Cùng với sự phát triển của xã hội, tiền mặt đã có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Tiền mặt là phương thức thanh toán không thể thiếu, gắn liền với quá trình lưu thông hàng hóa trên thị trường. Sản xuất và lưu thông hàng hóa ngày càng phát triển, khối lượng tiền mặt đưa vào lưu thông ngày càng lớn, tiền mặt bộc lộ nhiều yếu điểm và chứa đựng nhiều rủi ro như: Tiềm ẩn nguy cơ về mất an toàn, chi phí in ấn, kiểm đếm, vận chuyện, bảo quản, tiền giả… Trong nền kinh tế thị trường, hội nhập như hiện nay, các hoạt động giao dịch thương mại, dịch vụ cũng ngày càng phát triển và diễn ra mọi lúc, mọi nơi với quy mô ngày càng lớn vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, đòi hỏi phải có phương thức thanh toán mới ưu việt, thuận tiện, an toàn, tiết kiệm. Vì thế, phương thức thanh toán không dùng tiền mặt ra đời là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật phát triển kinh tế xã hội, khắc phục được những hạn chế của thanh toán dùng tiền mặt, đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế thị trường. Tại nhiều quốc gia trên thế giới thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) đã trở thành phương tiện thanh toán phổ biến trong nền kinh tế vì nó góp phần kiểm soát, giám sát hoạt động thanh toán hiệu quả hơn, kiểm soát mức độ mở rộng tiền tệ, tăng cường minh bạch hóa thu nhập, hạn chế tình trạng tham nhũng, trốn thuế, tăng tốc độ luân chuyển vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện mở rộng tín dụng, giảm mức độ rủi ro…, việc phát triển TTKDTM còn là trong những thước đo quan trọng của việc ứng dụng công nghệ thông tin đối với các dịch vụ NHTM hệ thống cung ứng các dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế, là cái nôi để các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt ra đời và phát triển.Ở Việt Nam TTKDTM là một trong những mục tiêu lớn đã được Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam định hướng từ nhiều năm. Tuy nhiên thực trạng về thanh toán không dùng tiền mặt vẫn còn nhiều bất cập. Theo các số liệu thống kê, Việt Nam là quốc gia đang sử dụng quá nhiều tiền mặt, việc sử dụng tiền mặt trong các giao dịch vẫn phổ biến. Lượng thanh toán không dùng tiền mặt đã phát triển nhưng chưa tương xứng với đà phát triển của nền kinh tế đặc biệt trong khi nước ta đang trong quá trình mở cửa hội nhập toàn diện với khu vực và quốc tế. Để phát triển TTKDTM, Chính phủ Việt Nam đã có chủ trương, chính sách hỗ trợ, triển khai Chính phủ điện tử, cung ứng dịch vụ công cấp độ 3, 4. Cụ thể, ngày 30122016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2545QĐTTg phê duyệt Đề án phát triển TTKDTM tại Việt Nam giai đoạn 2016 2020. Mục đích của Quyết định này là đưa ra các giải pháp đồng bộ, giao trách nhiệm cụ thể cho các bộ, ngành chức năng và các địa phương, nhằm tạo sự chuyển biến rõ rệt về TTKDTM trong nền kinh tế, thay đổi thói quen sử dụng tiền mặt sang sử dụng các phương tiện TTKDTM, phương thức thanh toán điện tử. Tiếp đó, ngày 2322018, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 241QĐTTg phê duyệt Đề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng với dịch vụ công: Thuế, điện, nước, học phí, viện phí và chi trả các chương trình an sinh xã hội… Tại Nghị quyết số 022019NQCP của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021, Chính phủ đã yêu cầu đẩy mạnh thanh toán điện tử và cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 như học phí, viện phí, điện, nước, môi trường... Đồng thời, các dịch vụ thanh toán phát triển mạnh mẽ, nhất là các phương tiện thanh toán, dịch vụ thanh toán dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin và thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Thanh toán điện tử qua internet, điện thoại di động cũng phát triển. Đặc biệt trong thời gian gần đây, dưới sự ảnh hưởng của Đại dịch Covid 19, hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có sự tăng trưởng đáng kể cả về số lượng giao dịch và giá trị giao dịch, và ngày càng trở thành xu hướng thanh toán tất yếu trong nền kinh tế thương mại hiện nay.Tại tỉnh Điện Biên, Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh phối hợp với các đơn vị liên quan tham mưu với Ủy ban Nhân dân tỉnh Điện Biên ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Đề án thanh toán không dùng tiền mặt trên địa bàn tỉnh Điện Biên giai đoạn 20162020 và Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với các dịch vụ công: thuế, điện, nước, học phí, viện phí và chi trả các chương trình an sinh xã hội. Phấn đấu đến cuối năm 2020 đẩy mạnh phát triển các dịch vụ thanh toán điện tử trong thương mại điện tử, thanh toán thẻ qua các thiết bị chấp nhận thẻ tại các điểm bán hàng…Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của thanh toán không dùng tiền mặt, với vai trò là một cán bộ làm việc tại cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn tác giả lựa chọn đề tài: “Kiểm soát đối với hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng thương mại tại Ngân hàng
KHUNG NGHIÊN CỨU VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ KIỂM SOÁT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC CHI NHÁNH TỈNH
Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng thương mại
1.1 Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Khái niệm về Thanh toán không dùng tiền mặt
Tiền mặt được hiểu theo hai nghĩa: hẹp và rộng Theo nghĩa hẹp, tiền mặt là tiền do ngân hàng Trung ương phát hành và nằm trong tay công chúng hoặc ngoài hệ thống ngân hàng Theo nghĩa rộng, tiền mặt bao gồm các hình thức thanh toán trực tiếp như tiền gửi ngân hàng, tiền mặt do NHTW phát hành, và các tài sản có khả năng thanh toán cao Điều này bao gồm tiền mặt trong két sắt của ngân hàng thương mại và số dư tại NHTW Khi sử dụng khái niệm tiền mặt, cần lưu ý ngữ cảnh để hiểu rõ ý nghĩa cụ thể của nó.
Tiền mặt trong kinh tế học được định nghĩa là tiền dưới dạng vật chất như tiền giấy và tiền kim loại, với năm chức năng chính: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán, và tiền tệ thế giới Đặc biệt, chức năng thanh toán cho phép sử dụng tiền để trả nợ, nộp thuế và thanh toán hàng hóa Thanh toán bằng tiền mặt là quá trình chi trả trực tiếp giữa các cá nhân, tổ chức kinh tế và cơ quan nhà nước, đóng vai trò quan trọng trong chu chuyển tiền tệ của nền kinh tế quốc dân.
Thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) là phương thức thanh toán hàng hóa và dịch vụ mà không cần tiền mặt Thay vào đó, TTKDTM thực hiện việc chuyển tiền từ tài khoản người chi trả sang tài khoản người thụ hưởng, hoặc thông qua việc bù trừ công nợ, với sự hỗ trợ của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Thanh toán không dùng tiền mặt đã đáp ứng nhu cầu giao dịch thương mại, giảm lượng tiền mặt và chi phí lưu thông xã hội, đồng thời tăng tốc độ chu chuyển hàng hóa và vốn, nâng cao hiệu quả kinh tế Hình thức thanh toán này giúp hạn chế tiền mặt trong nền kinh tế, giảm thiểu chi phí xã hội và hỗ trợ thực thi chính sách tiền tệ Khi có quá nhiều tiền lưu thông, người dân sẽ nắm giữ quá nhiều tiền trong tay Thêm vào đó, thanh toán không dùng tiền mặt cho phép ngân hàng thương mại áp dụng công cụ tài khoản khách hàng, giúp theo dõi và ghi chép các dịch vụ ngân hàng về tiền tệ, tín dụng và thanh toán bằng tiền ghi sổ thay vì tiền mặt.
1.1.1.2 Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng thương mại a) Khái niệm
Hoạt động TTKDTM bao gồm việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán, cung cấp dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, dịch vụ trung gian thanh toán, cũng như tổ chức, quản lý và giám sát hệ thống thanh toán.
Dịch vụ TTKDTM cung cấp các giải pháp thanh toán linh hoạt, bao gồm cả dịch vụ thanh toán qua tài khoản thanh toán và các dịch vụ thanh toán không cần tài khoản của khách hàng.
Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam bao gồm Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô và một số tổ chức khác.
Trong thanh toán không dùng tiền mặt, ngân hàng hoạt động như một trung gian tài chính, cung cấp dịch vụ cho cả người mua và người bán Ngân hàng thu phí dịch vụ và thực hiện các giao dịch thanh toán theo lệnh của chủ tài khoản, bao gồm các tổ chức kinh tế và cá nhân đã mở tài khoản tại ngân hàng.
Thanh toán không dùng tiền mặt thường bao gồm 4 bên :
- Bên nhận dịch vụ cung ứng (Bên mua).
- Ngân hàng phục vụ bên mua hàng.
- Bên cung ứng hàng hóa và dịch vụ (Bên bán).
- Ngân hàng phục vụ bên bán hàng.
Trong mối quan hệ TTKDTM, ngân hàng giữ vai trò trung gian, cung cấp dịch vụ tài chính cho cả bên mua và bên bán, đồng thời thu phí dịch vụ.
Phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt trong giao dịch bao gồm séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương tiện khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Hoạt động TTKDTM (thanh toán không dùng tiền mặt) của các ngân hàng thương mại (NHTM) có những đặc điểm nổi bật Đầu tiên, TTKDTM giúp nâng cao hiệu quả giao dịch và giảm thiểu rủi ro liên quan đến việc sử dụng tiền mặt Thứ hai, các NHTM áp dụng công nghệ hiện đại để tối ưu hóa quy trình thanh toán, mang lại sự tiện lợi cho khách hàng Cuối cùng, hoạt động này còn góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế số và tăng cường tính minh bạch trong các giao dịch tài chính.
Sự vận động của tiền tệ diễn ra độc lập với sự vận động của vật tư và hàng hóa, cả về thời gian lẫn không gian Thông thường, quá trình thanh toán bằng tiền không khớp với sự di chuyển của vật tư và hàng hóa.
Trong thanh toán qua ngân hàng thương mại (NHTM), tiền mặt không xuất hiện trực tiếp mà chỉ tồn tại dưới dạng tiền tệ kế toán (tiền chuyển khoản) được ghi chép trên các chứng từ và sổ sách kế toán Để thực hiện thanh toán, các bên tham gia, chủ yếu là người mua, cần mở tài khoản tại ngân hàng và đảm bảo có đủ tiền trong tài khoản Điều này khiến việc kiểm soát của ngân hàng trong tổ chức thanh toán trở nên cần thiết, bao gồm việc kiểm tra tính đúng đắn của nội dung thanh toán và tính hợp pháp của các chứng từ liên quan.
Trong TTKDTM, ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng như người tổ chức và thực hiện các khoản thanh toán, được coi là "người thứ ba" không thể thiếu trong thanh toán chuyển khoản Ngân hàng quản lý tài khoản tiền gửi và có quyền trích chuyển tài khoản của các đơn vị, trở thành "phòng thanh toán" cho xã hội Sự thuận lợi trong quá trình thanh toán phụ thuộc vào ngân hàng, đơn vị thực hiện vai trò "kết thúc" quá trình này Tại Việt Nam, có 9 hệ thống TTKDTM chính bao gồm: Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (IBPS), hệ thống thanh toán bù trừ, hệ thống thanh toán nội bộ của từng ngân hàng thương mại, các hệ thống thanh toán song phương, hệ thống thanh toán ngoại tệ VCB – Money, hệ thống thanh toán chứng khoán, hệ thống thanh toán thẻ, hệ thống thanh toán qua internet và điện thoại di động, và hệ thống SWIFT.
* Hệ thống thanh toán do NHNN tổ chức vận hành và quản lý.
- Hệ thống thanh toán Điện tử liên Ngân hàng (IBPS)
Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (IBPS) là kênh thanh toán trực tuyến nhanh nhất tại Việt Nam, với thời gian thực hiện lệnh thanh toán chỉ trong 10 giây Được xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế, hệ thống IBPS ngày càng được nâng cấp và mở rộng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế.
Kiểm soát đối với hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng thương mại tại ngân hàng nhà nước chi nhánh tỉnh
1.2.1 Khái niệm, mục tiêu kiểm soát đối với hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng thương mại tại ngân hàng nhà nước chi nhánh tỉnh a Khái niệm kiểm soát đối với hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng thương mại tại ngân hàng nhà nước chi nhánh tỉnh
Kiểm soát là quá trình theo dõi và đánh giá kết quả thực hiện, so sánh với các tiêu chuẩn đã đặt ra, phát hiện sai lệch và nguyên nhân, từ đó thực hiện các điều chỉnh cần thiết để đảm bảo kết quả cuối cùng đạt được mục tiêu đã xác định.
Kiểm soát là quá trình kiểm tra các chỉ tiêu và theo dõi hành vi của đối tượng, không chỉ áp dụng cho các hoạt động đã hoàn thành mà còn cho những hoạt động đang diễn ra và sắp xảy ra Trong quá trình này, hai yếu tố quan trọng là nhận thức và phản ứng của cả đối tượng kiểm soát và đơn vị kiểm soát sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của việc kiểm soát Do đó, kiểm soát không chỉ liên quan đến giám sát mà còn chỉ ra các biện pháp cần thiết để khắc phục những sai lệch, nếu có.
(Nguồn: Giáo trình Kiểm soát 2018, Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân).
Kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với các ngân hàng thương mại (NHTM) là quá trình giám sát và đánh giá kết quả hoạt động của NHTM, so sánh với các quy định đã được thiết lập Qua đó, NHNN phát hiện những sai sót trong quá trình thực hiện và yêu cầu các NHTM điều chỉnh để đảm bảo tuân thủ các quy định hiện hành.
Kiểm soát của NHNN đối với hoạt động TTKDTM của NHTM là quá trình giám sát và đánh giá việc tuân thủ quy trình thanh toán NHNN thực hiện kiểm tra các NHTM trong việc cung cấp phương tiện TTKDTM cho tổ chức và cá nhân, nhằm đảm bảo an toàn tài sản cho khách hàng và tuân thủ quy định pháp luật.
Ngân hàng Nhà nước kiểm soát hoạt động TTKDTM của NHTM chủ yếu thông qua thanh tra và giám sát, đồng thời thu thập thông tin và dữ liệu từ các báo cáo, tiếp xúc trực tiếp với đối tượng, cũng như các nguồn thông tin khác phục vụ cho công tác quản lý nhà nước.
Thanh tra ngân hàng là hoạt động giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tài chính nhằm đảm bảo việc tuân thủ pháp luật về tiền tệ và ngân hàng Cơ quan thanh tra ngân hàng được tổ chức thành hệ thống, bao gồm Cơ quan thanh tra ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các Chi nhánh thanh tra ngân hàng tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Thanh tra hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt nhằm mục tiêu cụ thể cho từng đơn vị trong hệ thống thanh toán, đồng thời chú trọng đến sự ổn định của từng tổ chức tài chính được thanh tra.
Giám sát ngân hàng là hoạt động của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nhằm thu thập, tổng hợp và phân tích thông tin về các đối tượng giám sát Mục tiêu chính của hoạt động này là phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các rủi ro có thể gây mất an toàn cho hoạt động ngân hàng, đồng thời xử lý các vi phạm liên quan đến quy định an toàn và các quy định pháp luật khác.
Giám sát hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt là hoạt động hệ thống, tập trung vào kết nối giữa các thành viên trong hệ thống thanh toán Mục tiêu chính của giám sát là đảm bảo an toàn và hiệu quả cho hệ thống thanh quyết toán, từ đó đưa ra những đánh giá và quyết định cần thiết để cải thiện hoạt động của hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt Đồng thời, việc kiểm soát hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại các ngân hàng thương mại cũng là một mục tiêu quan trọng của ngân hàng nhà nước chi nhánh tỉnh.
Hệ thống thanh toán của các ngân hàng thương mại (NHTM) cần hoạt động ổn định, an toàn, hiệu quả và nhanh chóng để đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán ngày càng tăng của cá nhân và tổ chức Đồng thời, các NHTM phải tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi vận hành hệ thống thanh toán và sử dụng các phương tiện thanh toán điện tử.
Quá trình kiểm soát nhằm xác định nguyên nhân và vướng mắc trong các quy định về TTKDTM sẽ giúp kiến nghị Chính phủ và NHNN Việt Nam đổi mới và hoàn thiện chính sách, từ đó phát triển hoạt động TTKDTM Việc này cũng sẽ tăng cường vai trò của thanh toán như một kênh hiệu quả để truyền tải và thực thi chính sách tiền tệ.
Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) trên địa bàn là rất quan trọng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận các tiện ích của phương tiện TTKDTM Đồng thời, cần bảo vệ quyền lợi và tài sản của khách hàng, ngăn chặn các hoạt động rửa tiền, và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động thanh toán Việc này sẽ góp phần tăng cường lòng tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng.
1.2.2 Nguyên tắc kiểm soát đối với hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng thương mại tại ngân hàng nhà nước chi nhánh tỉnh
Ngân hàng nhà nước thực hiện kiểm soát chặt chẽ hoạt động TTKDTM tại các NHTM với các nguyên tắc sau:
Để đảm bảo tuân thủ pháp luật trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), các ngân hàng thương mại (NHTM) cần thực hiện cung ứng các phương tiện TTKDTM theo đúng quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Dựa trên các quy định hiện hành, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh sẽ tiến hành thanh tra, kiểm tra và giám sát thường xuyên việc tuân thủ các quy định về hoạt động TTKDTM của các NHTM.
Trong quá trình thanh tra, kiểm tra và giám sát, NHNN chi nhánh tỉnh cam kết đảm bảo tính chính xác và khách quan bằng cách yêu cầu các cán bộ thực hiện kiểm soát trung thực Việc thu thập thông tin đầy đủ và chọn lọc để loại bỏ những dữ liệu không chính xác là rất quan trọng, nhằm không làm ảnh hưởng đến kết quả kiểm soát Đồng thời, cần căn cứ vào tình hình hoạt động và số liệu báo cáo định kỳ của đơn vị để phản ánh đúng sự thật, tránh sai lệch và bóp méo thông tin.
Kinh nghiệm kiểm soát đối với hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng thương mại tại một số ngân hàng nhà nước chi nhánh tỉnh và bài học cho Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Điện Biên
1.3.1 Kinh nghiệm một số địa phương đối với kiểm soát đối với hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng thương mại tại một số ngân hàng nhà nước chi nhánh tỉnh
1.3.1.1 Kinh nghiệm của Ngân hàng nhà nước Chi nhánh tỉnh Sơn La
Để xây dựng một đội ngũ cán bộ kiểm soát chất lượng, cần chú trọng đến phẩm chất, trình độ, năng lực, sự nhiệt tình và trách nhiệm Đặc biệt, việc đào tạo đội ngũ kế cận là rất quan trọng, thông qua việc phân công công việc hợp lý Những cán bộ giàu kinh nghiệm sẽ hỗ trợ và hướng dẫn các cán bộ trẻ, giúp duy trì chất lượng hoạt động kiểm soát một cách ổn định và liên tục.
Để nâng cao chất lượng công tác giám sát, cần tăng cường chất lượng báo cáo thống kê về hoạt động thanh toán Việc áp dụng các biện pháp cảnh cáo đối với các tổ chức tín dụng (TCTD) không tuân thủ quy định về thời hạn và nội dung báo cáo sẽ góp phần cải thiện hiệu quả giám sát.
1.3.1.2 Kinh nghiệm của Ngân hàng nhà nước Chi nhánh tỉnh Hòa Bình
Để nâng cao hiệu quả trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, các NHTM cần tăng cường việc nắm bắt thông tin từ bên ngoài và dư luận xã hội Việc này giúp kịp thời phát hiện những vấn đề quan trọng và chỉ điểm cho thanh tra các nội dung cần xem xét trong quá trình thanh tra tại chỗ.
Đào tạo cán bộ là ưu tiên hàng đầu, cả về số lượng lẫn chất lượng Cần tạo điều kiện cho cán bộ làm công tác kiểm soát tham gia các khóa đào tạo và bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kỹ năng mềm trong xử lý công việc.
Đầu tư vào trang thiết bị và cơ sở vật chất cho công tác thanh tra, giám sát là điều cần thiết Cần trang bị đầy đủ máy tính xách tay cho từng cán bộ thanh tra để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra tại chỗ.
1.3.2 Bài học cho Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Điện Biên
Trong công tác đào tạo cán bộ kiểm soát, cần chú trọng phát triển đội ngũ cán bộ kế cận bằng cách bố trí công việc hợp lý, giúp cán bộ trẻ nhận được sự hỗ trợ và hướng dẫn từ những người có kinh nghiệm Điều này sẽ đảm bảo sự ổn định và liên tục về số lượng cũng như chất lượng cán bộ làm công tác kiểm soát Đồng thời, cần xây dựng đội ngũ thanh tra, giám sát có phẩm chất, trình độ, năng lực, nhiệt tình và trách nhiệm trong công việc.
Cần chú trọng đầu tư vào cơ sở vật chất và trang thiết bị để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát Việc này sẽ hỗ trợ tốt cho quá trình thu thập và xử lý thông tin, đồng thời cải thiện hoạt động thanh tra tại chỗ.