1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

thơ trần nhân tông với những nét riêng

167 22 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Trần Nhân Tông Và Mấy Vấn Đề Nổi Bật Của Văn Học Thời Trần
Tác giả Trần Thị Mỹ Hòa
Trường học Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2008
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 167
Dung lượng 121,11 KB

Cấu trúc

  • TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HỌC

  • PHẦN MỞ ĐẦU

    • 1. Lý do chọn đề tài

    • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.

    • 3. Mục đích, ý nghĩa của đề tài

    • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

    • 5. Phương pháp nghiên cứu

    • 6. Cấu trúc đề tài

    • CHƯƠNG MỘT

    • 1.1. Ông hoàng Trần Nhân Tông

      • 1.1.1. Trần Nhân Tông và hai cuộc chiến tranh vệ quốc

      • 1.1.2. Vua Trần Nhân Tông và sự nghiệp xây dựng hòa bình thời hậu chiến

    • 1.2. Trần Nhân Tông − vị giáo chủ

    • 1.3. Trần Nhân Tông − triết gia lớn

      • 1.3.1. Thế giới quan của Trần Nhân Tông

      • 1.3.2. Nhân sinh quan của Trần Nhân Tông

    • 1.4. Trần Nhân Tông – thi sĩ trác tuyệt

    • Tiểu kết

      • CHƯƠNG HAI

  • TRẦN NHÂN TÔNG

    • 2.1. Cảm hứng Cư trần lạc đạo trong sáng tác của Trần Nhân Tông

      • 2.1.1. Khái lược cảm hứng thiền nhập thế trong văn học đời Trần

      • 2.1.2. Cảm hứng Cư trần lạc đạo trong sáng tác của Trần Nhân Tông

    • 2.2. Cảm hứng dân tộc trong sáng tác của Trần Nhân Tông

      • 2.2.1. Khái lược cảm hứng dân tộc trong văn học thời Trần

      • 2.2.2. Cảm hứng dân tộc trong sáng tác của Trần Nhân Tông

    • Tiểu kết

      • CHƯƠNG BA

  • TRẦN NHÂN TÔNG

    • 3.1. Hình tượng thiền sư cầu giải thoát

      • 3.1.1. Khái lược hình tượng thiền sư cầu giải thoát trong văn học thiền đời Trần

      • 3.1.2. Hình tượng thiền sư cầu giải thoát trong sáng tác của Trần Nhân Tông

    • 3.2. Hình tượng thiên nhiên trong sáng tác của Trần Nhân Tông

      • 3.2.1. Khái lược vai trò của thiên nhiên đối với thiền gia và hình tượng thiên nhiên trong văn học thiền thời Trần

      • 3.2.2. Hình tượng thiên nhiên trong sáng tác của Trần Nhân Tông

    • Tiểu kết

      • CHƯƠNG BỐN

  • DÒNG VĂN HỌC NÔM VIỆT NAM

    • 4.1. Chữ Nôm và văn Nôm trước Trần Nhân Tông

    • Tiểu kết

  • KẾT LUẬN

    • Thư mục tài liệu tham khảo

      • Sách

      • Tạp chí

Nội dung

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trần Nhân Tông, một nhân vật lịch sử quan trọng của dân tộc, đã được ca ngợi và nghiên cứu suốt gần bảy thế kỷ Các bộ sử lớn như Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi nhận những đóng góp và ảnh hưởng của ông đối với lịch sử Việt Nam.

Ngô Sỹ Liên, trong tác phẩm "Lịch triều hiến chương loại chí," cùng với các gia phả họ Trần, đã ghi chép về Trần Nhân Tông, một nhân vật quan trọng trong lịch sử văn học và Phật giáo Việt Nam Các tác phẩm của ông được sưu tập trong nhiều công trình như "Việt âm thi tập," "Toàn Việt thi lục," và gần đây là "Thơ văn Lý - Trần" của Viện văn học Mặc dù có nhiều tài liệu viết về Trần Nhân Tông, nhưng chúng chỉ phản ánh một phần sự nghiệp và con người của ông Giới sử học thường chỉ biết đến Trần Nhân Tông như một vị vua, trong khi giới Phật giáo lại nhìn nhận ông như một vị Bụt Sự đối chiếu giữa các tư liệu như "Đại Việt sử ký toàn thư" và "Tam tổ thực lục" cho thấy sự phân chia này, với một bên tập trung vào hoạt động chính trị và một bên chú trọng đến hoạt động tôn giáo của Trần Nhân Tông.

Các tác giả nghiên cứu nổi bật về Trần Nhân Tông bao gồm Phạm Ngọc Lan, Đoàn Thị Thu Vân, Trần Thị Băng Thanh, Nguyễn Huệ Chi và Trần Nghĩa Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu của họ chủ yếu tồn tại dưới dạng bài viết, trong đó chỉ một số ít trực tiếp đề cập đến Trần Nhân Tông Các bài viết này thường chỉ nhắc đến ông khi thảo luận về các khía cạnh của văn học thời Lý - Trần và được đăng rải rác trên các tạp chí như Tạp chí Văn học, Tạp chí Hán Nôm và Tạp chí Nghiên cứu lịch sử Gần đây, cuốn Toàn tập Trần Nhân đã được xuất bản, đánh dấu một bước tiến trong việc nghiên cứu về nhân vật lịch sử quan trọng này.

Cuốn sách của tác giả Lê Mạnh Thát nghiên cứu toàn diện sự nghiệp chính trị, văn học và tôn giáo của Trần Nhân Tông, đồng thời giới thiệu các sáng tác của ông Tuy nhiên, trong phần thơ văn, tác giả chỉ dừng lại ở việc nêu lịch sử nghiên cứu và vấn đề văn bản mà chưa đi sâu vào đánh giá cụ thể Tương tự, tác giả Đỗ Thanh Dương trong cuốn "Trần Nhân Tông – Nhân cách văn hoá lỗi lạc" cũng chỉ phân chia các chủ đề trong thơ chữ Hán của Trần Nhân Tông mà không đề cập đến các bộ phận khác Các tác giả như Nguyễn Phạm Hùng, Nguyễn Hùng Hậu, Trương Văn Chung, và Nguyễn Duy Hinh đã viết nhiều về Trần Nhân Tông, nhưng chủ yếu dưới hình thức gián tiếp trong bối cảnh nghiên cứu văn học giai đoạn Lý - Trần hoặc dòng thiền Trúc Lâm.

Trong nghiên cứu hiện đại, Trần Nhân Tông được xem xét từ góc độ một vị vua có vai trò quan trọng trong các vấn đề kinh tế, chính trị và văn hóa thời Trần, cũng như trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông, dẫn đến thắng lợi của dân tộc Đại Việt Các tác phẩm như "Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII" của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm, cùng với "Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần" đã đóng góp đáng kể vào việc phân tích và hiểu rõ hơn về vai trò của ông trong bối cảnh lịch sử này.

Giáo trình lịch sử Việt Nam Cổ đại, Các triều đại Việt Nam

Các tác giả như Nguyễn Lang, Nguyễn Duy Hinh, Minh Chi, Tạ Ngọc Liên cùng với các nhân vật trong giới xuất gia như Hoà thượng Thích Thanh Từ và Thượng tọa Thích Quảng Liên đã nghiên cứu về Trần Nhân Tông, vị vua xuất gia và người sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm Cuốn "Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm" của Nguyễn Hùng Hậu và "Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần" của Trương Văn Chung tập trung vào tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông và Thiền phái Trúc Lâm.

Vào tháng 10 năm 2004, tại chùa Hoa Yên, Yên Tử, đã diễn ra cuộc hội thảo mang tên “Trần Nhân Tông với truyền thống văn hóa, đạo đức, trí tuệ dân tộc”, quy tụ nhiều nhà nghiên cứu Văn - Sử - Triết, nhà văn, nhà báo và các Hoà thượng Các tham luận tại hội thảo tập trung đánh giá sự nghiệp của Trần Nhân Tông từ ba phương diện: văn hóa, đạo đức và trí tuệ, và sau đó được biên soạn thành cuốn sách mang tên Trần Nhân.

Tông − vị vua Phật Việt Nam.

Lễ kỷ niệm 700 năm ngày mất của vua Trần Nhân Tông sẽ diễn ra với hội thảo khoa học quy tụ gần 200 đại biểu và 90 tham luận từ các giáo sư, tiến sĩ, nhà nghiên cứu và học giả đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan và Việt Nam.

Trần Nhân Tông được công nhận là một nhân vật quan trọng trong lịch sử dân tộc, nhưng nghiên cứu về sự nghiệp văn học của ông vẫn chưa được chú trọng đúng mức Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu lớn về ông, nhưng việc phân tích tác phẩm của Trần Nhân Tông trong bối cảnh văn học đương thời còn hạn chế Các tác giả thường thiếu cái nhìn toàn diện, khi nghiên cứu tác phẩm của ông, giới văn học chủ yếu tập trung vào cái đẹp mà chưa khai thác sâu về thế giới quan Phật giáo Ngược lại, giới nghiên cứu Phật giáo lại chú trọng vào triết lý thiền trong tác phẩm mà chưa đánh giá đúng giá trị văn học của các tác phẩm này.

Việc nghiên cứu sự nghiệp văn học của Trần Nhân Tông là rất quan trọng để làm rõ những đặc trưng nổi bật của thời đại văn học nhà Trần Qua đó, chúng ta có thể đánh giá chính xác hơn những đóng góp của ông cho nền văn học dân tộc.

Mục đích, ý nghĩa của đề tài

Nghiên cứu đặc điểm nổi bật trong sáng tác của Trần Nhân Tông sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về văn học thời Trần qua một cá nhân tiêu biểu Bài viết này nhằm cung cấp một cách tiếp cận từ điểm đến diện, từ Trần Nhân Tông để khắc họa “khuôn mặt” của cả một thời đại văn học Tác giả hy vọng luận văn này sẽ góp phần bổ sung vào các vấn đề nghiên cứu mà hiện nay vẫn còn ít người khai thác sâu.

Phương pháp nghiên cứu

Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp như:

Phương pháp thống kê và phân loại đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức và phân tích hệ thống tác phẩm Qua việc thống kê, chúng ta có thể phân loại từ vựng được sử dụng trong tác phẩm, cũng như xác định các hệ thống hình tượng chủ yếu Điều này giúp làm rõ cấu trúc và nội dung của tác phẩm, từ đó nâng cao hiểu biết về nghệ thuật và ngôn ngữ trong sáng tác.

Phương pháp nghiên cứu lịch đại giúp chúng ta tiếp cận vấn đề trong bối cảnh lịch sử, từ đó đưa ra các luận giải và khám phá nguồn gốc, căn nguyên của các hiện tượng và vấn đề.

Phương pháp phân tích, so sánh và tổng hợp được áp dụng để xem xét các thành tựu và tác phẩm, đồng thời so sánh giữa các tác phẩm, tác gia và thời đại Qua đó, chúng tôi tổng hợp các vấn đề nhằm khái quát hiện tượng và đưa ra những kết luận sâu sắc.

Trong suốt luận văn, các phương pháp được áp dụng đồng thời và kết hợp thường xuyên nhằm tìm kiếm những góc nhìn toàn diện, đồng thời đảm bảo tính chính xác cho các nhận định được đưa ra.

Cấu trúc đề tài

Ông hoàng Trần Nhân Tông

Trong sự nghiệp đế vương, Trần Nhân Tông đã thể hiện vai trò của một minh quân xuất sắc, không ngừng tìm kiếm các kế sách để đối phó với những tình huống khó khăn trong cả thời chiến lẫn thời bình, góp phần quan trọng vào sự phát triển của đất nước.

1.1.1 Trần Nhân Tông và hai cuộc chiến tranh vệ quốc

Vua Trần Nhân Tông và cuộc chiến tranh vệ quốc 1285

Năm 20 tuổi (năm Bảo Phù thứ 6, tức năm 1278), Trần Nhân Tông lên ngôi. Ông lên ngôi trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt và nguy ngập của đất nước. Đó là thời điểm Hốt Tất Liệt ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta trong khi đang thanh toán những cứ điểm cuối cùng của nhà Tống Trung Quốc.

Tháng 10 Trần Nhân Tông lên ngôi thì tháng 11 nhuận, Sài Thung, sứ bộ của Hốt Tất Liệt, đã đến Ung Châu thông qua con đường Giang Lăng có ý mưu tính nước ta, mượn cớ nhà vua không theo mệnh mà tự lập, dựng lời bảo vua khiến vào chầu.

Trước tình hình căng thẳng, vua Trần Nhân Tông khéo léo thực hiện chính sách ngoại giao mềm mỏng để kéo dài thời gian, giúp quân dân Đại Việt chuẩn bị cho cuộc chiến Ông đã nâng cao tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự và ngoại giao để đối phó với kẻ thù đang tiến gần Về chính trị, nhà vua thực hiện chính sách an dân, ổn định xã hội thông qua việc đại xá và giải quyết các bất công trong dân Về kinh tế, ông khuyến khích phát triển nông nghiệp và thương mại Ngoài việc ứng phó với nhà Nguyên, Trần Nhân Tông còn chú trọng xây dựng quan hệ hữu hảo với Chiêm Thành, gửi hai vạn quân và 500 chiến thuyền hỗ trợ họ chống lại quân Nguyên, qua đó tạo nền tảng cho Chiêm Thành dâng hai châu Ô.

Sau khi nghe tin Toa Đô dẫn 50 vạn quân tinh nhuệ xâm lược, nhà vua đã tổ chức hội nghị quân sự Bình Than để bàn kế hoạch chống địch Trước đó, nhà vua đã ngăn chặn thành công âm mưu thiết lập chính quyền bù nhìn Trần Di Ái của quân Nguyên Đồng thời, nhà vua cũng thực hiện các biện pháp ngoại giao linh hoạt qua việc trao đổi thư từ và cử sứ sang nước Nguyên.

Dưới sự lãnh đạo của vua Trần Nhân Tông, quân và dân Đại Việt đã chuẩn bị kỹ lưỡng cả về tinh thần lẫn vật chất, sẵn sàng chiến đấu chống lại kẻ thù đầy dã tâm, quyết tâm giành chiến thắng cho dân tộc.

Trong cuộc chiến chống xâm lược của Hốt Tất Liệt, dù đã chuẩn bị kỹ lưỡng để tiêu diệt Đại Việt, nhưng kết quả lại không như mong đợi Năm 1285, nhân dân ta giành được thắng lợi toàn diện, nhờ vào những diễn biến quan trọng và sự lãnh đạo kiên cường của vua Trần Nhân Tông Thắng lợi này không chỉ khẳng định sức mạnh của dân tộc mà còn thể hiện vai trò quyết định của nhà lãnh đạo trong cuộc kháng chiến chống lại kẻ thù mạnh mẽ.

Trong trận Nội Bàng, hai tướng của ta bị bắt và tuyến phòng ngự bảo vệ kinh thành Thăng Long bị phá vỡ, buộc ta phải đưa ra quyết định chiến lược rút lui và phản công Cuộc hội nghị khẩn cấp giữa Trần Nhân Tông và Trần Hưng Đạo sau thất bại tại mặt trận Nội Bàng phản ánh tư duy quân sự sắc sảo của cả hai Việc Trần Nhân Tông bỏ ăn cả ngày để gặp Trần Hưng Đạo cho thấy sự nghiêm trọng của tình hình và sự chú ý sát sao của ông đối với diễn biến tác chiến của quân đội, cho phép ông chủ động giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh trong bối cảnh khó khăn.

Sau trận Nội Bàng, Thoát Hoan nhanh chóng triển khai kế hoạch tấn công Vạn Kiếp, bắt đầu cuộc tấn công ngay trước Tết Ất Dậu Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt.

Trận Bình Than là một trong những trận thủy chiến dữ dội nhất trong lịch sử quân sự Việt Nam, được chỉ huy trực tiếp bởi vua Trần Nhân Tông với sự tham gia của 10 vạn quân Trận đánh không chỉ nhằm tiêu hao sinh lực của quân địch mà còn thể hiện chiến lược rút lui thông minh của bộ chỉ huy tối cao.

Trận Thăng Long diễn ra sau các trận Vạn Kiếp, Phả Lại và Bình Than, khi quân địch tiến đánh Vũ Ninh, Đông Ngạn và Gia Lâm Quân ta rút về Thăng Long qua sông Thiên Đức, tham gia vào những trận đánh lẻ tẻ với quân Nguyên Khi Thoát Hoan cho quân làm bè vượt sông Thiên Đức để lên bờ sông Phú Lương, vua Trần Nhân Tông đã hô to, yêu cầu tấn công và trực tiếp chỉ huy trận thành Thăng Long.

Sau các trận Đà Mạc và A Lỗ, quân ta rút khỏi Thăng Long khi vua Trần Nhân Tông chuyển quân về Thiên Trường và Trường Yên, khiến quân địch rơi vào tình thế khó khăn.

Vào ngày mồng sáu, vua Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo và Trần Quang Khải đã thực hiện một cuộc rút lui chiến lược, tập trung toàn bộ quân chủ lực nhà Trần tại Thiên Trường Sau đó, họ tiến hành rút lui tại cửa biển Giao Thủy Từ vị trí này, vua Trần Nhân Tông cùng Thượng hoàng và các tướng lĩnh đã chia quân để thực hiện một cuộc phản công lớn, giải phóng Thăng Long và đưa đất nước thoát khỏi sự chiếm đóng của quân thù.

Vào đầu tháng tư, Quốc công Trần Hưng Đạo đã chỉ huy cuộc phản công đầu tiên nhằm vào cứ điểm A Lỗ, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong cuộc chiến Chiến thắng tại A Lỗ đã tạo ra động lực lớn cho quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.

Lỗ, quân Đại Việt tiếp tục tấn công Tây Kết và Hàm Tử quan, nhằm tạo bàn đạp để giải phóng kinh đô Thăng Long Chiến dịch này culminated in the significant victory tại Chương Dương.

Trần Nhân Tông − triết gia lớn

Trần Nhân Tông không chỉ là một vị vua và giáo chủ vĩ đại, mà còn là một nhà tư tưởng xuất sắc, người đã xây dựng nền tảng tư tưởng cho một giáo phái và cho toàn bộ đất nước Đại Việt.

Ngày nay, các tác phẩm của vua Trần Nhân Tông được ghi lại trong Thánh đăng ngữ lục như Thiền lâm thiết chủy ngữ lục, Thiền lâm thiết chủy hậu lục, Đại Hương Hải Ấn thi tập, Tăng già toái sự và Thạch thất mị ngữ đã hoàn toàn thất lạc Hiện tại, những gì còn lại của ông chỉ là một số bài thơ, văn và ngữ lục được chép rải rác trong các tác phẩm Việt Nam sau này.

Thánh đăng ngữ lục, Việt âm thi tập, Thiền tông bản hạnh, Tam tổ thực lục và một số tác phẩm nổi bật của Trung Quốc như Thiên nam hành ký và Trần Cương đều là những tác phẩm văn học quan trọng, phản ánh sâu sắc văn hóa và tư tưởng của thời kỳ lịch sử tương ứng.

Nghiên cứu tác phẩm của Trần Nhân Tông không hề đơn giản và dễ dẫn đến thiếu sót Tuy nhiên, qua những tác phẩm còn lại, chúng ta có thể nhận thấy những tư tưởng triết học chủ yếu, đặc biệt là hai vấn đề quan trọng: thế giới quan và nhân sinh quan, tạo nên nền tảng tư tưởng trong triết học của ông.

Trần Nhân Tông và Thiền phái Trúc Lâm tập trung vào những vấn đề cốt lõi như cái Tâm, quan niệm về thế giới hiện tượng, con đường giải thoát, và mối quan hệ giữa hữu và vô.

Trần Nhân Tông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ, hai thiền sư quan trọng đã góp phần hình thành Thiền phái Trúc Lâm Sự kết hợp giữa tư tưởng của họ đã tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của dòng thiền này.

Vai trò của Trần Thái Tông là đã làm phong phú, sâu sắc thêm khái niệm

Tâm đóng vai trò trung tâm trong Thiền học Việt Nam, với quan niệm Tâm “không hư” của Trần Thái Tông kết hợp giữa “Tâm ấn” của Tì-ni-đa-lưu-chi mang tính hướng ngoại và “Tâm địa” của phái Vô Ngôn Thông mang tính biện tâm và hướng nội Triết lý nhân sinh của Trần Thái Tông phản ánh sự hòa quyện giữa hai trường phái này, tạo nên một cái nhìn sâu sắc về bản chất của Tâm trong cuộc sống.

Tông coi sinh tử không chỉ là một triết lý trừu tượng, mà là thực tại cuộc sống của con người Nó không khuyến khích việc bám víu hay trốn tránh sự thật về sinh tử, mà vẫn chấp nhận và trải nghiệm nó một cách rõ ràng, không nhầm lẫn.

Thiền học của Tuệ Trung Thượng Sĩ mang tính chất tích cực và nhập thế, không chỉ giới hạn trong việc hành thiền như ngồi thiền hay tu thiền Ông quan niệm rằng cuộc sống chính là thiền, vì vậy mọi hành động như đi, đứng, ngồi hay thậm chí là đánh giặc cứu nước đều là thiền Quan điểm của ông về nhân sinh đặt mục tiêu tự do tuyệt đối lên hàng đầu, thể hiện cách sống ung dung tự tại, hòa đồng với tự nhiên, và coi đó là chuẩn mực của thiền.

Tư tưởng triết học của Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ có ảnh hưởng sâu sắc đến Trần Nhân Tông, đóng góp quan trọng vào việc hình thành thế giới quan và nhân sinh quan của ông Sự kết hợp giữa triết lý và thực tiễn trong tư tưởng của hai vị trí thức này đã giúp Trần Nhân Tông phát triển một cái nhìn toàn diện về cuộc sống và con người.

1.3.1 Thế giới quan của Trần Nhân Tông

Cũng như Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Nhân Tông rất coi trọng “Tâm” Theo ông “Hà sa diệu dụng thảy tại nguồn tâm.”

Trần Nhân Tông nhấn mạnh rằng “Tâm” (hay “lòng”) là một thể tính hoàn toàn tĩnh lặng, bao la và vô tận, không thể bị ràng buộc hay giới hạn bởi ngôn ngữ Ông cho rằng đạo lớn là trống rỗng, bản tính của nó trong sáng và không phân biệt giữa lành và dữ Sự lựa chọn dẫn đến nhiều ngả khác nhau, và trong một khoảnh khắc mờ mịt, mọi thứ có thể thay đổi Thánh và phàm đều đi trên một con đường chung, và ranh giới giữa phải và trái không thể dễ dàng phân định Cuối cùng, tội phước là không có, và nhân quả cũng không phải là điều tuyệt đối.

Cái tâm tĩnh lặng của Trần Nhân Tông là sự từ bỏ mọi quan niệm và ý tưởng, bởi chỉ một suy nghĩ nhỏ cũng có thể làm rạn nứt sự tĩnh lặng đó Nó giống như hình ảnh mặt trăng phản chiếu dưới nước, khi mặt nước yên ả thì ánh trăng rực rỡ, nhưng chỉ cần một chút xao động cũng đủ làm tan vỡ vẻ đẹp ấy Tâm tĩnh lặng này tồn tại tiềm ẩn trong mỗi con người, thể hiện rằng “Người người vốn đủ, ai nấy tròn đầy”, đồng nhất với Phật tính, không có sự phân biệt nào: “Phật tính pháp thân như hình với bóng, lúc ẩn lúc hiện, chẳng dính chẳng rời.”

Trần Nhân Tông nhấn mạnh sự đồng nhất giữa tâm, Phật và pháp, cho rằng mọi hành động và cảm xúc đều phản ánh bản chất tâm linh Ông khẳng định rằng tâm giác ngộ không phải là tâm vô minh, mà là tâm thanh tịnh, sáng suốt, giúp con người nhìn nhận mọi sự một cách rõ ràng Khi đạt được tâm giác ngộ, không còn sự phân biệt giữa tâm và Phật, giữa tính và pháp, và con người sẽ không còn tìm kiếm một vị Phật nào khác Tất cả những khái niệm như tính, Phật, tâm, pháp chỉ là phương tiện dẫn đến sự chứng ngộ, tìm thấy tâm giác ngộ trong chính bản thân mỗi người.

Quan niệm về quan hệ giữa thế giới hiện tượng và thế giới bản chất

Trần Nhân Tông, giống như Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhận thấy rằng thế giới hiện tượng là sản phẩm của dòng nhận thức, với mọi vật đan xen và biến đổi không ngừng Ông không phủ nhận sự tồn tại của thế giới hiện tượng, nhưng cũng không công nhận tính chân thực và bền vững của nó Theo ông, thế giới này chỉ là giả tướng, tồn tại như một giấc mơ, vừa hư vừa thực, với những hình ảnh và sắc thái cụ thể nhưng không thể xác định được tính hiện thực Nó cũng mang tính vô thường và hư ảo, giống như hình ảnh cành hoa mai trong giấc mộng của ông.

Chỉ năm ngày sợ rét lười ra khỏi cửa,

Mà gió xuân đã sớm đến với gốc cây cô đơn.

Bóng ngả trên mặt nước, băng giá bắt đầu tan,

Hoa trĩu nặng đầu cành, hơi ấm chưa định rõ

Giọng ca Thúy vũ lắng chìm mặt trăng xóm núi,

Tiếng sáo Họa long ẩm ướt đám mây Ngọc Quan

Một cành hoa lạc vào giấc mộng cố nhân,

Tỉnh dậy không thể tặng anh điều gì, chỉ thấy gió đông đã đến bên cửa Hình ảnh phản chiếu trên mặt nước như băng tuyết, và hoa nở đầu mùa chưa kịp rụng.

Thúy vũ ca trầm sơn điếm nguyệt,

Họa long xuy thấp Ngọc Quan vân Nhất chi mê nhập cố nhân mộng, Giác hậu bất kham trì tặng quân.)

- Tảo mai, Thơ văn Lý - Trần, Tập II

Trần Nhân Tông – thi sĩ trác tuyệt

Trần Nhân Tông không chỉ nổi bật với vai trò là một vị vua và giáo chủ, mà còn được biết đến như một thi nhân và tác gia tiêu biểu của thời đại Sự nghiệp văn chương của ông để lại dấu ấn sâu sắc, giá trị không thua kém gì những thành tựu vĩ đại trong lĩnh vực lãnh đạo và tôn giáo.

Tính chất điển hình trong sự nghiệp sáng tác của Trần Nhân Tông thể hiện rõ nét qua vai trò của ông trong đội ngũ tác giả thời Trần Ông không chỉ là một nhà thơ, mà còn là biểu tượng cho phong trào văn học đương thời, góp phần quan trọng vào việc phát triển văn hóa và tư tưởng của dân tộc Sự kết hợp giữa sáng tác nghệ thuật và tư tưởng triết học trong tác phẩm của ông đã tạo nên dấu ấn sâu sắc trong lịch sử văn học Việt Nam.

Văn học thiền trong thời kỳ Trần chứng kiến sự chuyển mình đa dạng với sự tham gia không chỉ của các thiền sư mà còn của quý tộc, võ tướng và các nhà nho Đội ngũ tác giả phong phú này, bao gồm cả các vị vua, đã tạo nên một lực lượng sáng tác quan trọng, làm phong phú thêm nền văn học dân tộc.

Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu của thời đại nhà Trần, kết hợp nhiều vai trò như vua, thiền sư, tổ của một dòng thiền, và một vị tướng lừng danh Ông không chỉ am hiểu sâu sắc các triết thuyết và kinh điển, mà còn chăm lo đến các vấn đề quốc gia, dân tộc Các tác giả nổi bật khác trong thời kỳ này như Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Huyền Quang, và Trần Hưng Đạo cũng góp phần định hình văn học thời đại Sự trải nghiệm đa dạng trong các vai trò đã giúp Trần Nhân Tông sáng tác nhiều thể loại, tạo nên sự phức tạp và bản sắc riêng cho tác phẩm của ông, khiến ông trở thành một gương mặt không thể thiếu trong văn học thời kỳ nhà Trần.

Trần Nhân Tông là một tác giả đa tài với nhiều thể loại sáng tác như phú, thơ chữ Hán, lục và văn thơ bang giao, tạo nên một gia tài văn chương phong phú Ông đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của văn học thời Lý, đánh dấu một bước tiến mới trong hệ thống tác phẩm của giai đoạn này.

- Trần Vì dưới thời Lý, các tác gia sáng tác không nhiều, và các tác phẩm chưa hình thành hệ thống.

Trong sự nghiệp sáng tác của Trần Nhân Tông, nổi bật lên ba thể loại chính: phú, thơ thiền và thơ văn bang giao Những mảng sáng tác này không chỉ thể hiện tài năng văn chương của ông mà còn phản ánh sâu sắc tư tưởng và triết lý sống của một vị vua có tầm nhìn.

Trần Nhân Tông đã để lại dấu ấn đặc sắc trong thể loại phú với hai tác phẩm lớn, Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, thể hiện sâu sắc các vấn đề tôn giáo Nội dung của hai tác phẩm này sẽ được phân tích chi tiết hơn trong Chương 4 của luận văn, trong khi ở đây, chúng tôi tập trung vào vị trí văn học và lịch sử của chúng.

Trần Nhân Tông không chỉ là người sáng lập dòng thiền Trúc Lâm mà còn đóng góp quan trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc để Việt hóa nội dung tôn giáo Ông ý thức rõ ràng về việc dùng tiếng nói dân tộc làm công cụ truyền đạo, giúp tư tưởng thiền được truyền bá rộng rãi, dễ dàng tiếp cận và cảm thụ bởi mọi tầng lớp nhân dân.

Trần Nhân Tông là một trong những tác giả nổi bật trong lĩnh vực thơ chữ Hán, đặc biệt là thơ thiền, với khoảng 30 bài và đoạn thơ còn lại đến nay Trong số đó, thơ thiền chiếm đến 2/3 tổng số tác phẩm Các nhà nghiên cứu đều công nhận ông là một “tên tuổi lẫy lừng” trong mảng sáng tác này.

Trần Nhân Tông, giống như nhiều thiền sư khác, đã sử dụng văn học để truyền tải triết lý đạo, với thơ thiền là những bài kệ ghi lại khoảnh khắc chứng ngộ của ông Thơ của ông không khô khan, mà chứa đựng những triết lý dễ hiểu, không phức tạp, thường không minh họa trực tiếp cho giáo lý Thiền tông Những tác phẩm của ông thường đề cập đến các vấn đề cốt lõi của thiền học như thế giới hiện tượng, cái tâm, và sự phân biệt giữa sắc và không Đặc biệt, thơ của Trần Nhân Tông tràn ngập hình ảnh thiên nhiên, tạo nên vẻ đẹp thơ mộng, gần gũi và yên bình, giúp con người dễ dàng giác ngộ và hòa nhập với vũ trụ rộng lớn.

Sáng tác văn thơ bang giao của Trần Nhân Tông bao gồm các bài thơ tiếp đón và tiễn đưa sứ giả nhà Nguyên, cùng với 22 lá thư gửi quan quân nhà Nguyên Tuy nhiên, lĩnh vực văn học này vẫn chưa được nghiên cứu sâu sắc và đánh giá đúng mức giá trị của nó.

Trong các bài thơ thiền của Trần Nhân Tông, hình ảnh thiền sư giác ngộ nổi bật, nhưng trong sáng tác này, ông hiện lên như một nhà vua mưu lược và sáng suốt Trần Nhân Tông sử dụng văn học như một vũ khí chống lại kẻ thù, đồng thời thể hiện lòng tự hào và khát vọng hòa bình của dân tộc.

Những lá thư bang giao của Trần Nhân Tông thể hiện quá trình đấu tranh ngoại giao khéo léo nhưng cương quyết trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia trước kẻ thù xâm lấn Bộ 22 lá thư gửi vua quan nhà Nguyên không chỉ là tài liệu quý giá về cuộc đấu tranh tư tưởng mà còn thể hiện ý chí kiên cường của vua và toàn dân Trần Nhân Tông đã mở đường cho loại văn chương phục vụ cho sự nghiệp chính trị và quân sự, với lời văn vừa tao nhã vừa sắc bén, đủ sức thuyết phục kẻ thù về mặt tư tưởng Qua đó, ông cũng bày tỏ thái độ đối với những kẻ như Hốt Tất Liệt, người đứng đầu một triều đình lớn nhưng đầy dã tâm.

Vua Trần Nhân Tông được các nhà nghiên cứu đồng thuận đánh giá cao về sự nghiệp thơ văn chữ Hán của ông Ông không chỉ là một nhà thơ tài năng mà còn đóng góp nhiều giá trị văn hóa cho nền văn học Việt Nam Sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật và triết lý, góp phần làm phong phú thêm di sản văn hóa dân tộc.

“tên tuổi lẫy lừng”trong lĩnh vực hoạt động sáng tạo này.

Trong chương này chúng tôi đã cung cấp một bức chân dung khái quát về sự nghiệp phong phú của Trần Nhân Tông trên ba phương diện – ông hoàng,

Trần Nhân Tông, một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, đã ghi dấu ấn sâu sắc trên ba phương diện: lãnh đạo, tôn giáo và văn học Là một nhà lãnh đạo kiệt xuất, ông đã dẫn dắt dân tộc chiến thắng trong hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông, đồng thời xây dựng mối quan hệ hữu nghị bền vững với Chiêm Thành trong thời bình Trên phương diện tôn giáo, ông đã thống nhất các tông phái thành dòng Thiền Trúc Lâm, phát triển giáo hội và củng cố tư tưởng thống nhất dân tộc Về mặt tư tưởng, Trần Nhân Tông không chỉ kế thừa mà còn phát triển các quan điểm chủ đạo của Thiền tông Trong lĩnh vực văn học, ông là một trong những tác giả lớn, với nhiều tác phẩm có giá trị nội dung và lịch sử, góp phần quan trọng vào tinh thần dân tộc.

Cảm hứng Cư trần lạc đạo trong sáng tác của Trần Nhân Tông

2.1.1 Khái lược cảm hứng thiền nhập thế trong văn học đời Trần

Trước khi khám phá cảm hứng thiền nhập thế trong thời Trần, chúng ta cần xem xét một số đặc điểm nổi bật của thiền thời Lý Điều này giúp hình dung rõ nét về sự kế thừa, kết nối và sự phát triển của thiền trong thời kỳ Trần.

Tư tưởng cơ bản của Thiền tông đời Lý là “hòa quang đồng trần”, khuyến khích các đệ tử sống hòa nhập với cuộc đời, chia sẻ niềm vui và nỗi lo của mọi người Tư tưởng này tạo nên một tinh thần viên dung, hài hòa với các triết thuyết khác, góp phần vào sự khai phóng và cởi mở trong thi ca thiền Các thiền sư thời Lý không chỉ tu hành mà còn sáng tác thơ, họ vượt qua những tín điều cứng nhắc để hòa nhập và giúp đỡ cộng đồng mà không chống lại hay tách rời khỏi cuộc sống thực.

Thiền thời Lý khẳng định niềm tin vững chắc rằng mỗi con người đều có khả năng tự trở thành Phật mà không cần phụ thuộc vào tín điều hay sức mạnh bên ngoài Hành trình tu thiền là con đường cá nhân mà mỗi người phải tự khám phá, không thể trông chờ vào sự trợ giúp từ bên ngoài.

Thiền thời Lý nổi bật với sự ảnh hưởng rõ rệt từ Mật tông, dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của các thể loại thơ sấm vĩ trong giai đoạn này.

Thời Trần, tinh thần nhập thế của các thiền gia đạt đến đỉnh cao, thể hiện rõ nét qua những nhân vật tiêu biểu như Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ và Huyền Quang Thiền, vốn đã mang tính nhập thế, nhưng chỉ trong giai đoạn này, tinh thần đó mới được phát huy tối đa, tạo nên những dấu ấn đặc sắc cho làng thiền Việt Nam.

Các tác phẩm văn học thiền thời kỳ này thể hiện tinh thần hướng nội, tìm kiếm giải thoát và khả năng thành Phật trong chính bản thân Tinh thần này đã được khởi xướng bởi tổ Huệ Năng của dòng thiền Nam tông, người nhấn mạnh rằng giác ngộ chỉ có thể đạt được qua tâm trí, không cần tìm kiếm bên ngoài Ông khẳng định rằng mọi pháp đều nằm trong tự thân và kêu gọi mọi người quay về với bản tính chân thật của mình Phật chính là Tự tính, và việc quy y Phật phải bắt đầu từ chính mình, không nên tìm kiếm ở nơi khác.

Tinh thần thiền thời Trần đã phát huy mạnh mẽ trong quan niệm về Tâm, đặc biệt trong triết học của Trần Thái Tông, người sáng lập "tập đại thành đầu tiên của Phật giáo Việt Nam" Ông đã tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi "Phật là gì?" và nhận được sự chỉ dẫn từ Quốc sư Trúc Lâm rằng Phật ở ngay trong lòng mỗi người, không cần tìm kiếm bên ngoài Tuy nhiên, những trăn trở trong cuộc sống đã dẫn đến câu hỏi tiếp theo: "Tâm là gì?" Quốc sư đã khuyên ông rằng, một bậc nhân quân cần lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, và từ đó, Trần Thái Tông nhận ra rằng Phật không ở đâu xa, mà chính là trong tâm hồn mình Ông hiểu rằng sống trọn vẹn với bổn phận nhân thế và soi rọi vào tâm mình cũng có thể đạt được đạo mà không cần phải rời bỏ thế gian để tu hành.

Trần Thái Tông thực sự giác ngộ khi nghe câu: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”, nghĩa là tâm không cố định vào bất cứ chỗ nào Tâm vô trụ này chính là tâm “không hư” Lục tổ Huệ Năng đã giảng giải về tâm này một cách sâu sắc.

Tự tính là bản chất vốn có của tâm, tự thanh tịnh, tự đầy đủ và không lay động Nó có khả năng sinh ra muôn vạn sự vật mà không lệ thuộc vào không gian hay thời gian Tâm này là kỳ diệu, trọn vẹn, lặng lẽ và không cần tìm kiếm bên ngoài, vì tự nó đã đầy đủ Giác ngộ đến khi nhận ra rằng mọi thứ đều là không, không cần trì tụng kinh điển, mà chỉ cần hiểu rằng trong ảo sắc cũng có chân sắc, và thân phàm cũng chính là pháp thân Khi phá bỏ các chướng ngại, ta sẽ đạt được tự tại và chuyển hóa khổ đau thành an lạc.

Cảm hứng thiền nhập thế nổi bật trong các tác phẩm của Tuệ Trung Thượng Sĩ, người được tôn vinh là “Con mắt thông tuệ, rừng thiền ba phía” Ông thể hiện một tinh thần hướng nội, khuyến khích việc tìm kiếm bản tâm trong chính mình Điều này được thể hiện qua câu trả lời của ông với Trần Nhân Tông về tông chỉ cần theo: “Quay nhìn vào bản thân mình chính là việc cần làm, không nên tìm kiếm ở đâu khác.” (Phản quan tự kỷ bản phận sự; bất tòng tha đắc) Tư tưởng này cũng được phản ánh trong tác phẩm Phật tâm ca của ông.

Muốn tìm Tâm, Đừng tìm ở bên ngoài;

Bản thể của nó như thế và không tịch (Dục cầu Tâm,

Bản thể như như tự không tịch.)

Tâm của vạn pháp là tâm của

Phật, Tâm Phật cũng phù hợp với tâm ta (Vạn pháp chi Tâm tức

Phật tâm khước dữ ngã tâm hợp.)

- Phật Tâm ca, Thơ văn Lý - Trần, Tập II

Phật ở ngay trong lòng ta, pháp thân của Người bao trùm tất thảy:

Cái thân vàng cao quý nhất của Phật Di Đà ở ngay trong lòng;

Pháp thân chan hòa khắp Đông Tây Nam

Bắc (Tâm nội Di Đà tử má khu,

(Đông Tây Nam Bắc pháp thân chu.)

- Thị tu Tây phương bối, Thơ văn Lý - Trần, Tập II

Thiền tại Tuệ Trung Thượng Sĩ thể hiện sự tự do và khoáng đạt, mang đậm ảnh hưởng của triết lý Lão Trang Ông là người hòa quyện ánh sáng với cuộc sống, không bao giờ trái với tự nhiên, từ đó đã truyền bá Phật pháp một cách sâu sắc.

Tuệ Trung Thượng Sĩ coi tự do là cứu cánh và động lực cho cuộc sống thiền của mình, với quan niệm rằng "ngày ngày lấy lạc đạo thiền làm vui" Nhờ vào quan điểm này, ông đã sống một cuộc đời thoải mái, vượt ra ngoài quy phạm và giới luật, thể hiện lối sống "giang hồ tự thích" với triết lý "nhậm vận tùy duyên" gần như "cuồng phóng".

Ngắm trông trời đất sao mà mênh mông, Chống gậy nhởn nhơ ngoài thế gian.

Hoặc đến chỗ núi mây cao cao,

Hoặc đến chỗ biển nước sâu sâu Đói thì ăn cơm hòa-la,

Mệt thì ngủ làng “không có làng” Khi hứng thì thổi sáo không lỗ,

Nơi yên tĩnh thì thắp hương giải thoát Mệt thì nghỉ tạm nơi đất hoan hỉ, Khát thì uống no thang tiêu dao.

Buông lỏng tứ đại đừng có bó buộc,

Xong một đời rồi, không chạy chọt đó đây

(Thiên địa điếu vọng hề hà mang mang,

Trượng sách ưu du hề phương ngoại phương.

Hoặc cao cao hề vân chi sơn,

Hoặc thâm thâm hề thủy chi dương Cơ tắc xan hề hòa-la phạn,

Khốn tắc miên hề hà hữu hương

Quyện tiểu phại hề hoan hỉ địa,

Khát bão xuyết hề tiêu dao thang.

Phóng tứ đại hề mạc bả tróc,

Liễu nhất sinh hề hưu bôn mang.)

- Phóng cuồng ngâm, Thơ văn Lý - Trần, Tập II

Quan niệm sống của ông là buông xả, tùy tục: Đến xứ cởi trần cứ vui vẻ mà bỏ áo,

Không phải quên lễ, chỉ tùy theo thói tục mà thôi (Khỏa quốc hân nhiên tiện thoát y,

Lễ phi vô dã, tục tùy nghi.)

- Vật bất năng dung - Thơ văn Lý - Trần, Tập II

Đối với Tuệ Trung Thượng Sĩ, cuộc sống chính là thiền; mọi hành động như đi hay đứng đều mang tính thiền Không tồn tại sự phân biệt hay ranh giới giữa thiền và đời sống.

2.1.2 Cảm hứng Cư trần lạc đạo trong sáng tác của Trần Nhân Tông

Về khái niệm “Cư trần lạc đạo”

Tư tưởng Cư trần lạc đạo được Trần Nhân Tông trình bày cô đọng trong bài thơ yết hậu của bài Cư trần lạc đạo phú nổi tiếng:

Sống giữa phàm trần, hãy tùy duyên mà vui với đạo, Đói thì ăn, mệt thì ngủ.

Trong ngôi nhà của chính mình, kho báu không cần tìm kiếm ở nơi khác Nếu trong bối cảnh thiền mà thiếu sự chú tâm, thì không cần phải bàn về thiền nữa Hãy sống hòa hợp với cuộc sống, tùy duyên mà tu tập.

Cơ tắc san hề, khốn tắc miên.

Gia trung hữu bảo, hưu tầm mịch, Đối cảnh vô tâm, mạc vấn thiền)

- Cư trần lạc đạo phú, Thơ văn Lý - Trần, Tập II

Tư tưởng Cư trần lạc đạo nhấn mạnh rằng mọi người có thể đạt được giác ngộ ngay trong cuộc sống trần gian mà không cần phải đi tu hay chỉ niệm Phật Thay vì chờ đợi một cõi niết bàn ở bên ngoài hay trong kiếp sau, mỗi cá nhân có thể tìm thấy và xây dựng cõi cực lạc ngay trong hiện tại, giữa đời sống hàng ngày.

Cảm hứng dân tộc trong sáng tác của Trần Nhân Tông

2.2.1 Khái lược cảm hứng dân tộc trong văn học thời Trần

Thời đại nhà Trần là một trong những giai đoạn huy hoàng nhất trong lịch sử Việt Nam, nổi bật với ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông, một đội quân xâm lược tàn bạo Những chiến thắng này không chỉ thể hiện sức mạnh của lòng yêu nước mà còn khẳng định tinh thần đoàn kết dân tộc Trong bối cảnh chiến tranh kéo dài, phẩm chất cao đẹp của con người được nuôi dưỡng và thử thách, làm cho cuộc kháng chiến trở thành biểu tượng của sức mạnh quốc gia Thời kỳ này gắn liền với những chiến công lừng lẫy và những vị tướng nổi tiếng, như Trần Hưng Đạo, được thế giới công nhận Khí thế “sát thát” đã tạo nên nét đặc sắc không thể nhầm lẫn trong thời đại này, lý giải cho sự vang dội của văn chương đời Trần với những bài ca về chiến đấu và chiến thắng.

Cảm hứng dân tộc đã trở thành yếu tố chủ đạo trong nền văn học, thể hiện tinh thần kiên cường và dũng cảm của dân tộc trước kẻ thù mạnh mẽ Các tác phẩm văn học từ thời kỳ này, bao gồm thơ, phú và hịch, thường mang âm hưởng hào hùng, ghi lại những chiến công vang dội và được coi là những bản khải hoàn ca, ca ngợi chiến thắng.

Trước kẻ thù hung bạo với sức mạnh áp đảo, các vua và chiến tướng thể hiện lòng căm thù sâu sắc và quyết tâm đánh bại kẻ xâm lược Tác phẩm "Hịch tướng sĩ" của Trần Hưng Đạo là một ví dụ điển hình cho tinh thần kiên cường này, thể hiện ý chí dập tắt mọi âm mưu xâm lược.

Trong tác phẩm của Trần Hưng Đạo, tác giả đã mạnh mẽ lên án tội ác của kẻ thù và nỗi đau mà chúng gây ra cho dân tộc: “Chúng ta sinh ra trong thời loạn lạc, chứng kiến kẻ thù ngang nhiên xâm phạm, xỉ nhục triều đình và bắt nạt những người lãnh đạo Chúng tham lam đòi hỏi của cải, khiến lòng căm phẫn trong ta dâng trào Tôi thường đau đớn, không thể ăn uống, chỉ mong được trả thù, dù phải hy sinh mạng sống.”

Thơ văn Lý - Trần, Tập II].

Để khơi dậy tinh thần và lòng quả cảm của quân sĩ, ông đã nêu ra hai hoàn cảnh trái ngược: thua và thắng Ông nhấn mạnh rằng nếu thất bại, không chỉ riêng ông mà tất cả mọi người sẽ phải chịu đựng hậu quả nặng nề Ông cảnh báo rằng sự nhục nhã sẽ không chỉ dừng lại ở bản thân ông mà còn ảnh hưởng đến gia đình, tài sản và danh dự của quân sĩ Sự thất bại sẽ khiến mọi người phải sống trong đau khổ, và danh tiếng của họ sẽ bị gắn liền với sự bại trận, không thể nào rửa sạch trong nhiều thế hệ sau.

Nếu chiến thắng, thái ấp của ta sẽ mãi mãi vững bền và các ngươi sẽ được hưởng bổng lộc đời đời; gia quyến ta sẽ êm ấm, vợ con các ngươi cũng sẽ sống lâu trăm tuổi Tông miếu của ta sẽ được tế lễ muôn đời, tổ tiên các ngươi cũng sẽ được thờ cúng quanh năm Thân ta sẽ được đắc chí kiếp này, và tiếng tốt sẽ lưu truyền trăm năm sau Danh hiệu ta sẽ không bị mai một, tên tuổi các ngươi cũng sẽ được sử sách ghi nhớ.

Ông khẳng định với quân sĩ rằng chỉ có một con đường duy nhất để cứu đất nước là đánh đuổi giặc, không có lựa chọn nào khác Vận mệnh và sự tồn vong của dân tộc gắn liền với từng cá nhân và gia đình, do đó không ai có quyền thờ ơ trước vận mệnh chung Hịch tướng sĩ thể hiện một chủ nghĩa yêu nước chân thành và sâu sắc, đồng thời phản ánh nhận thức cụ thể về mối liên hệ giữa vận mệnh cá nhân và vận mệnh dân tộc Việt.

Trong văn học thời kỳ này, nổi bật là niềm say mê chiến thắng và lòng tự hào về những chiến công oanh liệt của dân tộc Nhiều chiến thắng quan trọng đã được ghi lại trong các tác phẩm văn học, trở thành những biểu tượng bất tử, như chiến thắng Hàm Tử quan và chiến thắng Chương Dương độ.

Bến Chương Dương cướp giáo giặc,

Cửa Hàm Tử bắt quân Hồ

(Đoạt sóc Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử Quan.)

- Tụng giá hoàn kinh sư, Thơ văn Lý - Trần, Tập II

Thấy sông Bạch Đằng cuồn cuộn sóng,

Tưởng tượng thấy chiến thuyền của Ngô

Vương Trạnh nhớ vua Trùng Hưng xưa,

Khéo chuyển đất xoay trời.

Nghìn chiến thuyền đóng cửa biển,

Muôn lá cờ tung bay đầu núi Hiệp

Môn, Trở bàn tay, vững trụ trời,

Kéo sông Ngân Hà rửa giáp binh Đến nay dân bốn biển,

Nhớ mãi năm bắt thù.

(Hung hung Bạch Đằng đào,

Tưởng tượng Ngô Vương thuyền. Ức tích Trùng Hưng đế,

Diệu chuyển khôn cán kiền Hải phố thiên mông đồng, Hiệp môn vạn tinh chiên.

Phản chưởng điện ngao cực, Vãn hà tẩy giáp binh.

Chí kim tứ hải dân,

Trường ký cầm Hồ niên)

- Phạm Sư Mạnh, Đề Thạch sơn môn, Thơ văn Lý - Trần, Tập II

Chiến thắng Bạch Đằng là một sự kiện lịch sử lẫy lừng, thường được nhắc đến trong thơ ca Đặc biệt, tác phẩm của Trương Hán Siêu, một vị tướng đã tham gia trận đánh, miêu tả chiến thắng này một cách sống động và hùng hồn, chạm đến cảm xúc của người đọc.

Một đội thuyền bày: rừng cờ phấp phới,

Hùng hổ sáu quân, dáo gương sáng chói Thắng bại chửa phân: Nam Bắc lũy đối Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ;

Bầu trời chừ sắp hoại.

Anh minh hai vị Thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

Giặc tan muôn thuở thăng bình,

Tại đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.

- Bạch Đằng giang phú, Thơ văn Lý - Trần, Tập II

Non nửa thế kỷ sau chiến thắng đó, vua Trần Minh Tông như vẫn còn như thấy sát khí của trận huyết chiến ác liệt đó:

Non song này xưa nay đã hai lần mở mắt,

Cuộc hơn thua giữa Hồ và Việt thoáng qua như một lúc dựa vào lan can Nước sông chan chứa rọi bóng mặt trời chiều đỏ ối,

Còn ngỡ là máu chiến trường thuở trước chưa từng khô (Sơn hà kim cổ song khai nhãn,

Hồ Việt doanh thâu nhất ỷ lan

Giang thủy đình hàm tàn nhật ảnh, Thác huy chiến huyết vị tằng can.)

- Bạch Đằng giang, Thơ văn Lý - Trần, Tập II

Trong thời đại này, con người được nâng cao tầm vóc, tương xứng với những chiến công vĩ đại Điều này tạo nên khí thế hào sảng, với tầm vóc con người được đo lường theo kích thước của trời đất.

Cắp ngang ngọn giáo giữ non sông đã mấy thu,

Ba quân như gấu hổ át cả sao

Ngưu (Hoành sóc giang san cáp kỷ thu, Tam quân tỳ hổ khí thôn

- Thuật hoài, Thơ văn Lý - Trần, Tập II

Tầm vóc và tư thế của đất nước được xây dựng trên nền tảng vững chắc của tinh thần tự chủ, thể hiện ý chí kiên cường trong việc bảo vệ tổ quốc.

Sau nhiều năm chinh chiến, người dân Đại Việt, từ vua quan đến người dân thường, đều thấu hiểu tầm quan trọng của hòa bình Khát vọng chung của họ là chấm dứt chiến tranh và bảo vệ sự trường tồn của dân tộc Cảm hứng này được thể hiện rõ nét trong nhiều tác phẩm văn học.

Có khi nó được thể hiện dưới tư thế “nghiêng mình ngủ yên”, vì không còn nỗi lo giặc dã của Trần Quang Khải:

Trông về phía Nam không còn khói lang bốc lên nữa,

Thảnh thơi trên giường, yên tâm với giấc mơ riêng

(Nam vọng lang yên vô phục khởi, Đồi nhiên nhất tháp mộng thiên an.)

- Phúc Hưng viên, Thơ văn Lý - Trần, Tập II

Vua Trần Anh Tông cảm nhận niềm hạnh phúc và sự yên bình khi không còn bị đánh thức bởi tiếng cờ lệnh trong những trận chiến.

Gối đầu bên cửa sổ thuyền, lòng giang hồ ấm lại, Bóng màn trướng không còn đi vào giấc ngủ.

(Thuyền song nhất chẩm giang hồ noãn,

Bất phục du chàng nhập mộng chung.)

- Chinh Chiêm Thành hoàn chu Bạc Phúc thành cảng, Thơ văn

Mọi người đều ấp ủ một giấc mơ lớn lao là "kéo nước thiên hà rửa giáp binh", nhằm hướng tới "thiên hạ thống nhất, thái bình thịnh trị", và mong muốn "non nước ấy nghìn thu".

Tình yêu đất nước trong thơ văn thời kỳ này thể hiện rõ nét qua niềm tự hào về vẻ đẹp trù phú và thanh bình của dân tộc khi đất nước được giải phóng khỏi bóng giặc.

Biền, nam, quát, bách, Kỷ tử, dự chương,

Lúa bắp bát ngát chừ liền đội,

Dâu gai mơn mởn chừ từng hàng,

Da thú, lông, ngà ngập tràn chừ miền lân cận;

Vàng, bạc, châu, báu đầy rẫy chừ chốn biên cương Tấp nập thuyền bè dây kéo,

Dọc ngang đường lối chim muông,

Xe ngọc cống hiến, đưa đón rộn ràng.

- Thiên Hưng trấn phú, Thơ văn Lý - Trần, Tập II

2.2.2 Cảm hứng dân tộc trong sáng tác của Trần Nhân Tông

Hình tượng thiền sư cầu giải thoát

Trong thế giới văn chương thiền, mặc dù con người thường bị xem nhẹ, nhưng thực tế, văn chương này vẫn hướng đến con người theo cách riêng của nó Mục đích của đạo Phật là giải thoát chúng sinh, và văn chương thiền ca ngợi sức mạnh trí tuệ con người, khẳng định khả năng mỗi người có thể tự trở thành Phật Khát vọng giải thoát trong thực tại mang lại cho con người niềm tin vững chắc rằng bất kỳ ai cũng có thể thực hiện được điều đó Sự tự tin và trách nhiệm tự cứu, tự giải thoát chính là nét nhân văn đẹp đẽ trong văn học thiền.

Văn chương thiền đã tạo ra một hình tượng độc đáo trong nền văn học dân tộc: các thiền sư cầu giải thoát Hình tượng này, bên cạnh những nhân vật như nhà nho ẩn dật và nhà nho tài tử, đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử văn học cổ.

3.1.1 Khái lược hình tượng thiền sư cầu giải thoát trong văn học thiền đời Trần

Hình tượng con người trong văn học thiền thời Trần phản ánh triết lý nhân sinh và quan niệm sống của một thời đại hưng thịnh Các tác phẩm không chỉ miêu tả những thiền sư trầm tư mà còn khắc họa những con người gần gũi với cuộc sống, luôn tìm kiếm con đường giải thoát Mỗi thiền sư mang đến một phong cách riêng, từ những trăn trở trong văn thơ của Trần Thái Tông đến sự phóng khoáng của Tuệ Trung Thượng Sĩ hay sự kết hợp giữa thiền và nho học của Huyền Quang Tuy nhiên, tất cả đều chia sẻ tinh thần phá chấp triệt để, tự do vượt qua mọi giới hạn và thể hiện sự tự tin, tự cường trong cuộc sống.

Các thiền sư là những người tự do với tinh thần phá chấp triệt để, nhằm đạt đến cái tâm không “ưng vô sở trụ”, giống như “gương sáng vốn không đài”, không để vật gì bám vào Khi đạt được điều này, con người trở về với bản tâm chân như, sống tự do giữa đời Họ phản đối cái nhìn nhị nguyên phân biệt tốt - xấu, phàm - Thánh, mê - ngộ, địa ngục - niết bàn, tử - sinh, coi đây là vọng kiến, là vòng dây trói buộc Dù chấp vào bất kỳ điều gì, kể cả Thánh hay niết bàn, con người vẫn không thể thoát khỏi vòng vô minh Tuệ Trung Thượng Sĩ đã mạnh mẽ chỉ ra điều này cho mọi người.

"Phật và chúng sinh đều có bản chất giống nhau, không cần phải cúng lễ hay tôn thờ, và việc giữ giới hay nhẫn nhục chỉ mang lại tội lỗi chứ không phải phúc đức."

Thượng sĩ cho rằng mọi thứ xuất phát từ nhị kiến, dẫn đến cái nhìn thiên lệch và sự phân biệt giữa ngã - nhân, bỉ - thử Từ sự phân chia này, kiến giải cũng hình thành, nhưng do ảnh hưởng của nhị kiến, nó trở nên thiên lệch và rối rắm hơn.

Để diệt trừ nhị kiến, Tuệ Trung Thượng Sĩ đề xuất phương pháp phá chấp vào biên kiến Ông chỉ ra rằng có người chấp vào kinh sách, cho rằng sắc là không và không là sắc Thượng Sĩ đã làm sáng tỏ điều này khi khẳng định: “sắc vốn chẳng phải không, không vốn chẳng phải sắc” (Sắc bản vô không, không bản vô sắc) Để giác ngộ, cần phải phá vỡ những chấp trước, và Ngài đã sử dụng hình ảnh: "Đừng gánh nặng hai vai Mới qua cầu khỉ được."

Tuệ Trung Thượng Sĩ sống một cách tự nhiên, tự do và không ràng buộc, thể hiện sự tương đồng với Trang Tử Ông từ bỏ mọi thứ, sống như một người du hành không bị ảnh hưởng bởi thế giới ồn ào, xa lánh thị phi và phân định đúng sai Ông yêu thích cuộc sống giang hồ, hòa mình vào thiên nhiên với non xanh nước biếc và gió mát trăng thanh, thường ngồi trên thuyền và thổi sáo Lối sống này được thể hiện rõ nét trong bài thơ "Phóng cuồng ngâm".

Thượng sĩ nhấn mạnh rằng để tự do phát triển, con người cần buông bỏ mọi chấp thủ và không chỉ dừng lại ở nhị kiến Khi tâm đã tĩnh lặng, không cần thiết phải niệm Phật hay cầu thiền Đối với Tuệ Trung Thượng Sĩ, đạo và đời không thể tách rời; cuộc sống chính là con đường tu tập và tu tập cũng chính là cuộc sống.

Trong văn chương đời Trần, hình ảnh các thiền sư vô ngã xuất hiện rõ nét, cho thấy cái ngã là trở ngại lớn trên con đường tịnh tấn Khi còn ôm khư khư bản ngã và phân biệt giữa ta với vật, ta với tha nhân, con người chưa thể giải thoát Việc quên mình, vong ngã giúp con người trải nghiệm những khoảnh khắc trọn vẹn, hòa nhập với vũ trụ vô biên, vượt qua ranh giới hữu hạn để đạt tới cảnh giới tuyệt đối Tinh thần này được thể hiện rõ nhất trong thơ Huyền Quang, nơi ông thường nhấn mạnh việc quên bản thân.

Trong cuộc sống tách biệt với thời gian, nhà thơ cảm nhận sự biến đổi của thiên nhiên như một cách để biết thời tiết, quên đi những lo toan thường nhật Tại nơi ẩn dật, ông hòa quyện tâm hồn với âm thanh của gió thu và hơi mát của đêm, quên đi sự tồn tại của bản thân, trở thành một phần của vũ trụ bao la Tinh thần vô ngã không có nghĩa là xóa bỏ con người cá nhân mà là yêu cầu giải phóng khỏi mọi ràng buộc, đạt đến một cấp độ tinh thần cao hơn, nơi con người hòa hợp trọn vẹn với cái đại ngã vô biên.

Trong thế giới thiền, những con người vô ngôn xuất hiện, vì ngôn ngữ không thể diễn đạt hết chân lý vô cùng Các thiền sư nhấn mạnh tầm quan trọng của sự trực cảm, cho rằng con đường duy nhất dẫn đến chân lý là tự nghiệm và tự chứng nghiệm qua trải nghiệm cá nhân, thay vì chỉ học hỏi lý thuyết.

Mỹ học vô ngôn của Thiền tông đã thổi hồn vào thơ ca, tạo nên một thế giới cảm xúc mới mẻ và vô hạn Sự hòa quyện giữa con người và vũ trụ trong giây phút hiện tại mang đến niềm an lạc không thể diễn tả bằng lời, chỉ những ai trải nghiệm mới thật sự cảm nhận được Trạng thái kỳ diệu này được thể hiện rõ nét trong thơ Trần Thái Tông.

Gió đập cửa thông, trăng chiếu trên sân,

Lòng hẹn với phong cảnh lạnh lẽo cùng trong trẻo.

Trong đó có cái ý vị riêng mà không ai biết được,

Mặc tình cho nhà sư trong núi vui tới sáng.

(Phong đả tùng quan, nguyệt chiếu đình, Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh.

Cá trung tự vị vô nhân thức,

Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh.)

- Ký Thanh Phong am tăng Đức Sơn, Thơ văn Lý - Trần, Tập II

Khi cái lạnh lẽo của buổi sáng hòa quyện với tâm hồn con người và cảnh vật, tiếng gió và ánh trăng tạo nên một không gian giao hòa giữa ta và thiên nhiên Tất cả đều hòa quyện trong một bản giao hưởng vô hạn của vũ trụ, mang đến một ý nghĩa thần diệu mà chỉ người trong cuộc – ông tăng trong núi – mới có thể cảm nhận được niềm hoan lạc sâu sắc trong tâm hồn.

3.1.2 Hình tượng thiền sư cầu giải thoát trong sáng tác của Trần Nhân Tông

Con người phá chấp triệt để, tự do, tự tại

Trong thơ văn của Trần Nhân Tông, nổi bật là tinh thần phá chấp triệt để, thể hiện qua hình ảnh sinh động trong tác phẩm Cư trần lạc đạo phú.

Buông lửa giác ngộ, đốt hoại thảy rừng tà ngày trước; Cầm kiếm trí tuệ, quét cho không tánh thức thuở nay.

Hình tượng thiên nhiên trong sáng tác của Trần Nhân Tông

Từ xưa, thiên nhiên đối với người phương Đông, đặc biệt là người Việt Nam, không chỉ là một thực thể khách quan mà còn gắn liền với đời sống con người Trong tâm linh, các hiện tượng thiên nhiên được tôn thờ như những vị thần Văn học dân gian phản ánh sự giao thoa giữa con người và thiên nhiên, nơi cây cối và động vật có thể nói năng, trong khi con người thường được so sánh với hình ảnh thiên nhiên.

3.2.1 Khái lược vai trò của thiên nhiên đối với thiền gia và hình tượng thiên nhiên trong văn học thiền thời Trần

Thiên nhiên luôn là một chủ đề quan trọng trong văn học Việt Nam, đặc biệt là trong văn học cổ Người xưa xem con người như một "gạch nối" giữa trời và đất, giúp chúng tương thông Họ coi mình là một phần của vũ trụ, vì vậy thiên nhiên không chỉ đơn thuần là một khách thể mà còn là một cội nguồn mạnh mẽ và thiết yếu trong cuộc sống Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên thể hiện sự tri âm sâu sắc, cho thấy tầm quan trọng của thiên nhiên trong tâm thức của người xưa.

Nho gia, thiền gia và đạo gia đều có mối quan tâm sâu sắc đến thiên nhiên, nhưng mỗi trường phái lại có cách tiếp cận riêng Nho gia tôn vinh sự sống và sức sống của thiên nhiên, nhân hóa thiên nhiên để khám phá sự kết nối giữa con người và thế giới Trong khi đó, đạo gia tìm kiếm sự tĩnh lặng bằng cách rời bỏ xã hội để hòa mình vào thiên nhiên, coi đó là nơi an ủi những nỗi đau của cuộc sống, giúp đạt được trạng thái quên đi bản thân và vật chất.

Thiên nhiên đóng vai trò quan trọng đối với thiền gia, và để hiểu rõ điều này, cần tìm hiểu nguồn gốc trong quan niệm sáng tác cũng như phương thức mà thiền gia tiếp cận thiên nhiên, đặc biệt là qua thơ thiền.

Thơ thiền là một phần quan trọng trong văn học thiền, thể hiện sự kết hợp giữa triết lý Phật giáo và nghệ thuật thơ ca Khái niệm "dĩ thiền dụ thi" (lấy thiền để dẫn dụ thơ) xuất hiện từ thời Đường ở Trung Quốc, nhấn mạnh vai trò của thiền trong việc sáng tạo và truyền đạt cảm xúc qua thơ.

Làm thơ được ví như tham thiền, coi thơ và kệ là tương đồng, với chữ "ngộ" làm hạt nhân Quan niệm này cho thấy việc sử dụng tư duy thần bí trong tham thiền để giải thích tư tưởng và phương pháp sáng tác thơ ca.

Các thiền gia, tác giả của thơ thiền, thường là những người xuất gia, mặc dù lý thuyết Thiền tông khuyến khích “cư trần lạc đạo” Họ có nhiều thời gian để chiêm nghiệm thiên nhiên, điều này khiến thiên nhiên trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống tu hành của họ Sự quan tâm đến thiên nhiên không chỉ thể hiện qua thơ mà còn trong đời sống hàng ngày của các thiền gia.

Thơ thiền không chỉ đặc trưng bởi đội ngũ tác giả mà còn bởi hoàn cảnh ra đời của các bài thơ Các bài kệ, hay kệ ngộ giải, là phần cốt lõi của thơ thiền và không được sáng tác với mục đích văn chương Chúng sử dụng ngôn ngữ tượng trưng để gợi ý và ám thị tư tưởng thiền, ghi lại những ngộ giải của thiền gia về các luận điểm trong Phật Giáo, đặc biệt là những khoảnh khắc “đốn ngộ” khi họ chuẩn bị nhập tịch Từ góc độ này, thơ thiền trở thành công cụ cho sự tự giác và giác tha Mặc dù Phật giáo Thiền tông khuyến khích “vô ngôn” và nhấn mạnh việc mỗi người phải tự giải thoát, nhưng vẫn công nhận vai trò của những bài thơ trong quá trình này.

"Tha lực" là một yếu tố quan trọng trong con đường tịnh tấn, trong đó kệ cũng được xem như một hình thức "tha lực" mà các thiền gia sử dụng để giúp mở "con mắt Huệ" cho môn đệ và chúng sinh Trong khoảnh khắc giác ngộ, các thiền gia, thông qua trực giác, nắm bắt hình ảnh từ ngoại giới để diễn đạt trạng thái siêu việt của mình, với thiên nhiên là một trong những hình ảnh tiêu biểu.

Thiền gia coi thiên nhiên là yếu tố quan trọng trong quá trình ngộ đạo, thể hiện rõ nét qua thơ thiền Việt Nam với những cảm nhận sâu sắc và ít khói lửa, nhưng tràn đầy khí chất thanh tân của núi rừng Để đạt được sự “ngộ”, người tham thiền nên tìm kiếm môi trường tự nhiên tĩnh lặng, như khe suối mùa thu, rừng hoa xuân, núi non mây mù, mặt nước trong xanh, hay những đêm trăng sáng Những không gian này không chỉ giúp tĩnh lặng tâm hồn mà còn tạo điều kiện để hòa nhập với thiên nhiên, từ đó trở thành chốn lý tưởng cho sự tĩnh ngộ của thiền giả.

Thiên nhiên trong thơ thiền gia không chỉ là một đối tượng thực tại mà còn là một "công cụ ngoại hoá" để truyền tải đạo Phật Nó không phải là mục tiêu cuối cùng mà thiền gia hướng tới, mà là một thiên nhiên đã vượt ra ngoài thế giới hiện thực, đạt tới trạng thái của "cõi ngoài cõi, phương ngoài phương" Thiên nhiên đóng vai trò là môi trường và nguồn cảm hứng cho việc ngộ đạo, đồng thời giúp thiền gia diễn đạt triết lý nhân sinh và thế giới của mình.

Trong thơ thiền đời Trần, việc sử dụng hình ảnh thiên nhiên là một đặc điểm nổi bật, điều này khác biệt rõ rệt so với thơ thiền đời Lý, nơi thiên nhiên ít được nhắc đến và không trở thành hình tượng chính Thời Trần chứng kiến sự gia tăng đáng kể về số lượng tác phẩm văn học Phật giáo, đặc biệt là thơ thiên nhiên Chẳng hạn, thơ Huyền Quang hiện còn hơn 20 bài, chủ yếu tập trung vào chủ đề thiên nhiên Trong tác phẩm của ông, hình ảnh con người hiện lên “hồn nhiên”, “vô biệt” trước thiên nhiên tĩnh tại và siêu thoát.

Hoa ở dưới sân, người ở trên lầu,

Một mình thắp hương ngồi tự nhiên quên hết phiền muộn Người với hoa hồn nhiên không cạnh tranh,

Trong các loài hoa thì cúc trội hơn một bậc.

(Hoa tại trung đình, nhân tại lâu,

Phần hương độc tọa tự vong ưu Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh,

Hoa hướng quân phương xuất nhất đầu.)

- Cúc hoa, Thơ văn Lý - Trần, Tập II

Thiên nhiên trong thơ Huyền Quang mang vẻ đẹp buồn bã, thể hiện sự hòa quyện giữa hai yếu tố động và tĩnh, tạo nên bức tranh sinh động và sâu lắng.

Một chiếc thuyền con, một khách hải hồ, Chèo khỏi rặng lau tiếng gió xào xạc.

Bốn bể mịt mù, con nước buổi chiều đương lên,

Một chim âu trắng giữa khoảng trời nước liền nhau (Nhất diệp biển chu hồ hải khách,

Xanh xuất vi hàng phong thích thích Vi mang tứ cố vãng triều sinh,

Giang thủy liên thiên nhất âu bạch.)

- Chu trung, Thơ văn Lý - Trần, Tập II

Giữa tiếng gió xào xạc và con nước đang lên, hình ảnh con chim âu trắng nhỏ bé kết nối hai không gian rộng lớn của trời và nước, tạo nên sự liên kết vĩnh cửu Điều đọng lại trong lòng người đọc không phải là âm thanh của gió hay sóng nước, mà là một cảm giác tĩnh tại và an nhiên.

Trong thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ, thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp tự do và phóng khoáng, phản ánh chính con người ông Ông rời bỏ cuộc sống trần tục đầy bụi bặm, đưa thiên nhiên và con người vào một "cõi ngoại cõi, phương ngoại phương".

Thuyền nhỏ lênh đênh trên dòng sông dài, Mái chèo nhịp nhàng lướt qua đầu ghềnh Từ đâu vẳng lại một tiếng nhạn mới,

Bất giác thấy gió thu nổi khắp mười cõi (Tiểu dĩnh trường giang đãng dạng phù, Du dương trạo bát quá than đầu.

Nhất thanh hà xứ tân lai nhạn,

Chắc giác thu phong biến thập châu.)

- Giang hồ tự thích, Thơ văn Lý - Trần, Tập II

Chữ Nôm và văn Nôm trước Trần Nhân Tông

Tính từ “Nôm” cũng như tính từ “nồm” (gió nồm) có gốc gác ở danh từ

Chữ “Nôm” có nghĩa là nước Nam, nhưng đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa thống nhất về thời điểm xuất hiện của loại chữ này Sự hình thành một hệ thống văn tự thường cần thời gian dài, đặc biệt là với chữ Nôm, được cho là có tính chất tự phát Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chữ Nôm đã ra đời từ thời Bắc thuộc, trong khi Nguyễn Văn San trong cuốn Đại Nam quốc ngữ cho rằng chữ Nôm có nguồn gốc từ thời kỳ sớm hơn.

Sỹ Nhiếp nhận thấy rằng việc dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt không phải lúc nào cũng khả thi, dẫn đến việc chính quyền phải sử dụng chữ Hán để phiên âm âm tiếng Việt Từ đó, hệ thống văn tự Nôm đã dần dần hình thành Mặc dù quan điểm này được nhiều người công nhận, nhưng có thể khẳng định rằng trong thời Bắc thuộc, chữ Nôm chưa phát triển thành một hệ thống văn tự hoàn chỉnh để ghi âm ngôn ngữ dân tộc Hệ thống chữ Nôm chỉ thực sự được xây dựng trong quá trình phát triển của nước Đại Việt.

Hệ thống chữ Nôm, như một văn tự độc lập, chỉ thực sự hình thành trong thời kỳ Đại Việt độc lập Từ thế kỷ X, sau khi giành được độc lập, giai cấp phong kiến vẫn coi chữ Hán là văn tự chính thức của Nhà nước, trong khi chữ Nôm đôi khi được sử dụng bổ sung cho chữ Hán trong các công văn khi cần thiết.

Từ thế kỷ X, các triều đình phong kiến đã tổ chức quân đội và công việc hành chính, dẫn đến nhu cầu làm sổ bạ về cương giới, ruộng đất và dân số Tầng lớp trí thức đã bổ sung và chỉnh lý chữ Nôm, giúp nó phù hợp với thực tế dân tộc và trở thành một hệ thống văn tự hoàn chỉnh Đến thế kỷ XII và XIII, chữ Nôm đã đủ khả năng ghi âm ngôn ngữ dân tộc, tạo điều kiện cho phong trào thơ Nôm phát triển Một sự kiện giữa Đinh Củng Viên và Lê Tòng Giáo năm 1288 cho thấy lệ cũ yêu cầu viết và đọc chiếu chỉ bằng tiếng Việt và Hán, khẳng định rằng đến giữa thế kỷ XIII, tiếng Việt đã thực hiện đầy đủ chức năng văn tự Tuy nhiên, nhiều tác phẩm viết bằng chữ Nôm, từ các bản kinh đến các tác phẩm văn học như Tiều ẩn quốc ngữ thi tập của Chu Văn An, đã bị thất lạc qua thời gian và biến cố lịch sử.

Văn học Nôm chỉ xuất hiện khi hệ thống chữ Nôm đã hoàn chỉnh, và hiện chưa có bằng chứng cho thấy văn học chữ Nôm ra đời trước thời Trần Tư liệu văn học chữ Nôm từ thời Trần hiện còn rất ít, nhưng những tài liệu này đủ để khẳng định rằng văn học chữ Nôm đã hình thành trong dòng văn học viết của Đại Việt vào thời kỳ này.

Vai trò của hai tác phẩm Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca trong nền văn học Việt Nam

thú lâm tuyền thành đạo ca trong nền văn học Việt Nam

4.2.1 Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca – Sự kết tinh của tinh thần và ngôn ngữ dân tộc

Theo các nghiên cứu, bài thơ tiếng Việt cổ nhất được biết đến là bài Giáo trò, thường gắn liền với thiền sư Đạo Hạnh (? -1117) Bài thơ này ngắn gọn, chỉ gồm 32 chữ, nhưng vẫn chưa được xác định rõ về văn bản học, dẫn đến nhiều nghi vấn Đến thời vua Trần Nhân Tông, văn học tiếng Việt mới có những tác phẩm hoàn chỉnh và được bảo tồn, như Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của nhà vua, cùng Vịnh Vân Yên tự phú của Huyền Quang và Giáo tử phú của Mạc Đĩnh Chi Điều này cho thấy vị trí quan trọng của văn học dưới triều đại Trần Nhân Tông trong lịch sử văn hóa dân tộc.

Bản in xưa nhất của hai tác phẩm này là bản in năm 1745, được sa di ni Diệu Liên in lại theo lệnh thầy và lưu giữ tại chùa Liên Hoa ở Thăng Long Trước thế kỷ XVII, không có thông tin nào về sự tồn tại của hai bài phú này, nhưng trong khoảng 300 năm qua, chúng đã được ghi nhận và nghiên cứu.

Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca đã được in ấn và phổ biến rộng rãi, cho thấy tư tưởng của Cư trần lạc đạo phú vẫn tiếp tục được học tập và truyền bá qua nhiều giai đoạn lịch sử Mặc dù Phật giáo và dân tộc ta đã trải qua nhiều thay đổi, giá trị lý luận của tư tưởng này vẫn thu hút mạnh mẽ, đặc biệt vào cuối thế kỷ XVIII với những chiến công oanh liệt của quân dân Tây Sơn Trong bối cảnh đó, nhiều Phật tử tự nhận là người kế thừa truyền thống Trúc Lâm, như binh bộ thượng thư Tỉnh Phái Hầu Ngô Thời Nhiệm và thiền sư Hải Lượng, hay tiến sĩ Nguyễn Đăng Sở với danh xưng thiền sư Hải Âu.

Trước khi có bản in sớm nhất, có thể khẳng định rằng trong thời kỳ Phật giáo phát triển mạnh mẽ, việc nghiên cứu hai tác phẩm của vua Trần Nhân Tông đã diễn ra Mặc dù chưa có thông tin xác thực về sự tồn tại của hai tác phẩm này trong giai đoạn đó, nhưng chúng đã được lưu truyền và ảnh hưởng đến văn hóa Phật giáo cho đến cuối thế kỷ XVII.

Nguyên là nguồn cảm hứng cho việc trích dẫn trong Kiến tính thành Phật, đóng vai trò quan trọng trong dòng chảy văn học và tư tưởng tiếng Việt Những tác phẩm này đã tạo nền tảng cho sự phát triển của văn học Nôm, đạt đến đỉnh cao với tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.

Hai tác phẩm này thuộc thể loại văn học luận đề, thể hiện những vấn đề tư tưởng và lý luận bằng tiếng Việt một cách khéo léo và dễ hiểu Sự đồ sộ của chúng đánh dấu sự ra đời và trưởng thành của ngôn ngữ dân tộc, khẳng định vai trò của tiếng Việt trong sáng tác văn học Hai tác phẩm này không chỉ chuyển tải những tư tưởng trừu tượng mà còn mang đến vẻ đẹp riêng, đóng góp lớn cho văn học Việt Nam.

Thành quả văn học ngày nay là sự kế thừa tinh hoa của hơn ngàn năm phát triển, khiến chúng ta cảm nhận được sự gần gũi và dễ hiểu, khác biệt hoàn toàn với những câu văn khó hiểu của người ngoại quốc cách đây 300 năm Để đạt được giọng văn lý luận trong Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, tiếng Việt đã trải qua thiên niên kỷ thử thách, trở thành biểu tượng chống lại mưu đồ Hán hóa trong suốt thời kỳ Bắc thuộc Hai tác phẩm này không chỉ là sản phẩm của sự sáng tạo văn chương mà còn là kết quả của những nỗ lực phi thường trong cuộc đấu tranh bảo vệ dân tộc và chủ quyền quốc gia, từ đó gia tăng giá trị văn học của chúng.

Ngôn ngữ văn học không thể xuất hiện một cách đột ngột mà cần trải qua một quá trình kết tụ lâu dài Ngay cả những ngôn ngữ lớn như tiếng Hán hay tiếng Hy Lạp cũng đã trải qua giai đoạn phát triển tương tự Tiếng Việt cũng không ngoại lệ, với những tác phẩm văn học như Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca được hình thành từ những bài ca và văn bản cổ xưa Quá trình sử dụng thành thạo tiếng Việt đã tạo cơ hội cho sự ra đời của những tác phẩm này, chứng tỏ sự đấu tranh gian khổ của ngôn ngữ trong việc khẳng định vị thế văn học Sự phát triển của tiếng Việt không chỉ là một hành trình đầy thử thách mà còn là nền tảng cho sự xuất hiện của những tác phẩm văn học nổi tiếng.

Từ góc độ nghiên cứu ngôn ngữ, Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca là những minh chứng rõ ràng cho sự phong phú và giàu có của tiếng Việt.

Cư trần lạc đạo phú được chia thành 10 hội với gần 180 câu, tổng cộng có 1688 hạng từ, bao gồm tên đầu đề, tên các hội và bài thơ chữ Hán Riêng số từ vựng trong các hội là 1623 hạng từ, trong đó nhiều từ Việt xuất hiện thường xuyên như lòng (18 lần), cho (13 lần), chẳng (13 lần), mới (12 lần) và Bụt (10 lần) Nếu lập danh sách các tên người, tên đất, từ chuyên môn và từ phiên âm, số hạng từ còn lại khoảng hơn 1400, bao gồm các từ như Thích Ca, Di Đà, Di Lặc, bát nhã, chiêm bặc, chiên đàn, bồ đề, bồ tát, đàn việt, ưu đàm, Câu Chi, Diễn Nhã Đạt Đa, với nhiều từ phiên âm từ tiếng Phạn.

Thay vì phân loại thành 26 hạng từ riêng biệt, chúng ta có thể rút gọn còn 12 hạng từ khi nhóm các thuật ngữ chuyên môn như bát phong, bát thức, cực lạc, đại thừa, và tiểu thừa lại với nhau Tương tự, các khái niệm như hữu lậu, kim cương, và vô lậu cũng có thể được xếp vào các hạng mục từ, giúp giảm tổng số hạng từ xuống chỉ còn 32 thay vì 64 Ngoài ra, các tên đất và tên người như Yên Tử, Cánh Diều, và Hà Hữu cũng có thể được xem xét trong việc phân loại này.

La, Thiên Trúc, Thiếu Lâm, Tào Khê, Thiếu Thất, Lư Lăng, Phá Táo, Thạch Đầu, Lâm Tế, Bí Ma, Thuyền Tử, Đạo Ngô, Thiều Dương, Triệu Lão, Thiên Cang, Thái Bạch là những tên gọi tiêu biểu trong bộ từ vựng phong phú khoảng 1400 từ, phản ánh ngôn ngữ của dân tộc vào thời vua Trần Nhân Tông.

Còn Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca gồm 88 câu, với lượng từ lên đến 336, trong đó trừ những trùng lặp đã có đến 238 hạng từ.

Khi gộp chung hai tác phẩm "Cư trần lạc đạo phú" và "Đắc thú lâm tuyền", chúng ta tạo ra một bộ từ vựng gần 2000 từ, tương đương với một từ điển nhỏ Điều này giúp chúng ta có được cái nhìn tương đối hoàn chỉnh về ngôn ngữ dân tộc vào thời kỳ Trần Nhân Tông, tức thế kỷ XIII, cách đây hơn 700 năm.

Qua những con số ấn tượng, ta nhận thấy thành tựu to lớn và vị trí quan trọng của hai tác phẩm văn học này trong lịch sử văn học dân tộc.

4.2.2 Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca với quá trình Việt hóa Phật giáo Đạo Phật và Thiền tông đã du nhập vào nước ta từ rất sớm, không chỉ trên phương diện lễ nghi tư tưởng mà cả kinh sách nội điển Ngay từ thế kỷ I Sau công nguyên, đạo Phật đã có mặt ở nước ta Còn sự xuất hiện của Thiền tông được ghi mốc năm 580 khi thiền sư Ấn Độ là Tì-ni-đa-lưu-chi qua truyền giáo,lập ra dòng thiền đầu tiên tại Việt Nam Gắn với quá trình ra đời và phát triển củaPhật giáo, thì hệ thống kinh kệ cũng dần được hình thành Tuy nhiên nguồn kinh chủ yếu được lấy từ Trung Quốc với chữ viết là chữ Hán Thời Đinh-Lê vẫn chỉ lưu hành những kinh sách đã được du nhập từ thời Bắc thuộc Đến năm

Ngày đăng: 25/03/2022, 10:09

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, ba tập - NXB KHXH, H.1992 Khác
2. Trương Văn Chung: Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần - NXB CTQG, H.1998 Khác
3. Đoàn Trung Còn: Các tông phái đạo Phật - NXB Thuận Hoá, 1995 4. Đỗ Thanh Dương: Trần Nhân Tông – Nhân cách văn hoá lỗi lạc - NXBĐHQG HN, H. 2003 Khác
9. Nhiều tác giả: Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần - NXB KHXH, H.1981 Khác
10. Nhiều tác giả: Việt Nam ba lần đánh quân Nguyên xâm lược - NXB QĐND, H.1981 Khác
11. Nhiều tác giả: Thiền học thời Trần - NXB Tôn giáo, 2003 Khác
12. Nhiều tác giả: Trần Nhân Tông - Vị vua Phật Việt Nam - NXB Tổng hợp TP. HCM, 2004 Khác
13. Nhiều tác giả: Nhà Trần và con người thời Trần - Viện sử học, hội Khoa học lịch sử Việt Nam, trung tâm UNESCO thông tin tư liệu lịch sử và văn hoá Việt Nam, 2004 Khác
14. Nhiều tác giả: Từ điển Phật học Hán Việt - NXB KHXH, H.2004 Khác
15. Nhiều tác giả: Một số vấn đề về lý luận và lịch sử văn học – NXB ĐHQGHN, 2002 Khác
16. Trần Văn Giáp: Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIII (Tuệ Sĩ Dịch) - NXB ĐH Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1968 Khác
17. Lê Bá Hãn (Chủ biên): Từ điển thuật ngữ Văn học - NXB GD, H.1992 18. Nguyễn Hùng Hậu: Đại cương triết học Phật giáo từ khởi nguyên đến thếkỷ XIV - NXB KHXH, H.1996 Khác
19. Nguyễn Hùng Hậu: Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam - NXB KHXH, H.1997 Khác
20. Nguyễn Duy Hinh: Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam - NXB Hội nhà văn Việt Nam, 1999 Khác
21. Nguyễn Duy Hinh: Tư tưởng Phật giáo Việt Nam - NXB Hội nhà văn Việt Nam, 1999 Khác
22. Nguyễn Phạm Hùng: Văn học Lý - Trần nhìn từ thể loại - NXB GD, H.1996 Khác
23. Nguyễn Phạm Hùng: Thơ thiền Việt Nam - Những vấn dề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật - NXB ĐHQG, H.1998 Khác
24. Nguyễn Phạm Hùng: Văn học Việt Nam (Từ thế kỷ X đến thế kỷ XX) - NXB ĐHQG HN, H.2001 Khác
25. Viện Văn học: Thơ văn Lý - Trần, Tập I - NXB KHXH, H.1977 26. Viện Văn học: Thơ văn Lý - Trần, Tập III - NXB KHXH, H.1978 Khác
27. Viện Văn học: Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Quyển thượng - NXB KHXH, H.1989 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w