1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH XÃ HỘI HỌC ĐÈ TÀI: TẬP QUÁN TRONG SẢN XUẤT VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ (Nghiên cứu trường hợp tại xã Mậu Long – huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang)

100 111 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 100
Dung lượng 206,83 KB
File đính kèm KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP XÃ HỘI HỌC.rar (203 KB)

Cấu trúc

  • LỜI CAM ĐOAN

  • TÓM TẮT KHÓA LUẬN

  • MỤC LỤC

  • DANH MỤC CÁC BẢNG

  • DANH MỤC HỘP

  • PHẦN 1: GIỚI THIỆU

  • 1.1 Đặt vấn đề

  • 1.2 Mục tiêu nghiên cứu

    • 1.2.1 Mục tiêu chung

    • 1.2.2 Mục tiêu cụ thể

  • 1.3 Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu

    • 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu

    • 1.3.2 Khách thể nghiên cứu

    • 1.3.3 Phạm vi nghiên cứu

  • PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

  • 2.1 Các lý thuyết nền cho đề tài nghiên cứu

    • 2.1.1 Lý thuyết hành động xã hội Max Weber

    • 2.1.2 Lý thuyết sự lựa chọn hợp lý

  • 2.2 Các nghiên cứu liên quan

    • 2.2.1 Các nghiên cứu liên quan đến hoạt động sản xuất của người dân tộc

    • 2.2.2 Các nghiên cứu liên quan đến tập quán sinh hoạt của người dân tộc

  • 2.3 Các khái niệm liên quan đến đề tài

  • PHẦN 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

  • 3.1 Chọn điểm nghiên cứu

  • 3.2 Phương pháp thu thập thông tin

    • 3.2.1 Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp

    • 3.2.2 Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp

    • 3.3.3 Phương pháp phân tích và xử lí số liệu

  • 3.4 Khung phân tích

  • Tìm hiểu tập quán trong sản xuất và sinh hoạt của người dân tộc thiểu số nghiên cứu tại xã Mậu Long, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang. Nghiên cứu về tập quán của các hộ gia đình người dân tộc Giáy và các hộ gia đình người dân tộc Tày trong hoạt động sản xuất nông nghiệp như tập quán trồng trọt, chăn nuôi; tập quán trong sinh hoạt hàng ngày như sử dụng nguồn nước, nhà vệ sinh và tập quán ma chay, sinh đẻ.

  • PHẦN 4: KẾT QỦA NGHIÊN CỨU

  • 4.1. Tập quán trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của người dân tộc

    • 4.1.1. Tập quán trồng trọt của người dân tộc

    • 4.1.2. Tập quán chăn nuôi của người dân tộc

  • 4.2. Tập quán sinh hoạt của người dân tộc

    • 4.2.1. Tập quán sử dụng nguồn nước uống của người dân tộc

    • 4.2.2. Nhà vệ sinh sử dụng của người dân tộc

  • 4.3. Tập quán trong các hoạt động ma chay – cúng bái và sinh đẻ của người dân tộc

    • 4.3.1. Tập quán trong ma chay của người dân tộc

    • 4.3.2. Tập quán trong cúng bái của người dân tộc

    • 4.3.3. Tập quán trong sinh đẻ của người dân tộc

    • Hiện nay nơi sinh đẻ của người dân phần lớn là tại bệnh viện, tuy nhiên ở vùng miền núi người dân tộc chủ yếu vẫn chọn nơi sinh đẻ tại nhà ở của mình.

  • KẾT LUẬN

  • Nhìn chung tập quán trong sản xuất của người dân tộc thiểu số vẫn còn theo lối truyền thống. Các loại cây trồng của người dân chủ yếu là lúa nước và ngô, ngoài ra người dân còn trồng thêm khoai, sắn để làm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Thời gian trồng lúa vào tháng 5-6 (mùa mưa) do phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên người dân chỉ canh tác một vụ trong năm. Hình thức canh tác chủ yếu là ruộng bậc thang, công cụ sản xuất thô sơ như: cuốc, dao, liềm,…dựa vào sức kéo trâu bò, máy móc ít được đưa vào sản xuất do địa hình không bằng phẳng. Phương tiện vận chuyển lúa từ ruộng về nhà được người dân dùng xe máy để vận chuyển thay thế cho việc gánh, vác trước đây. Bên cạnh đó tính cộng đồng của người dân trong sản xuất cao, mọi người thường giúp đỡ nhau mỗi khi mùa vụ đến. Trong chăn nuôi, người dân thường chăn thả tự nhiên ở trên đồi hay ngoài đồng ruộng, phần lớn người dân nuôi trâu, bò để lấy sức kéo phục vụ sản xuất nông nghiệp.

  • Phần lớn nguồn nước ăn uống của người dân đều là nước dẫn từ khe đầu nguồn về. Bên cạnh việc người dân đã sử dụng nước đun sôi để uống thì còn một số ít người dân vẫn còn thói quen uống nước lã, nguyên nhân do nhận thức của người dân còn hạn chế. Mỗi dân tộc có cách bảo vệ nguồn nước riêng như: không chặt cây đầu nguồn, trồng cây gây rừng, không cho trâu bò lên đầu nguồn nước. Quan niệm về nhà tiêu hợp vệ sinh của người dân là: Xây dựng cách nguồn nước ăn uống, sinh hoạt 10m trở lên, có mái lợp ngăn nước mưa, có cửa và xung quanh nhà tiêu được che chắn kín đáo,…bên cạnh đó cũng có một số người dân chưa biết nhà tiêu hợp vệ sinh là thế nào. Nhà vệ sinh của người dân chủ yếu là nhà vệ sinh thô sơ, người dân còn thói quen đi ngoài trời không làm nhà vệ sinh do thiếu điều kiện kinh tế, người dân còn thiếu thông tin, chưa được tiếp xúc nhiều với các phương tiện truyền thông liên quan đến việc vệ sinh.

  • Về tập quán trong ma chay, cúng bái, sinh đẻ của người dân còn theo thói quen, tập quán của cha ông để lại. Các bước trong tang ma vẫn được duy trì như: Báo tang, gọi thầy cúng, rửa mặt cho người mất, đắp khăn trắng, nhập quan, chôn cất. Thời gian tổ chức tang ma từ 3-4 ngày được rút ngắn hơn ngày xưa. Những kiêng kỵ trong tang ma đó là không ăn quả chua, không ăn thịt, không ăn lòng, tiết canh, không gội đầu,…bởi người dân quan niệm khi có người mất thì con cháu trong gia đình phải kiêng những điều này để thể hiện lòng hiếu thảo, sự biết ơn đối với người mất. Khi ốm đau người dân vẫn còn cúng bái, chỉ khi ốm nặng quá thì họ mới đi bệnh viện hoặc vừa đi viện vừa cúng bái vì họ tin rằng một phần ma, ba phần thuốc. Nơi sinh đẻ của người dân tộc Giáy chủ yếu vẫn là ở tại nhà một phần là do tập quán, một phần là vì không có điều kiện kinh tế, giao thông đi lại khó khăn nên đẻ tại nhà là sự lựa chọn của người dân.

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHỤ LỤC

Nội dung

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc có một lịch sử phát triển, bản sắc văn hóa riêng. Phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số là một bức tranh rực rỡ sắc màu, các mảng khối đậm đà kết lại hài hòa và vô cùng sinh động, phản ánh sự tôn vinh giá trị con người, tình yêu thương, sự gắn kết con người trong cộng đồng dân tộc. Thông qua điều tra 25 hộ gia đình người dân tộc Tày và 30 hộ gia đình người dân tộc Giáy bằng bảng hỏi, thực hiện 10 phỏng vấn sâu, kết quả nghiên cứu cho thấy tập quán trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, trong sinh hoạt, trong ma chaycúng bái và sinh đẻ của người dân tộc Tày và người dân tộc Giáy còn theo thói quen truyền thống. Trong sản xuất nông nghiệp, loại cây trồng chính là lúa và ngô, hình thức làm là ruộng bậc thang, vận chuyển lúa bằng xe máy, công cụ sản xuất là cuốc, dao, liềm, máy cày,…Người dân chăn nuôi trâu, bò để phục vụ sản xuất là chủ yếu. Trong sinh hoạt, người dân sử dụng nước khe để ăn, uống, phần lớn người dân đều dùng nước đun sôi để uống, bên cạnh đó cũng có một số hộ gia đình còn thói quen sử dụng nước lã. Đa số người dân đều sử dụng nhà vệ sinh thô sơ, không hợp vệ sinh tiêu chuẩn. Về ma chay, cúng bái và sinh đẻ người dân còn nhiều điều kiêng kỵ, người dân tộc Tày và người dân tộc Giáy có một đặc điểm đó là có tính cộng đồng cao trong ma chay và sinh đẻ, tạo nên tập quán riêng có của người dân tộc. Nhìn chung, tập quán sản xuất và sinh hoạt của người dân tộc Tày và người dân tộc Giáy ở xã Mậu Long có sự thay đổi để phù hợp với đời sống kinh tế xã hội, nhưng về cơ bản vẫn giữ những yếu tố truyền thống ông cha để lại.

GIỚI THIỆU

Đặt vấn đề

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với mỗi dân tộc có lịch sử và bản sắc văn hóa riêng Các dân tộc thiểu số thường sinh sống ở vùng núi và biên giới, đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng giành độc lập Họ đã có những đóng góp lớn lao cho cuộc đấu tranh giành và giữ gìn độc lập của dân tộc Hiện nay, trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, đời sống của các dân tộc thiểu số đã có những bước tiến đáng kể.

Phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số tạo nên một bức tranh văn hóa rực rỡ, thể hiện sự tôn vinh giá trị con người và tình yêu thương trong cộng đồng Những nét văn hóa độc đáo này chủ yếu xuất hiện ở khu vực biên giới, miền núi và trung du, góp phần vào đời sống hàng ngày và sự phát triển của đất nước Các phong tục tập quán đã trở thành thói quen trong xã hội, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và được mọi người công nhận và thực hiện.

Theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân tộc Giáy có tổng số 58.617 người, trong khi dân tộc Tày là 1.626.392 người, chủ yếu cư trú tại các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu và Cao Bằng Người dân tộc thiểu số chủ yếu làm ruộng nước và có kinh nghiệm canh tác lúa nước trên ruộng bậc thang Họ cũng trồng thêm ngô, các loại cây có củ và rau xanh trên nương rẫy Ngoài ra, đồng bào còn nuôi nhiều trâu, lợn và gà Tuy nhiên, thói quen sinh hoạt hàng ngày của họ vẫn còn hạn chế, như việc đi vệ sinh ngoài trời, uống nước lã và duy trì các nghi lễ cúng bái khi ốm đau (Đỗ Phượng, 2006).

Văn hóa truyền thống của các dân tộc, mặc dù mang lại nhiều giá trị tốt đẹp, vẫn tồn tại những hạn chế ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất (Vi Hoàng, 2008) Trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, nhiều dân tộc thiểu số, như tại xã Mậu Long, vẫn duy trì thói quen và tập quán truyền thống, dẫn đến khó khăn trong đời sống Phương thức sản xuất, canh tác và chăn nuôi vẫn còn thô sơ, và việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất gặp nhiều trở ngại Hơn nữa, các tập quán sinh hoạt hàng ngày, bao gồm ma chay, cúng bái và sinh đẻ, cần được thay đổi để nâng cao chất lượng cuộc sống Chính vì lý do này, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Tập quán trong sản xuất và sinh hoạt của người dân tộc thiểu số” với trường hợp tại xã Mậu Long, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang.

Mục tiêu nghiên cứu

Tìm hiểu tập quán trong sản xuất và sinh hoạt của người dân tộc

- Tìm hiểu tập quán trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của người dân tộc tại xã Mậu Long, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang.

- Tìm hiểu tập quán trong sinh hoạt hàng ngày của người dân tộc tại xã Mậu Long, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang.

- Tìm hiểu tập quán trong các hoạt động ma chay – cúng bái và sinh đẻ của người dân tộc tại xã Mậu Long, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang.

Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là tập quán trong sản xuất và sinh hoạt của người dân tộc

Các hộ gia đình người dân tộc Giáy và dân tộc Tày tại xã Mậu Long, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang.

Bài viết này nghiên cứu tập quán sản xuất và sinh hoạt của người dân tộc Giáy, đặc biệt là trong hoạt động ma chay và sinh đẻ Thông qua việc khảo sát các hộ gia đình của người dân tộc Giáy và Tày, chúng ta có cái nhìn sâu sắc về những phong tục tập quán độc đáo của hai dân tộc này, từ đó hiểu rõ hơn về văn hóa và lối sống của họ.

- Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại địa bàn xã Mậu Long, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang.

- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu các hộ gia đình dân tộc thiểu số từ năm

2000 trở lại đây để tìm hiểu tập quán trong sản xuất và sinh hoạt của người dân tộc Tày và dân tộc Giáy.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Chọn điểm nghiên cứu

Xã Mậu Long, được thành lập vào ngày 1/3/1997, nằm cách trung tâm huyện Yên Minh 32km về phía Đông Nam và có diện tích 6.734,29 ha Là một xã nghèo với 11 dân tộc anh em sinh sống tại 18 thôn, Mậu Long có tổng cộng 1.128 hộ và 6.117 khẩu, trong đó dân tộc Giáy chiếm 225 hộ và dân tộc Tày có 61 hộ Với vị trí địa lý và khí hậu không thuận lợi, xã Mậu Long gặp nhiều khó khăn trong việc giao lưu và phát triển kinh tế - xã hội với các xã trong huyện và các vùng lân cận.

Xã Mậu Long chủ yếu dựa vào nông nghiệp truyền thống với diện tích trồng lúa đạt 196ha và sản lượng 1.128,9 tấn, cùng với diện tích trồng ngô là 634,8ha, sản lượng 2.447,7 tấn (UBND xã Mậu Long, 2017) Người dân còn chăn nuôi gia súc như trâu bò để phục vụ sản xuất, tuy nhiên, kinh tế vẫn chủ yếu mang tính tự cung tự cấp và sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ Mặc dù có sự phát triển kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhưng hoạt động sản xuất nông nghiệp ở đây vẫn giữ lối truyền thống, chưa áp dụng nhiều công nghệ mới Trong chăn nuôi, người dân vẫn sử dụng phương pháp chăn thả và thiếu kiến thức về vệ sinh chuồng trại Ngoài ra, thói quen sinh hoạt như uống nước lã và tỷ lệ hộ gia đình không có nhà tắm, nhà vệ sinh còn cao Chính vì những đặc điểm này, xã Mậu Long là địa điểm nghiên cứu có tính đại diện cao.

Phương pháp thu thập thông tin

3.2.1 Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp Đề tài sử dụng thông tin thứ cấp được thu thập từ các nguồn: tài liệu, các báo cáo của địa phương, internet, sách báo, tạp chí chuyên ngành, nhằm tìm hiểu các thông tin liên quan đến tập quán trong sản xuất và sinh hoạt hàng ngày của người dân tộc thiểu số.

3.2.2 Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp

Phương pháp điều tra bảng hỏi được thực hiện thông qua việc chọn mẫu ngẫu nhiên từ danh sách hộ gia đình dân tộc Giáy và Tày Cụ thể, trong số 61 hộ gia đình Tày, 25 hộ được chọn, và trong 225 hộ gia đình Giáy, 30 hộ được khảo sát Mục tiêu của nghiên cứu là tìm hiểu tập quán sản xuất, sinh hoạt hàng ngày, cũng như các hoạt động liên quan đến ma chay và sinh đẻ của hai nhóm dân tộc này Đề tài sử dụng bảng hỏi điều tra 55 mẫu để thu thập thông tin, tập trung vào các khía cạnh nông nghiệp, sinh hoạt và các nghi lễ truyền thống.

Phương pháp phỏng vấn sâu được áp dụng để thực hiện 10 cuộc phỏng vấn, trong đó có 5 cuộc phỏng vấn với các hộ gia đình dân tộc Tày, tập trung vào việc tìm hiểu tập quán sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt, cũng như phong tục ma chay và sinh đẻ của người dân tộc này.

Đã tiến hành 5 cuộc phỏng vấn sâu với các hộ gia đình người dân tộc Giáy, tập trung vào chủ hộ, nhằm tìm hiểu về tập quán trong sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt hàng ngày Ngoài ra, nghiên cứu cũng khám phá các phong tục liên quan đến ma chay và sinh đẻ của cộng đồng này.

3.3.3 Phương pháp phân tích và xử lí số liệu

Sau khi thu thập, dữ liệu sẽ được chọn lọc và tổng hợp từ phiếu điều tra bằng phần mềm SPSS, nhằm phân tích và đánh giá kết quả một cách hiệu quả.

Khung phân tích

Nghiên cứu tập quán sản xuất và sinh hoạt của người dân tộc thiểu số tại xã Mậu Long, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang, tập trung vào các hộ gia đình người dân tộc Giáy và Tày Bài viết phân tích các phương thức sản xuất nông nghiệp, bao gồm tập quán trồng trọt và chăn nuôi, cùng với thói quen sinh hoạt hàng ngày như sử dụng nguồn nước, nhà vệ sinh, và các phong tục liên quan đến ma chay, sinh đẻ.

Trong hoạt động ma chay – cúng bái và sinh đẻ

Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp

Trong sinh hoạt hàng ngày

KẾT QỦA NGHIÊN CỨU

Tập quán trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của người dân tộc

Ở vùng cao, đặc biệt tại các vùng nông thôn, nông nghiệp là hoạt động kinh tế chính của người dân Tại xã Mậu Long, hơn 90% người dân sống dựa vào canh tác lúa nước, bên cạnh đó, họ cũng trồng một số cây như ngô, khoai, và sắn để phục vụ đời sống Đối với người dân tộc Tày và Giáy, lúa nước và ngô là những loại cây trồng chủ yếu, cùng với khoai và sắn.

Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)

Nghiên cứu năm 2018 cho thấy, cả người dân tộc Tày và Giáy đều 100% chọn trồng lúa nước và ngô, phản ánh sự phù hợp với điều kiện đất đai và khí hậu địa phương Đây là những loại cây trồng truyền thống, đóng vai trò quan trọng trong kinh tế và cung cấp lương thực chính cho các hộ gia đình của cả hai dân tộc.

Hộp 4.1: Lý do cây lúa nước và cây ngô là cây trồng chính

Gia đình cô có truyền thống lâu đời trong việc trồng lúa nước và ngô, hai loại cây cung cấp lương thực chính cho gia đình Họ không muốn chuyển sang trồng các loại cây khác vì đã quen với việc canh tác những cây này và lo ngại rằng sẽ không thể trồng được cây mới.

(PVS, nữ dân tộc Giáy, 37 tuổi)

Nhà bác chủ yếu trồng lúa nước và ngô, những loại cây đã được canh tác từ đời ông bà Đối với nhà nông, lúa và ngô là cây trồng chủ lực, không có sự lựa chọn nào khác Việc thay đổi chỉ diễn ra ở giống cây, nhằm nâng cao năng suất và chất lượng, nhưng việc ngừng trồng lúa và ngô là không thể.

(PVS, nam dân tộc Tày, 45 tuổi)

Người dân tộc Giáy trồng khoai với tỷ lệ cao lên tới 73,3%, chủ yếu để lấy rau và củ cho chăn nuôi lợn, với nguồn thức ăn hoàn toàn tự nhiên Họ thường trồng khoai lang và khoai sọ, có thể xen canh dưới ruộng ngô, giúp tiết kiệm công sức trong việc tìm kiếm thức ăn cho lợn Một người phụ nữ dân tộc Giáy chia sẻ: “Nhà cô có mảnh vườn trồng rau khoai lang, trồng nhiều rau khoai thì không phải đi tìm rau khác cho lợn ăn đỡ vất vả hơn Trồng khoai thì không phải chăm sóc nhiều.” Trong khi đó, người dân tộc Tày trồng cây sắn với tỷ lệ 44%.

Người Tày trồng sắn với tỷ lệ cao vì đây là nguồn thức ăn tiết kiệm cho gia súc như gà và vịt Việc trồng sắn không đòi hỏi nhiều công chăm sóc, chỉ cần bảo vệ khỏi gia súc phá hoại Đến mùa thu hoạch, họ chỉ cần thu gom và sử dụng, mang lại hiệu quả cao cho việc chăn nuôi.

Trong mùa vụ trồng lúa, người dân tộc Tày và Giáy thường chỉ trồng một vụ trong năm do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên Tuy nhiên, một số gia đình người Tày có thể thực hiện hai vụ trong năm nhờ vào hệ thống mương dẫn nước ổn định.

Hộp 4.2: Lý do người dân có tập quán trồng một vụ trong năm

“Nhà chú trồng lúa nước, trồng ngô, khoai một vụ thôi bởi vì thiếu nước

Việc canh tác hai vụ mùa ngày càng trở nên khó khăn, vì hiện nay lượng mưa giảm dần, trong khi hạn hán và nắng nóng kéo dài Do đó, việc hoàn thành một vụ mùa đã được coi là thành công.

(PVS, nam dân tộc Giáy, 43 tuổi)

Gia đình anh chỉ trồng một vụ mùa do phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên trong nông nghiệp Họ chỉ cần sản xuất đủ lương thực để ăn, vì số lượng người trong nhà ít và công việc hoàn toàn dựa vào sức lao động của con người.

(PVS, nam dân tộc Tày, 31 tuổi)

Gia đình bác trồng lúa nước hai vụ nhờ dẫn mương nước từ suối về, trong khi các loại cây như ngô và sắn chỉ được trồng một vụ Diện tích ruộng của gia đình bác chỉ có vài sào và tập trung ở một chỗ, thuận lợi cho việc canh tác.

(PVS, nam dân tộc Tày, 48 tuổi)

Cả hai dân tộc Tày và Giáy đều có truyền thống canh tác lúa nước và ngô, những loại cây trồng đã gắn bó lâu đời với họ Hầu hết chỉ canh tác một vụ mỗi năm, mặc dù một số gia đình có thể trồng lúa nước hai vụ Đặc biệt, ở xã Mậu Long, việc trồng lúa của người dân vùng cao hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, với thời điểm gieo trồng lý tưởng là vào mùa mưa.

Bảng 4.2: Thời gian trồng lúa

Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)

Nguồn: Số liệu điều tra năm 2018

Kết quả điều tra cho thấy cả người dân tộc Tày và Giáy đều trồng lúa nước từ tháng 5 đến tháng 10 trong mùa mưa, đạt 100% Việc canh tác lúa nương đã giảm, với chỉ 4% người Tày còn trồng do năng suất thấp và khó quản lý Người Giáy không trồng lúa nước vào mùa khô, khi đất đai khô cằn và nguồn nước hạn chế, chỉ một số ít hộ gia đình có hệ thống kênh mương hoàn chỉnh mới có thể canh tác trong thời gian này.

Hộp 4.3: Lý do không trồng lúa nước vào mùa khô của người dân tộc

Hiện nay, việc canh tác lúa nương không còn phổ biến do năng suất thấp và tỷ lệ nảy mầm không cao Thêm vào đó, việc trồng lúa nương thường xa nhà khiến người nông dân không thể quản lý, dẫn đến nguy cơ mất mùa từ gia súc của người khác hay sự phá hoại của chim muông thú.

(Pvs, nữ dân tộc Tày, 32 tuổi)

“Nhà anh trồng lúa vào mùa mưa khoảng tháng 5-6 thôi, mùa khô thì không trồng được vì không có nước”

(Pvs, nam dân tộc Giáy, 35 tuổi)

Tập quán canh tác lúa của người dân phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, với thời gian trồng chủ yếu vào mùa mưa từ tháng 5-6, trong khi một số ít người dân tộc Tày canh tác vào mùa khô Ở nước ta, địa hình đồi núi chiếm ưu thế, đặc biệt ở miền núi phía Bắc, khiến việc canh tác phụ thuộc nhiều vào địa hình Ruộng bậc thang là hình thức canh tác phù hợp nhất cho khu vực này, đặc biệt đối với người dân tộc Tày và Giáy, nơi họ chủ yếu áp dụng phương pháp này.

Bảng 4.3: Hình thức canh tác lúa

Hình thức canh tác lúa Tày (n%) Giáy (n0)

Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)

Nguồn: Số liệu điều tra năm 2018

Cả hai dân tộc Tày và Giáy đều canh tác lúa bằng hình thức ruộng bậc thang, với 100% người dân lựa chọn phương pháp này Điều này cho thấy địa hình là yếu tố quyết định trong việc chọn lựa hình thức canh tác, và người dân dựa vào địa hình để phát triển phương thức canh tác phù hợp Địa hình không chỉ là yếu tố quan trọng mà còn góp phần hình thành tập quán canh tác lúa nước bằng ruộng bậc thang Để tạo ra ruộng bậc thang, bước đầu tiên là tìm kiếm những khu đồi có nguồn nước hoặc khả năng dẫn nước Tiếp theo là công việc phát cỏ, dọn cây và đánh gốc, trong đó người khai khẩn cần hình dung rõ ràng về kích thước thửa ruộng.

Tập quán sinh hoạt của người dân tộc

4.2.1 Tập quán sử dụng nguồn nước uống của người dân tộc

Nước là nguồn tài nguyên thiết yếu cho sự sống trên trái đất, không thể thiếu trong đời sống con người và nền văn minh hiện đại Từ xa xưa, con người đã nhận thức được vai trò quan trọng của nước, bởi chúng ta có thể nhịn ăn nhưng không thể thiếu nước Nước sinh hoạt được sử dụng hàng ngày cho các nhu cầu như nấu nướng, giặt giũ và vệ sinh, và cần đảm bảo các tiêu chuẩn như không màu, không mùi, không vị lạ và không chứa thành phần độc hại Đối với người dân tộc Tày và Giáy, nguồn nước chính phục vụ cho ăn uống và sinh hoạt hàng ngày là nước khe dẫn từ đầu nguồn.

Bảng 4.11: Nguồn nước sử dụng trong sinh hoạt Nguồn nước ăn, uống Tày (n%) Giáy (n0)

Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)

Nguồn: Số liệu điều tra năm 2018

Địa hình đồi núi ở Mậu Long tạo điều kiện cho nhiều khe nước chảy ra từ núi, khiến cả hai dân tộc Tày và Giáy đều phụ thuộc vào nguồn nước khe cho sinh hoạt hàng ngày, với tỷ lệ sử dụng đạt 100% Trong khi đó, nước suối và nước mưa không được các hộ dân tộc sử dụng, trừ khi vào mùa mưa kéo dài, khi nguồn nước sạch cạn kiệt, các gia đình mới buộc phải dùng nước mưa thay thế.

Hộp 4.11: Lý do người dân sử dụng nước khe để ăn uống

“Từ khi sinh ra đến nay thì nhà chú vẫn dùng nước khe để ăn uống, sinh hoạt.

Tuy chú không biết là nước khe nó có đảm bảo hay không nhưng mà chú cảm thấy dùng nước khe vẫn sạch, an toàn hơn nước mưa nhiều”

(Pvs, nam dân tộc Giáy, 43 tuổi)

Nhà bác đã xây dựng một bể chứa nước khe dẫn từ đầu nguồn để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và ăn uống Bác luôn tin tưởng vào chất lượng nước khe, vì nó được lấy trực tiếp từ nguồn, đảm bảo sự sạch sẽ và an toàn cho sức khỏe.

Nhiều bản dân tộc Tày phải sử dụng hệ thống mương máng để dẫn nước từ nguồn xa về, thường làm từ tre lớn với các mắt đục để tạo dòng chảy Ngoài nguồn nước từ khe, các gia đình còn khai thác nước mạch ngầm chảy ra từ trong lòng núi cho nhu cầu sinh hoạt Tuy nhiên, hiện nay, nhiều hộ gia đình đã chuyển sang sử dụng vòi và ống cao su để dẫn nước Một số gia đình có thể xây bể nước, nhưng nhiều người chỉ sử dụng thùng nhựa lớn do chi phí xây dựng bể quá cao và đường vận chuyển khó khăn.

Người dân chủ yếu sử dụng nước đun sôi để uống, nhưng vẫn có một số hộ gia đình người dân tộc Giáy vẫn lựa chọn nước lã.

Bảng 4.12: Cách thức sử dụng nước uống của người dân

Cách thức sử dụng nước uống

Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Đun sôi 25 100.0 26 86.7

Uống trực tiếp (nước lã) 0 0.0 4 13.3

Nguồn: Số liệu điều tra năm 2018

Người dân tộc Tày sử dụng nước uống bằng cách đun sôi với tỷ lệ 100%, trong khi đó, người dân tộc Giáy chỉ đạt 86,7% (bảng 4.12) Sự khác biệt này cho thấy mức độ hiểu biết của người dân về tác hại của việc uống nước lã còn hạn chế Việc sử dụng nước đun sôi là cần thiết để bảo vệ sức khỏe, và hiện nay, đa số người dân đã nhận thức được điều này (hộp 4.12).

Hộp 4.12: Lý do sử dụng nước uống đun sôi của người dân

Hiện nay, hầu hết các gia đình đều đun sôi nước trước khi uống để bảo vệ sức khỏe Nhà bác tôi luôn nấu nước sôi để tránh bệnh tật, vì uống nước lã có thể gây đau bụng Do đó, họ thường đun sôi nước và để nguội trước khi sử dụng.

(PVS, nam dân tộc Tày, 48 tuổi)

“Nhà chú đun sôi để nguội rồi uống tại vì uống nước lã dễ bị đau bụng.

Trước có mua cái bình về rồi, mỗi lần đun cho vào nồi to chứ đun bằng cái ấm nhỏ thì bao giờ mới đầy cái bình”

(PVS, nam dân tộc Giáy, 43 tuổi)

Người dân tộc Giáy vẫn còn tỷ lệ uống nước lã cao, chiếm 4%, do phần lớn làm nông nghiệp và trình độ học vấn thấp, dẫn đến hiểu biết hạn chế về tác hại của nước lã Trong mùa gặt và thu hoạch ngô, họ thường mang theo nước lã trong can 5 lít vì ruộng, nương ở xa Tuy nhiên, nhiều người chưa nhận thức được bệnh tật có thể phát sinh từ việc uống nước lã Tại xã Mậu Long, việc tiếp cận thông tin và tuyên truyền qua các phương tiện truyền thông đại chúng như loa phát thanh còn hạn chế, gây khó khăn trong việc nâng cao nhận thức cho người dân.

Nước là tài nguyên quý giá nhưng đang ngày càng cạn kiệt do tác động của con người Để bảo vệ nguồn nước, mỗi dân tộc đã phát triển những phương pháp riêng nhằm đảm bảo nguồn nước cho sinh hoạt và tiêu dùng hàng ngày.

Cách bảo vệ nguồn nước Tày (n%) Giáy (n0)

Không chặt cây đầu nguồn 8 32.0 21 70.0

Không cho trâu/bò lên đầu nguồn nước

Nguồn: Số liệu điều tra năm 2018

Bảo vệ nguồn nước là rất quan trọng, vì con người không thể sống thiếu nước Mỗi dân tộc có những phương pháp bảo vệ nguồn nước riêng Người dân tộc Giáy chủ yếu bảo vệ nguồn nước bằng cách không chặt cây đầu nguồn, chiếm 70% lượt chọn, trong khi dân tộc Tày chọn trồng cây gây rừng với 40% Người dân tộc thiểu số ở vùng cao thường chặt phá rừng để làm nương rẫy, do đó họ tránh làm gần đầu nguồn nước và cấm chặt cây tại đây để ngăn ngừa cạn kiệt nguồn nước Việc không cho trâu bò lên đầu nguồn nước cũng được thực hiện, với 28% người dân tộc Tày và 20% người dân tộc Giáy thực hiện Các gia đình cần tránh chăn thả trâu bò gần nguồn nước sinh hoạt để bảo vệ vệ sinh và tránh ô nhiễm Nếu có ai thả trâu bò ở đầu nguồn nước của người khác, họ sẽ bị nhắc nhở, và nếu trâu bò thải phân tại nguồn nước, chủ vật nuôi phải dọn dẹp.

Người dân tộc Tày và Giáy bảo vệ nguồn nước bằng cách không chặt cây ở đầu nguồn, trồng cây gây rừng và ngăn trâu, bò vào khu vực đầu nguồn để tránh ô nhiễm.

4.2.2 Nhà vệ sinh sử dụng của người dân tộc Ô nhiễm môi trường do phân người nói riêng và do các chất thải giới quan tâm Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn khoảng 40% dân số thế giới (chủ yếu ở Châu Á) không được tiếp cận với nhà tiêu hợp vệ sinh, 80% dân số nông thôn (2,6 tỷ người) trên toàn cầu không được tiếp cận với điều kiện vệ sinh đảm bảo, trong số này có 1,3 tỷ người ở Trung Quốc và Ấn Độ Gánh nặng bệnh tật liên quan đến phân người, rác thải và việc sử dụng nước ô nhiễm đã được biết đến từ lâu Quyết định 08/2005/QĐ-BYT quy định có 4 loại nhà tiêu hợp vệ sinh là: nhà tiêu hai ngăn, nhà tiêu thấm dội nước, nhà tiêu tự hoại và nhà tiêu chìm có ống thông hơi; nhà tiêu bioga cũng được coi là nhà tiêu hợp vệ sinh do nó là một dạng nhà tiêu tự hoại, nhưng có một số điểm khác biệt cấu trúc so với nhà tiêu tự hoại thông thường (Đào Duy Khuê và Cộng sự, 2007).

Người dân tộc Tày và Giáy thường quan niệm rằng nhà tiêu hợp vệ sinh cần được xây dựng cách nguồn nước sinh hoạt ít nhất 10m, có mái lợp để ngăn nước mưa, và cửa cùng xung quanh nhà tiêu phải được che kín đáo.

Bảng 4.14: Quan niệm về nhà tiêu hợp vệ sinh của người dân tộc

Quan niệm nhà tiêu hợp vệ sinh

Xây dựng nhà tiêu cách nguồn nước ăn uống, sinh hoạt 10m trở lên

Có mái lợp, xung quanh nhà tiêu được che chắn kín đáo

Có nắp đậy kín các lỗ tiêu 0 0.0 0 0.0

Nguồn: Số liệu điều tra năm 2018

Theo bảng 4.14, quan niệm về nhà tiêu hợp vệ sinh được thể hiện rõ ở cả hai nhóm dân tộc Cụ thể, 68,0% người dân tộc Tày cho rằng việc xây dựng nhà vệ sinh gần nguồn nước sẽ tạo điều kiện cho ký sinh trùng phát triển, dẫn đến nguy cơ mắc các bệnh tiêu hóa nếu nước uống không được đun kỹ Một người dân tộc Tày đã nhấn mạnh: “Làm nhà vệ sinh phải cách xa nguồn nước ăn uống, sinh hoạt, nếu không sẽ ảnh hưởng đến nguồn nước ăn, nước uống và gây ô nhiễm nguồn nước.”

Theo khảo sát, 43,3% người dân cho rằng nhà vệ sinh cần được xây dựng cách xa khu vực sinh sống và nguồn nước để tránh mùi hôi ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày Đối với người Tày, 32,0% cho rằng nhà vệ sinh cần có mái che để ngăn nước mưa, trong khi con số này ở người Giáy là 40,0% Họ đều nhận thức rằng không có che chắn sẽ tạo môi trường cho ruồi, muỗi sinh sôi, gây bệnh cho trẻ nhỏ Đặc biệt, không có ai chọn phương án có nắp đậy kín cho các lỗ tiêu ở cả hai dân tộc Tỷ lệ người Tày không biết về nhà tiêu hợp vệ sinh là 0%, trong khi của người Giáy là 16,7% Điều này cho thấy người Tày có hiểu biết cao hơn về tiêu chuẩn vệ sinh trong xây dựng nhà vệ sinh.

Bảng 4.15: Loại nhà vệ sinh sử dụng của người dân tộc

Loại nhà vệ sinh Tày (n%) Giáy (n0)

Nhà vệ sinh tự hoại 12 48.0 1 3.3

Nhà vệ sinh thô sơ 13 52.0 24 80.0

Không có nhà vệ sinh 0 0.0 5 16.7

Tập quán trong các hoạt động ma chay – cúng bái và sinh đẻ của người dân tộc

4.3 Tập quán trong các hoạt động ma chay – cúng bái và sinh đẻ của người dân tộc

4.3.1 Tập quán trong ma chay của người dân tộc

Quy luật sinh tử của con người là điều không thể tránh khỏi, và người dân tộc Tày cùng dân tộc Giáy thực hiện tang lễ với những bước tương đồng Khi có người qua đời, gia đình sẽ thông báo cho người thân và hàng xóm, sau đó mời thầy cúng Trong thời gian này, con cháu phải nhịn ăn để thể hiện nỗi đau thương, cho đến khi thầy cúng thực hiện lễ khâm niệm và nhập quan Con cái sẽ rửa mặt cho người mất, đắp khăn trắng tự dệt, và đặt thi hài ở nơi có bàn thờ, ngồi bên cạnh cho đến khi hoàn tất thủ tục nhập quan Cuối cùng, thầy cúng sẽ chọn giờ tốt để chôn cất người đã khuất.

Hộp 4.14: Các bước trong tang ma

Người dân tộc Tày thực hiện các nghi lễ tang lễ truyền thống bao gồm báo tang, gọi thầy cúng, rửa mặt cho người mất, đắp khăn trắng, nhập quan và chôn cất Khi có người qua đời, họ thông báo cho thân nhân và bạn bè, sau đó rửa mặt cho người mất và mời thầy cúng để chọn giờ nhập quan Cuối cùng, họ tổ chức lễ tang và tiến hành chôn cất, giữ gìn các phong tục tập quán từ xưa đến nay.

(PVS, nữ dân tộc Tày, 51 tuổi)

Trong tang ma, quy trình bao gồm các bước như báo tang, gọi thầy cúng, rửa mặt cho người mất, đắp khăn trắng, nhập quan và chôn cất Trước đây, khi chưa có điện thoại, việc thông báo cho họ hàng, người thân ở xa thường phải gõ mõ, nhưng hiện nay chỉ cần gọi điện là đủ Sau khi tìm thầy cúng để niệm, con cái sẽ rửa mặt cho người mất và phải ở bên cạnh cho đến khi nhập quan Trong thời gian này, con cái không được ăn cơm hay uống nước trước khi thi thể được đưa vào quan tài Cuối cùng, thầy cúng sẽ chọn ngày giờ tốt để tiến hành chôn cất và làm lễ tang.

(PVS, nam dân tộc Giáy, 43 tuổi)

Hiện nay, thời gian tổ chức tang lễ của người dân tộc Tày và Giáy đã được rút ngắn, thường chỉ kéo dài từ 3 đến 4 ngày.

Bảng 4.16: Thời gian tổ chức tang ma

Thời gian tổ chức tang ma

Nguồn: Số liệu điều tra năm 2018

Thời gian tổ chức tang ma của người dân tộc Tày và Giáy chủ yếu từ 3-4 ngày, với 80,0% người Tày và 93,3% người Giáy lựa chọn khoảng thời gian này Hiện nay, thời gian tổ chức đã giảm đáng kể so với trước đây, nhờ sự can thiệp của chính quyền địa phương Một người dân tộc Giáy cho biết: “Bây giờ cải tiến rồi nên khi có tang thì tổ chức khoảng 3 ngày, trước kia làm 6-7 ngày tốn nhiều của cải và tiền bạc lắm.” Tổ chức tang ma từ 1-2 ngày chiếm 20,0% ở người Tày và 6,67% ở người Giáy, do một số hộ gia đình không có điều kiện Thời gian tổ chức tang ma trên 4 ngày đã được cả hai dân tộc bỏ, nhờ sự tuyên truyền của chính quyền về việc rút ngắn các thủ tục rườm rà Cả hai dân tộc đều thực hiện chôn cất khi có người mất.

Phong tục chôn cất của các dân tộc như Giáy và Tày đã tồn tại từ lâu, phản ánh truyền thống văn hóa của ông cha Theo lời của một người đàn ông 43 tuổi thuộc dân tộc Giáy, việc chôn cất là phương thức duy nhất mà tổ tiên đã thực hiện, chưa từng có trường hợp thiêu đốt Tương tự, một người đàn ông 48 tuổi thuộc dân tộc Tày cũng nhấn mạnh rằng việc chôn cất là phong tục không thể thay đổi khi có người mất.

Người dân tộc Tày và Giáy có phong tục đặc biệt trong việc tổ chức tang ma, thường mổ các loại gia súc như gà, vịt, dê, lợn, trâu hoặc bò để tiến hành cúng tế.

Hộp 4.15: Tổ chức tang ma

Khi tổ chức lễ tang, việc mổ lợn hoặc trâu là phong tục truyền thống, nhằm cung cấp thức ăn cho người đã khuất và giúp họ có trâu để canh tác Đây là một phong tục lâu đời, đặc trưng của dân tộc, không thể thay đổi.

PVS, nữ dân tộc Tày, 32 tuổi

Hiện nay, tổ chức tang lễ chỉ diễn ra trong khoảng 3 ngày Thông thường, gia đình sẽ mổ trâu hoặc bò, điều này thể hiện lòng hiếu thảo của con cái đối với người đã khuất, giúp người mất có đủ thức ăn để mang theo.

PVS, một phụ nữ 41 tuổi thuộc dân tộc Giáy, nhấn mạnh rằng kiêng kỵ là yếu tố quan trọng trong các nghi lễ tang lễ Mỗi dân tộc đều có những kiêng kỵ riêng, tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo và phong tục tập quán đặc trưng của từng nhóm dân tộc.

Bảng 4.17: Những kiêng kỵ trong tang ma Những điều kiêng kỵ trong tang ma của người dân

Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)

Trước khi chưa đưa người mất vào quan tài

(con cháu của người mất) không được ăn cơm, uống nước

Kiêng ăn hoa quả có màu đỏ

Kiêng ăn lòng, tiết canh 2 8.0 30 100.0

Nguồn: Số liệu điều tra năm 2018

Kết quả nghiên cứu (bảng 4.17) cho thấy những điều kiêng kỵ của

Người Giáy có quan niệm kiêng khem nghiêm ngặt trong tang lễ để thể hiện lòng hiếu thảo và biết ơn đối với người đã khuất Trước khi đưa người mất vào quan tài, con cháu không được ăn cơm hay uống nước, điều này được 100% người Giáy đồng thuận, trong khi người Tày không có ý kiến nào Họ cũng kiêng ăn quả chua như quả nhót, với 93,3% lượt chọn, và hoàn toàn không ăn hoa quả có màu đỏ (100% lượt chọn) Ngược lại, người Tày không có sự kiêng khem nào về hai điều này Đặc biệt, người Giáy hoàn toàn kiêng ăn thịt trong tang lễ, với 100% lượt chọn, do quan niệm rằng ăn thịt trong lúc tang lễ là không tôn trọng tổ tiên, trong khi chỉ có 4% người Tày đồng ý với điều này.

Người dân tộc Tày và Giáy có quan niệm đặc biệt về việc kiêng ăn lòng và tiết canh, với 8% người Tày chọn ăn lòng và 100% người Giáy kiêng ăn do tin rằng đó là ăn máu của tổ tiên Ngoài ra, việc kiêng gội đầu cũng rất nghiêm ngặt, 100% người Tày và 83,3% người Giáy tuân thủ quy định này, trong đó người Tày kiêng gội đầu trong 30 ngày.

Theo quan niệm của một số người dân tộc Tày, việc không gội đầu trong 30 ngày sau khi sinh là cần thiết để đảm bảo con cái sau này làm ăn phát đạt Một số ý kiến khác cho rằng phong tục này có nguồn gốc từ truyền thống xưa, nhưng vẫn có thể được điều chỉnh theo thời đại hiện nay.

Người dân tộc Giáy kiêng gội đầu 40 ngày khi mẹ mất và 37 ngày khi bố mất, theo phong tục truyền thống Mặc dù một số người chỉ kiêng được 1-2 tuần, nhưng tập tục này vẫn thể hiện sự tôn trọng đối với tổ tiên Ngoài ra, người Tày có 28% và người Giáy có 36,7% lượt chọn các kiêng kỵ khác, cho thấy những phong tục này đã ăn sâu vào đời sống qua nhiều thế hệ Cả hai dân tộc đều có những kiêng kỵ tương đồng như không gội đầu, kiêng ăn thịt, lòng, và tiết canh trong thời gian có tang.

Tính cộng đồng trong phong tục tang ma của người dân tộc thể hiện rõ nét qua sự thương cảm và hỗ trợ lẫn nhau giữa hàng xóm Không chỉ dừng lại ở việc phúng viếng, người dân còn thể hiện lòng trắc ẩn đối với gia đình người đã khuất Phong tục này phản ánh lối sống trọng tình của cư dân nông nghiệp, với sự giúp đỡ từ những người xung quanh như việc lấy củi và nấu cơm, không chỉ trong cùng xóm mà còn từ xóm khác Đây là một truyền thống tốt đẹp của người dân tộc, vẫn được duy trì và không có sự thay đổi cho đến nay.

4.3.2 Tập quán trong cúng bái của người dân tộc

Ngày đăng: 24/03/2022, 15:24

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 4.1: Loại cây trồng - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH XÃ HỘI HỌC ĐÈ TÀI: TẬP QUÁN TRONG SẢN XUẤT VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ (Nghiên cứu trường hợp tại xã Mậu Long – huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang)
Bảng 4.1 Loại cây trồng (Trang 27)
Bảng 4.3: Hình thức canh tác lúa - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH XÃ HỘI HỌC ĐÈ TÀI: TẬP QUÁN TRONG SẢN XUẤT VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ (Nghiên cứu trường hợp tại xã Mậu Long – huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang)
Bảng 4.3 Hình thức canh tác lúa (Trang 31)
Do những năm gần đây người dân đã chuyển từ hình thức du canh du cư sang hình thức ổn định (định canh, định cư) nên việc trồng lúa trên nương rẫy đã không còn - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH XÃ HỘI HỌC ĐÈ TÀI: TẬP QUÁN TRONG SẢN XUẤT VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ (Nghiên cứu trường hợp tại xã Mậu Long – huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang)
o những năm gần đây người dân đã chuyển từ hình thức du canh du cư sang hình thức ổn định (định canh, định cư) nên việc trồng lúa trên nương rẫy đã không còn (Trang 32)
nhà nhau, nhưng thậm chí giữa làng này và làng khác, từ đó hình thành nên tập quán riêng biệt của người dân tộc trong quá trình sản xuất cũng như trong đời sống hàng ngày. - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH XÃ HỘI HỌC ĐÈ TÀI: TẬP QUÁN TRONG SẢN XUẤT VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ (Nghiên cứu trường hợp tại xã Mậu Long – huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang)
nh à nhau, nhưng thậm chí giữa làng này và làng khác, từ đó hình thành nên tập quán riêng biệt của người dân tộc trong quá trình sản xuất cũng như trong đời sống hàng ngày (Trang 39)
Bảng 4.8: Tập quán chăn nuôi của người dân tộc Tày và Giáy - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH XÃ HỘI HỌC ĐÈ TÀI: TẬP QUÁN TRONG SẢN XUẤT VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ (Nghiên cứu trường hợp tại xã Mậu Long – huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang)
Bảng 4.8 Tập quán chăn nuôi của người dân tộc Tày và Giáy (Trang 41)
Tày và người dân tộc Giáy đều cho rằng là 100% (bảng 4.8). Nguyên nhân là do con trâu, con bò đối với người nông dân rất quan trọng, là tài sản quý giá nhất trong gia đình do đó việc tiêm phòng cho trâu, bò là cần thiết. - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH XÃ HỘI HỌC ĐÈ TÀI: TẬP QUÁN TRONG SẢN XUẤT VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ (Nghiên cứu trường hợp tại xã Mậu Long – huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang)
y và người dân tộc Giáy đều cho rằng là 100% (bảng 4.8). Nguyên nhân là do con trâu, con bò đối với người nông dân rất quan trọng, là tài sản quý giá nhất trong gia đình do đó việc tiêm phòng cho trâu, bò là cần thiết (Trang 43)
Bảng 4.10: Tiêm phòng cho gia súc - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH XÃ HỘI HỌC ĐÈ TÀI: TẬP QUÁN TRONG SẢN XUẤT VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ (Nghiên cứu trường hợp tại xã Mậu Long – huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang)
Bảng 4.10 Tiêm phòng cho gia súc (Trang 44)
Bảng 4.12: Cách thức sử dụng nước uống của người dân - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH XÃ HỘI HỌC ĐÈ TÀI: TẬP QUÁN TRONG SẢN XUẤT VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ (Nghiên cứu trường hợp tại xã Mậu Long – huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang)
Bảng 4.12 Cách thức sử dụng nước uống của người dân (Trang 47)
Bảng 4.15: Loại nhà vệ sinh sử dụng của người dân tộc - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH XÃ HỘI HỌC ĐÈ TÀI: TẬP QUÁN TRONG SẢN XUẤT VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ (Nghiên cứu trường hợp tại xã Mậu Long – huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang)
Bảng 4.15 Loại nhà vệ sinh sử dụng của người dân tộc (Trang 51)
Bảng 4.17: Những kiêng kỵ trong tang ma Những điều kiêng kỵ - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH XÃ HỘI HỌC ĐÈ TÀI: TẬP QUÁN TRONG SẢN XUẤT VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ (Nghiên cứu trường hợp tại xã Mậu Long – huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang)
Bảng 4.17 Những kiêng kỵ trong tang ma Những điều kiêng kỵ (Trang 56)
Bảng 4.19: Nơi sinh đẻ - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH XÃ HỘI HỌC ĐÈ TÀI: TẬP QUÁN TRONG SẢN XUẤT VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ (Nghiên cứu trường hợp tại xã Mậu Long – huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang)
Bảng 4.19 Nơi sinh đẻ (Trang 60)
Bảng 4.20: Vật dụng cắt rốn của người dân tộc - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH XÃ HỘI HỌC ĐÈ TÀI: TẬP QUÁN TRONG SẢN XUẤT VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ (Nghiên cứu trường hợp tại xã Mậu Long – huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang)
Bảng 4.20 Vật dụng cắt rốn của người dân tộc (Trang 61)
Bảng 4.21: Những kiêng kỵ sau khi sinh đẻ - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH XÃ HỘI HỌC ĐÈ TÀI: TẬP QUÁN TRONG SẢN XUẤT VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ (Nghiên cứu trường hợp tại xã Mậu Long – huyện Yên Minh – tỉnh Hà Giang)
Bảng 4.21 Những kiêng kỵ sau khi sinh đẻ (Trang 62)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w