng/người/tháng.
Từ năm 2016 đến nay, thành phố đã đạt được nhiều kết quả nổi bật trong phát triển nông nghiệp bền vững nhờ tinh thần quyết liệt thực hiện chính sách thu hút đầu tư Công ty TNHH ALANDA (Hà Nội) là đơn vị đầu tiên đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực nông nghiệp, nổi bật với việc sản xuất rau hữu cơ trên diện tích 4,2 ha tại thôn Tiến Thắng Năm 2018, công ty đã liên kết với 20 hộ dân để trồng 0,7 ha măng tây, hỗ trợ kỹ thuật sản xuất và bao tiêu sản phẩm Chị Nguyễn Thị Hoa, một lao động tại công ty, cho biết doanh nghiệp không chỉ tạo việc làm cho 7 lao động địa phương với thu nhập bình quân 3,5 triệu đồng/người/tháng mà còn giúp họ tiếp cận phương pháp sản xuất rau quả hiện đại, như trồng trong nhà lưới và ứng dụng công nghệ tưới tự động, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế.
Cùng với Công ty TNHH ALANDA, thành phố đã thu hút 4 doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp với tổng vốn 17,7 tỷ đồng, nhằm xây dựng cơ sở giết mổ gia súc tập trung và phát triển các sản phẩm chè mang thương hiệu nổi tiếng Thành phố cũng chú trọng tổ chức sản xuất cho nông dân theo hướng kinh tế tập thể, hiện có 30 hợp tác xã với tổng vốn gần 15,8 tỷ đồng, tạo thu nhập bình quân từ 2,5 – 3,5 triệu đồng/thành viên/tháng Nhiều hợp tác xã đã trở thành điển hình trong sản xuất hiệu quả, như HTX sản xuất nông, lâm nghiệp và dịch vụ tổng hợp thôn Khuổi My Dự án Vành đai thực phẩm an toàn đã nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp, tạo ra vùng sản xuất hàng hóa an toàn với quy mô lên đến 115 ha, sản lượng đạt 25 – 30 tấn/ha/năm và giá trị thu nhập trên 120 triệu đồng/ha/năm Cùng với đó, 8 trang trại và 72 gia trại chăn nuôi đã mang lại doanh thu hàng trăm đến hàng tỷ đồng, đồng thời nhiều khâu trong trồng trọt, chăn nuôi được cơ giới hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế với 610 máy làm đất và 1.935 máy.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, thành phố đã đầu tư vào 1,387 máy phục vụ cho khâu thu hoạch, nâng cao tỷ lệ cơ giới hóa trong các công đoạn làm đất, tưới nhỏ giọt, cắt, gặt và vận chuyển đạt từ 14,6% đến 82% Bên cạnh đó, thành phố cũng sở hữu 365 máy nông nghiệp chuyên dùng cho việc chế biến thực phẩm thô.
6 chuồng trại đầu tư hệ thống máng ăn; 190 hệ thống kỹ thuật xử lý chất thải trong chăn nuôi.
Không dừng ở kết quả trên, thành phố còn xây dựng 3 thôn điển hình về phát triển kinh tế, gồm: Tân Tiến (xã Phương Độ), Tiến Thắng (xã Phương Thiện),
Tà Vải, thuộc xã Ngọc Đường, nổi bật với các mô hình sản xuất nông nghiệp tiên tiến, bao gồm liên kết với doanh nghiệp để sản xuất rau công nghệ mới và trồng măng tây Ngoài ra, địa phương còn duy trì và phát triển chăn nuôi lợn, gia cầm và thủy cầm theo quy mô gia trại và trang trại, cùng với việc sản xuất rau VietGAP, mang lại doanh thu hàng tỷ đồng cho mỗi thôn mỗi năm Những chủ trương xây dựng Ngọc Đường thành điển hình phát triển kinh tế đã tạo ra nhiều kết quả ấn tượng trong thời gian qua.