1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

KINH DOANH CHỨNG KHOÁN đề tài phân tích ngành thủy sản việt nam và phân tích công ty cổ phần vĩnh hoàn (VHC)

31 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phân tích Ngành Thủy Sản Việt Nam và Phân Tích Công Ty Cổ Phần Vĩnh Hoàn (VHC)
Tác giả Nhóm 3
Người hướng dẫn Lê Đức Tố
Trường học Trường Đại Học Thương Mại
Chuyên ngành Kinh Doanh Chứng Khoán
Thể loại báo cáo thảo luận
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 31
Dung lượng 0,98 MB

Cấu trúc

  • I. Ngành thủy sản (3)
    • 1. Tổng quan ngành thủy sản (3)
    • 2. Diễn biến ngành thủy sản (3)
      • 2.1. Nhu cầu tiêu thụ và tình hình sản xuất trong ngành (3)
      • 2.2. Điểm chính trong ngành năm 2020 (6)
      • 2.3. Kết luận (7)
    • 3. Ảnh hưởng của EVFTA (8)
      • 3.1. Tình hình xuất khẩu thủy sản sang EU (8)
      • 3.2. Các doanh nghiệp hoạt động chính trong ngành (10)
    • 4. Triển vọng tăng trưởng ngành thủy sản năm 2021 (12)
  • II. Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn (13)
    • 1. Tổng quan về công ty cổ phần Vĩnh Hoàn (13)
    • 2. Cơ hội và rủi ro của công ty (14)
      • 2.1. Cơ hội (15)
      • 2.2. Rủi ro (16)
    • 3. Phân tích hoạt động sản xuất – kinh doanh của công ty (17)
      • 3.1. Hoạt động chế biến và xuất khẩu thủy sản (17)
      • 3.2. Hoạt động nuôi trồng thủy sản (22)
      • 3.3. Kinh doanh phụ phẩm (22)
    • 4. Đánh giá hiệu quả sản xuất và kinh doanh của Vĩnh Hoàn (23)
      • 4.1. Doanh thu – lợi nhuận (23)
      • 4.2. Tài sản – nợ (26)
    • 5. Triển vọng kinh doanh của VHC năm 2021 (26)
    • 6. Cổ phiếu VHC (27)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (30)

Nội dung

Ngành thủy sản

Tổng quan ngành thủy sản

Việt Nam, với đường bờ biển dài 3,260 km và khu đặc quyền kinh tế rộng 1 triệu km², sở hữu tiềm năng lớn để phát triển ngành nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản Đất nước này có nhiều chủng loại thủy sản đa dạng, phân bố theo đặc điểm địa lý và khí hậu khác nhau.

- Khu vực miền Bắc với thế mạnh về các loại cá nước ngọt, chăn nuôi cá - lúa và nuôi cá lồng trên biển.

- Khu vực miền Trung tập trung vào nuôi thâm canh tôm sú và nuôi cá lồng trên biển và tôm hùm.

Miền Nam Việt Nam nổi bật với sự đa dạng trong các loại hình chăn nuôi thủy sản, bao gồm nuôi ao, nuôi hàng rào và nuôi lồng cho cá da trơn Khu vực này còn nổi tiếng với nhiều loại cá như cá lóc, cá rô đồng và tôm càng xanh, được nuôi thâm canh kết hợp với các mô hình khác như chăn nuôi cá – lúa, tôm lúa, cũng như nuôi trồng thủy sản kết hợp với rừng ngập mặn.

Việt Nam nổi bật với các loại thủy sản như cá da trơn, tôm và cá rô phi, cùng với những loài đang phát triển như nhuyễn thể có vỏ và cá biển như cá bớp, cá tuyết và cá mú Ngành nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh mẽ tại các tỉnh Đồng Bằng Sông Mekong, đóng góp từ 75% đến 80% sản lượng cá da trơn và tôm của cả nước.

Phát triển thủy sản là một ngành kinh tế quan trọng của quốc gia, với mục tiêu sản xuất hàng hóa lớn gắn liền với công nghiệp hóa - hiện đại hóa và phát triển bền vững Ngành này cần có cơ cấu tổ chức sản xuất hợp lý, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả Để đạt được sự cạnh tranh và hội nhập quốc tế, việc xây dựng thương hiệu uy tín là cần thiết Đồng thời, việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân cũng như bảo đảm an sinh xã hội là ưu tiên hàng đầu Ngoài ra, ngành thủy sản còn góp phần quan trọng vào quốc phòng, an ninh, và giữ vững độc lập, chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.

Diễn biến ngành thủy sản

2.1 Nhu cầu tiêu thụ và tình hình sản xuất trong ngành

2.1.1 Nhu cầu tiêu thụ thủy sản

Theo báo cáo “Thực trạng khai thác và Nuôi trồng thủy sản thế giới năm 2020 – SOFIA 2020” của FAO, tiêu thụ thủy sản bình quân đầu người đã tăng từ 9kg vào năm 1961 lên 20,5kg vào năm 2018, với mức tăng trưởng khoảng 1,5% mỗi năm Từ năm 1861, tiêu thụ thủy sản toàn cầu tăng trung bình 3,1% mỗi năm, vượt xa mức tăng dân số 1,6% và tiêu thụ của các loại thực phẩm giàu protein khác như thịt bò, gia cầm và sữa với mức tăng 2,1% mỗi năm.

Theo dự báo của FAO đến năm 2030, tiêu thụ thủy sản thế giới sẽ tăng 18%

Tổng sản lượng đạt 28 triệu tấn vào năm 2018, tương đương 21,5kg/người Dự báo tốc độ tăng trưởng hàng năm trong 10 năm tới sẽ giảm xuống còn 1,4%, thấp hơn so với 2,6% trong giai đoạn 2017-2018 Nguyên nhân chính của sự giảm tốc này là do sản xuất giảm, giá cả tăng cao và dân số có xu hướng giảm.

Sản phẩm thủy sản Việt Nam có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế nhờ chất lượng nguyên liệu tốt và sự đa dạng trong chế biến Dự báo rằng ảnh hưởng của dịch Covid-19 sẽ giảm dần cùng với sự hỗ trợ từ các Hiệp định thương mại tự do, các kênh tiêu thụ chính sẽ phục hồi, tạo đà tăng trưởng cho ngành thủy sản trong năm 2021.

Thị trường nội địa ngành thủy sản Việt Nam chủ yếu chưa tập trung vào sản phẩm đông lạnh hay đóng hộp, do người tiêu dùng ưa chuộng thủy sản tươi sống Nhu cầu về các sản phẩm chất lượng cao vẫn còn thấp Tuy nhiên, thị trường hải sản tươi ở Việt Nam lại rất phong phú về chủng loại và dễ dàng tiếp cận, vì người mua có thể tìm thấy ở hầu hết các khu chợ.

Thủy sản Việt Nam hiện đang được tiêu thụ tại hơn 160 thị trường toàn cầu, với sự mở rộng đáng kể và vị thế ngày càng quan trọng tại các thị trường lớn Mỹ, Nhật Bản và EU là ba thị trường chủ yếu, chiếm từ 50-60% giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.

Năm 2020, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 8,6 tỷ USD, trong đó mặt hàng tôm đóng góp 3,78 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng 12,4% Dù gặp khó khăn do dịch bệnh, thị trường xuất khẩu tôm vẫn nổi bật trong ngành thủy sản Việt Nam cũng chiếm 95% thị phần xuất khẩu cá tra toàn cầu, khẳng định vị thế hàng đầu trên thị trường quốc tế (theo Tổ chức Thương mại thế giới – ITC).

2.1.2 Tình hình sản xuất thủy sản

Việt Nam, nằm bên bờ Tây của Biển Đông, có diện tích biển khoảng 3,448,000 km² và bờ biển dài 3,260 km Với vùng nội thuỷ và lãnh hải rộng 226,000 km² cùng vùng biển đặc quyền kinh tế hơn 1 triệu km², Việt Nam sở hữu hơn 4,000 hòn đảo và 12 vịnh, đầm phá có diện tích 1,160 km², tạo điều kiện thuận lợi cho tàu thuyền neo đậu Biển Việt Nam có đa dạng sinh học cao, với khoảng 11,000 loài sinh vật biển được phát hiện, thuộc khu vực nhiệt đới Ấn Độ - Thái Bình Dương Hệ thống sông ngòi dày đặc và đường biển dài cũng tạo điều kiện lý tưởng cho hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản.

Từ năm 1995 đến 2020, sản lượng thủy sản Việt Nam đã tăng mạnh, gấp hơn 6 lần, từ 1,3 triệu tấn lên 8,4 triệu tấn, với mức tăng trưởng trung bình hàng năm đạt 8% Trong đó, sản lượng nuôi trồng thủy sản (NTTS) chiếm 54%, trong khi khai thác thủy sản chiếm 46%.

Sản lượng nuôi trồng thủy sản của Việt Nam đã tăng gấp 11 lần, đạt gần 4,6 triệu tấn với mức tăng trưởng trung bình hàng năm là 10% Hoạt động nuôi trồng thủy sản chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu, tập trung chủ yếu ở Đồng bằng sông Cửu Long, nơi chiếm 95% tổng sản lượng cá tra và 80% sản lượng tôm.

Sản lượng khai thác thủy sản của Việt Nam tăng gấp hơn 4 lần, tăng trường trung bình năm 6% từ 929 nghìn tấn lên 3,85 triệu tấn.

2.2 Điểm chính trong ngành năm 2020

2.2.1 Sự thay đổi cơ cấu ngành sau Covid - 19 Đại dịch Covid – 19 khiến chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn trong cả năm. Nhu cầu trên thế giới giảm đáng kể đối với các sản phẩm thủy sản, khiến giá rơi xuống các mức thấp mới Giá tôm nguyên liệu trong nước chạm mức đáy 82.500 đồng/kg trong tháng 10 (-12% so với cùng kỳ và -14% so với đầu năm) trong khi giá cá nguyên liệu trong nước giảm xuống còn 17.750 đồng/kg (-14% so với cùng kỳ và - 10% so với đầu năm) Đáng lưu ý là sự sụt giảm này xảy ra ngay cả trên mức nền thấp của năm trước.

Mặc dù nhu cầu giảm, các công ty xuất khẩu tôm vẫn tìm kiếm cơ hội từ sự suy yếu nguồn cung toàn cầu, với sản lượng xuất khẩu gia tăng Rabobank ước tính sản lượng tôm của Ấn Độ giảm 10%-15% so với năm 2020, mở ra cơ hội cho các quốc gia khác nâng cao xuất khẩu Ngược lại, nhu cầu cá tra xuất khẩu giảm mạnh do các biện pháp giãn cách xã hội, ảnh hưởng đến giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc, Mỹ và EU, những thị trường chính của Việt Nam.

Trong 11 tháng đầu năm 2020, tổng giá trị xuất khẩu của các công ty thủy sản Việt Nam đạt 7,7 tỷ USD, giảm 2% so với cùng kỳ năm trước Giá trị xuất khẩu tôm đạt 3,4 tỷ USD, tăng 11%, trong khi giá trị xuất khẩu cá tra chỉ đạt 1,4 tỷ USD, giảm 25% Mặc dù tôm có sự tăng trưởng mạnh, giá bán bình quân thấp đã làm giảm tỷ suất lợi nhuận gộp của các công ty xuất khẩu tôm Tương tự, các công ty xuất khẩu cá tra cũng ghi nhận tỷ suất lợi nhuận gộp giảm đến quý 3 Tuy nhiên, với giá tôm và cá tra bắt đầu tăng từ đầu quý 4, kỳ vọng về tỷ suất lợi nhuận gộp cao hơn cho tất cả các công ty xuất khẩu trong quý 4/2020 đang được đặt ra.

VASEP dự báo giá trị xuất khẩu thủy sản năm nay sẽ giữ nguyên ở mức 8,6 tỷ USD so với năm trước Trong đó, xuất khẩu tôm ước đạt 3,8 tỷ USD, tăng 12,4% so với cùng kỳ, trong khi giá trị xuất khẩu cá tra giảm xuống còn 1,5 tỷ USD, giảm 24% so với năm trước.

2.2.3 Các sự kiện đáng chú ý khác

Hiệp định EVFTA có hiệu lực từ tháng 8, mang lại lợi ích lớn cho xuất khẩu tôm khi thuế nhập khẩu của EU giảm từ 4,2% xuống 0,0% Trong khi đó, thuế cá tra chỉ giảm từ 5,5% xuống 4,1%, mức giảm này không đủ để bù đắp cho sự giảm sút nhu cầu từ EU, dẫn đến xuất khẩu cá tra phục hồi chậm Ngược lại, xuất khẩu tôm đã ghi nhận sự tăng trưởng liên tục về giá trị hàng tháng so với cùng kỳ tính đến tháng 10.

Việc Trung Quốc thắt chặt kiểm soát hải sản nhập khẩu bắt đầu từ đầu tháng

Theo VASEP, chính sách mới tại các cảng biển Trung Quốc đã gây ra tình trạng ách tắc, làm tăng thời gian thông quan thêm 20-30 ngày Điều này tạo áp lực lớn cho các công ty xuất khẩu do việc giao hàng bị chậm trễ và chi phí cho container lạnh gia tăng.

Ảnh hưởng của EVFTA

Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên Minh Châu Âu

Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA) đã được chính thức thông qua bởi Nghị viện Châu Âu vào tháng 2/2020 và Quốc hội Việt Nam vào tháng 6/2020, có hiệu lực từ ngày 1/8/2020 Hiệp định này hứa hẹn sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong 5-10 năm tới và đóng góp vào việc đa dạng hóa thị trường xuất, nhập khẩu Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, EVFTA dự kiến sẽ giúp GDP Việt Nam tăng khoảng 2,18% đến 3,25% vào năm 2025, 4,57%-5,3% vào năm 2030, và 7,07%-7,72% vào năm 2035 so với kịch bản cơ sở năm 2020.

Tôm nguyên liệu, cá tra được hưởng lợi ngay lập tức từ EVFTA.

3.1 Tình hình xuất khẩu thủy sản sang EU

Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 8,6 tỷ USD, chiếm 3,3% tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia Trong đó, xuất khẩu tôm đạt 3,4 tỷ USD, trong khi cá tra ghi nhận kim ngạch 2,0 tỷ USD.

- Tôm: Năm 2019, EU tiếp tục là thị trường nhập khẩu tôm lớn nhất của ViệtNam, với kim ngạch 690 triệu USD, chiếm 21% tổng xuất khẩu tôm của Việt Nam.

Trong những năm gần đây, xuất khẩu tôm của Việt Nam sang EU đã giảm sút do giá tôm giảm và sự gia tăng thị phần của các nước cạnh tranh như Ecuador và Argentina trong lĩnh vực tôm nguyên liệu, cùng với Morocco trong tôm chế biến Đặc biệt, tôm nhập khẩu từ Ecuador và Morocco được EU miễn thuế, tạo thêm thách thức cho tôm Việt Nam trong thị trường này.

Kim ngạch xuất khẩu cá tra sang EU đã giảm mạnh từ 550 triệu USD năm 2015 xuống chỉ còn 200 triệu USD mỗi năm sau 2016 Nguyên nhân chính là do một phóng sự của truyền hình Tây Ban Nha vào cuối năm 2015 và đầu năm 2016, nêu bật những vấn đề về vệ sinh trong nuôi cá tra tại Việt Nam, cũng như việc sử dụng thức ăn thủy sản không đạt tiêu chuẩn, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sông Mekong Đến năm 2019, thị trường EU chỉ chiếm 12% tổng xuất khẩu cá tra của Việt Nam, giảm đáng kể so với 35% vào năm 2015.

Yêu cầu xuất xứ đối với thủy sản là sản phẩm phải được nuôi trồng hoặc đánh bắt và chế biến trong nước Ngành cá tra hiện đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn này, trong khi ngành tôm có một số doanh nghiệp như Minh Phú nhập khẩu tôm từ Ấn Độ Tuy nhiên, lượng tôm nhập khẩu chỉ chiếm khoảng 16% tổng sản lượng tôm nguyên liệu tại Việt Nam, vì vậy không ảnh hưởng đến việc hưởng lợi từ ưu đãi thuế của doanh nghiệp.

Để đạt được sự tăng trưởng bền vững trong xuất khẩu, các doanh nghiệp cần xem xét việc sở hữu chứng nhận ASC Mặc dù không bắt buộc, nhưng chứng nhận này ngày càng trở nên phổ biến đối với các sản phẩm thủy sản nuôi trồng nhập khẩu.

Chứng nhận EU được cấp bởi Hội đồng quản lý Nuôi trồng thủy sản, bao gồm các tiêu chuẩn liên quan đến tác động môi trường, bảo tồn tài nguyên nước, bảo vệ quần thể hoang dã và đảm bảo quyền lợi của người lao động.

3.2 Các doanh nghiệp hoạt động chính trong ngành

Sau khi Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA) có hiệu lực từ ngày 1/8/2020, xuất khẩu tôm sang EU28 đã ghi nhận sự tăng trưởng ấn tượng với mức tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước trong tháng 8 và 41,1% trong tháng 9 Trong khi đó, trong tháng 7 và tháng 6, tỷ lệ tăng trưởng lần lượt chỉ đạt 2,0% và -7,9% Sự gia tăng này một phần do nguồn cung tôm từ Ấn Độ và Ecuador, hai quốc gia xuất khẩu tôm lớn nhất thế giới, đang suy giảm.

Xuất khẩu cá tra đang tiếp tục giảm sút so với năm trước, với kim ngạch xuất khẩu sang EU28 giảm 3,7% trong tháng 8 và 11,7% trong tháng 9 Tình hình này cho thấy chưa có dấu hiệu hồi phục rõ ràng, khi mức giảm trong tháng 7 là 1,9% và tháng 6 là 32,4%.

STT Mã Doan % xuất Đánh giá mức độ hưởng lợi cổ h thu khẩu phiế 2019 sang u (tỷ EU/tổng

1 CMX 951 59% - Doanh nghiệp có tỷ trọng xuất khẩu vào

EU/tổng Doanh thu lớn nhất trong các doanh nghiệp thuộc nghiên cứu của chúng tôi, do đó có tiềm năng hưởng lợi lớn từ EVFTA.

- Tuy nhiên doanh nghiệp không công bố thông tin chi tiết về cơ cấu sản phẩm (tôm nguyên liệu vs tôm chế biến).

- Riêng trong tháng 8 và tháng 9, Camimex xuất khẩu được tương ứng 6,4 triệu USD (+109% YoY) và 6,1 triệu USD (+88% YoY) Tính đến hết tháng 9, xuất khẩu của Camimex tăng 33% YoY.

2 ABT 361 46% - Doanh nghiệp có tỷ trọng xuất khẩu vào EU lớn, có tiềm năng hưởng lợi từ EVFTA.

Trong năm 2020, ngành cá tra đối mặt với nhiều thách thức khi nhu cầu tiêu thụ tại các thị trường lớn như Mỹ, EU và Trung Quốc giảm mạnh và phục hồi chậm do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 Do đó, tác động tích cực của Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam (EVFTA) chưa thể hiện rõ ràng ngay lập tức.

Doanh nghiệp ABT hoàn toàn tự chủ về vùng nuôi và đã được chứng nhận ASC, với chiến lược tập trung vào sản phẩm giá trị gia tăng, đặc biệt là tại thị trường Nhật Bản Trong khi đó, FMC có cơ cấu sản phẩm với 77% là tôm chế biến, nhưng chỉ được hưởng lợi về thuế suất đối với tôm nguyên liệu trong ngắn hạn; tôm chế biến sẽ phải chờ 5 năm mới được áp dụng mức thuế giảm.

- Doanh nghiệp có kế hoạch phát hành tăng vốn nhằm tăng công suất trong thời gian tới.

- Riêng trong tháng 8, FMC xuất khẩu 22,5 triệu USD, tăng 33% YoY Tính đến hết tháng 8, xuất khẩu của FMC tăng 11% YoY.

VHC 7.867 14% - Mặt hàng cá tra sẽ được giảm thuế dần trong 3 năm, do đó VHC sẽ được hưởng lợi ngay lập tức sau khi EVFTA có hiệu lực.

Mặc dù xuất khẩu của VHC sang EU chỉ chiếm 14% tổng kim ngạch, nhưng thị trường này đang gặp phải nhiều thách thức như nhu cầu giảm sút do dịch bệnh và hình ảnh cá tra bị ảnh hưởng bởi những tuyên truyền về ô nhiễm môi trường, cản trở khả năng tăng trưởng xuất khẩu của VHC.

- Xuất khẩu tháng 9 của VHC đạt 18,2 triệu USD, giảm 9,7% YoY Xuất khẩu 9 tháng giảm 18% YoY.

- Cho năm 2020, SSI dự báo doanh thu và lợi nhuận của VHC sẽ đạt 7.096 tỷ đồng (-10,1% YoY) và 868 tỷ đồng (-26,4% YoY) Cho năm

Dự báo cho năm 2021, doanh thu sẽ đạt 8.771 tỷ đồng, tăng 23,5% so với năm trước, trong khi lợi nhuận dự kiến đạt 1.067 tỷ đồng, tăng 23% so với cùng kỳ Sự tăng trưởng này chủ yếu nhờ vào sự hồi phục từ cá tra fillet và sự phát triển mạnh mẽ của mặt hàng collagen-gelatin.

SSI dự báo giá mục tiêu cho cổ phiếu VHC là 48.300 VND/cổ phiếu và khuyến nghị Khả quan Định giá được thực hiện dựa trên P/E mục tiêu 7,5x cho ngành hàng truyền thống như cá tra fillet và phụ phẩm, cùng với P/E mục tiêu 10x cho ngành hàng collagen-gelatin và EPS năm 2021.

Triển vọng tăng trưởng ngành thủy sản năm 2021

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, trong hai tháng đầu năm 2021, sản lượng thủy sản của cả nước đạt 1.141,4 ngàn tấn, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước Trong đó, sản lượng nuôi trồng đạt 200,5 ngàn tấn, tăng 2,5%, và sản lượng khai thác đạt 540,9 ngàn tấn, tăng 0,5% Đặc biệt, sản lượng thủy sản khai thác biển đạt 512,7 ngàn tấn, cũng tăng 0,5%.

VASEP dự báo rằng xuất khẩu thủy sản trong năm 2021 có thể đạt 9,4 tỷ USD, tăng trưởng 10% so với cùng kỳ, vượt qua tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2019 là 6,8% Trong đó, xuất khẩu tôm sẽ là động lực chính với mức tăng 15%, đạt 4,4 tỷ USD; cá tra cũng ghi nhận mức tăng 5%, đạt 1,6 tỷ USD; và các sản phẩm thủy sản khác dự kiến tăng 6%, đạt 3,4 tỷ USD.

Có tổng cộng 853 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu thủy sản, trong đó nổi bật có 6 doanh nghiệp có giá trị xuất khẩu trên 10 triệu USD Những doanh nghiệp dẫn đầu bao gồm Công ty Cổ phần Thủy sản Sóc Trăng, Công ty Cổ phần Vĩnh Hoàn, Công ty Cổ phần Thủy sản Minh Phú – Hậu Giang, và Công ty Cổ phần Tập đoàn Thủy sản Minh Phú.

Trong tháng 1/2021, có 137 doanh nghiệp xuất khẩu đạt giá trị từ 1 đến 9,9 triệu USD, trong khi các doanh nghiệp có giá trị xuất khẩu dưới 1 triệu USD chiếm 25,5% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của cả nước.

Trong hai tháng đầu năm 2021, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 259,1 ngàn tấn với giá trị 1,011 tỷ USD, tăng 5,5% về lượng nhưng giảm 0,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020, chiếm 2% tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa của cả nước Mặc dù chưa có nhiều biến động lớn so với năm trước, dự báo xuất khẩu thủy sản sẽ tăng tốc mạnh từ tháng 3/2021 nhờ sự quyết tâm và chuẩn bị kỹ lưỡng của các doanh nghiệp trong việc cung cấp và sản xuất.

Sau khi đạt 606 triệu USD với mức tăng 23,4% trong tháng 1/2021 nhờ vào sự phát triển tích cực của các mặt hàng như cá tra, các loại cá biển (trừ cá ngừ) và tôm chân trắng, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong tháng 2 đã giảm khoảng 19% so với cùng kỳ năm 2020, ước đạt trên 405 triệu USD Nguyên nhân của sự sụt giảm này là do tháng 2 trùng với kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, dẫn đến thời gian sản xuất, khai thác và chế biến ít hơn so với tháng 2/2020 Tính đến hết tháng 2/2021, tổng giá trị xuất khẩu thủy sản đã đạt trên 1 tỷ USD, tăng 2,2%.

Trong 2 tháng đầu năm, xuất khẩu các sản phẩm thủy sản của Việt Nam tiếp tục bị chi phối bởi xu hướng tiêu thụ của thị trường trong bối cảnh dịch Covid vẫn nghiêm trọng theo đó, nhu cầu vẫn nghiêng về các sản phẩm thủy sản có giá vừa phải, dễ chế biến, có thời hạn bảo quản lâu, phù hợp với chế biến và tiêu thụ tại nhà như: tôm chân tráng cỡ nhỏ đông lạnh, tôm chân trắng chế biến, chả cá, surimi, cá biển phile, cắt khúc, cá cơm khô, mực khô… Trong khi đó, xuất khẩu các sản phẩm tôm nguyên con đông lạnh, nhất là tôm sú giảm do yếu tố giá cao và do sự kiểm soát chặt hàng thực phẩm đông lạnh nhập khẩu của thị trưởng Trung Quốc ngoài ra, kỳ nghỉ tết cũng khiến nguồn nguyên liệu sụt giảm nhất là các mặt hàng hải sản như cá ngừ, mực, bạch tuộc, tôm biển, … khiến giá trị xuất khẩu giảm bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu trong 2 tháng đầu năm cũng bị hạn chế bởi cước vận tải biển tăng cao.

Xuất khẩu tháng 2 ước đặt gần 160 triệu USD giảm 18% so với cùng kỳ năm

Đến hết tháng 2 năm 2020, xuất khẩu tôm đạt trên 380 triệu USD, giảm 0,8% so với cùng kỳ năm ngoái Nguyên nhân chính là do xuất khẩu tôm sú giảm gần 40%, trong khi tôm chân trắng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, đạt 80% tổng xuất khẩu tôm.

304 triệu tăng khoảng 14% so với cùng kỳ năm ngoái, tôm sú chỉ chiếm 10% đtạ khoảng 38 triệu USD giảm 48%.

Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn

Tổng quan về công ty cổ phần Vĩnh Hoàn

Công Ty Cổ Phần Vĩnh Hoàn, thành lập vào ngày 27 tháng 12, là một trong những doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực chế biến và xuất khẩu cá tra, basa.

Năm 1997, tại thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, một công ty nhỏ chuyên chế biến và xuất khẩu cá tra và basa đông lạnh đã ra đời Nhờ vào chiến lược phát triển hợp lý và cam kết nâng cao chất lượng sản phẩm, công ty này đã đạt được những thành tựu ấn tượng và xây dựng được thương hiệu uy tín trên thị trường.

Nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, bảo quản thủy hải sản và các sản phẩm từ thủy hải sản Mua bán thủy hải sản.

Chúng tôi chuyên mua bán máy móc thiết bị, hóa chất, nông sản thực phẩm, súc sản và nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất và chế biến thủy hải sản, cũng như chế biến thức ăn cho thủy sản.

Chúng tôi chuyên sản xuất và kinh doanh thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản, cùng với các loại thuốc thú y thủy sản Ngoài ra, chúng tôi cung cấp dịch vụ tư vấn về việc sử dụng thuốc, thức ăn và kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, nhằm đảm bảo sức khỏe và năng suất cho vật nuôi của bạn.

Kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái.

Sản xuất bao bì giấy, in các loại.

Xây dựng nhà các loại, kinh doanh bất động sản.

Năm 2019, Vĩnh Hoàn giữ vững vị thế dẫn đầu trong xuất khẩu cá tra toàn cầu và là nhà sản xuất thủy hải sản lớn thứ hai tại Việt Nam Thương hiệu Vĩnh Hoàn được xây dựng trên nền tảng chất lượng và dịch vụ vượt trội, cùng với hệ thống sản xuất và nuôi trồng tích hợp Đội ngũ điều hành của công ty có kinh nghiệm dày dạn, tận tâm và trách nhiệm cao, giúp Vĩnh Hoàn duy trì và phát huy giá trị cốt lõi trước những thách thức của thị trường và rào cản thương mại kỹ thuật.

Cổ phiếu của Vĩnh Hoàn hiện đang được niêm yết tại Sở GDCK TP.Hồ Chí Minh (HOSE) với mã niên yết VHC:

Nhóm ngành: Chế biến cá tra

KL CP đang niêm yết: 183,376,956 cp

KL CP đang lưu hành: 181,946,026 cp

Cơ cấu cổ đông và ban lãnh đạo

Ban lãnh đạo của Vĩnh Hoàn bao gồm những chuyên gia có kinh nghiệm và gắn bó lâu dài với công ty từ những ngày đầu thành lập Ngoại trừ bà Trương Thị Lệ Khanh, các thành viên khác trong Ban Giám Đốc và Hội Đồng quản trị sở hữu tỷ lệ cổ phần rất nhỏ tại công ty.

Bà Khanh, người sáng lập Vĩnh Hoàn và hiện là Chủ tịch HĐQT, nắm giữ cơ cấu cổ đông chủ chốt, điều này có thể dẫn đến rủi ro cho cổ đông thiểu số khi họ ít có quyền tham gia vào các quyết định hoạt động của Công ty Tuy nhiên, lợi ích lâu dài mà thành viên sáng lập gắn bó với Công ty mang lại đã làm giảm mức độ lo ngại về rủi ro này.

Trương Thị Lệ Khanh Mitsubishi Corp

Cơ hội và rủi ro của công ty

- Ngành thủy sản có tiềm năng phát triển cao

Thị trường còn nhiều tiềm năng phát triển, đặc biệt là ở mảng bán lẻ và sản phẩm giá trị gia tăng.

Ngành nuôi trồng thủy sản toàn cầu đang phát triển mạnh mẽ, dần thay thế các sản phẩm đánh bắt tự nhiên để đáp ứng nhu cầu thực phẩm dinh dưỡng cho dân số ngày càng tăng Sự phát triển này không chỉ tạo ra nguồn thực phẩm chính mà còn mở ra cơ hội cho các sản phẩm phục vụ cho ngành nuôi trồng thủy sản.

- Sự ủng hộ của chính phủ

Ngành thủy sản, đặc biệt là cá tra, đang nhận được sự quan tâm và đầu tư mạnh mẽ từ nhà nước Các chương trình nghiên cứu và phát triển, cùng với hoạt động xúc tiến thương mại và quan hệ công chúng, đang được hỗ trợ nhằm nâng cao hình ảnh và giá trị của cá tra trong tương lai.

- Sự uy tín của công ty

Nhận thức về an toàn thực phẩm của người tiêu dùng ngày càng gia tăng, với nguồn gốc sản phẩm trở thành mối quan tâm hàng đầu Do đó, uy tín của công ty đóng vai trò quan trọng trong việc tạo dựng niềm tin của người dùng vào sản phẩm.

Cá tra tiếp tục giữ vững lợi thế cạnh tranh về giá so với các loại cá thịt trắng khác, và hiện tại chưa có sản phẩm nào có thể thay thế trực tiếp loại cá này.

- Nguồn lực kinh doanh và sản xuất mạnh

VHC là công ty hàng đầu trong lĩnh vực xuất khẩu cá tra, với thị phần ổn định khoảng 15% trong giai đoạn 2016-2020, điều này đã tạo ra nhiều lợi thế cho doanh nghiệp.

Theo báo cáo kinh doanh mới nhất của VHC, doanh thu trong 11 tháng năm 2020 đạt khoảng 6,547 tỷ đồng, giảm 7,4% do tác động của dịch COVID-19 Tuy nhiên, các chuyên gia từ Công ty Chứng khoán Phúc Hưng (PHS) nhận định rằng VHC có khả năng chống chịu tốt hơn so với các doanh nghiệp trong ngành Trong 9 tháng đầu năm 2020, trong khi doanh thu trung bình toàn ngành giảm 25% so với cùng kỳ, doanh thu của VHC chỉ giảm 11%, cho thấy mức giảm thấp nhất trong số các doanh nghiệp khác.

- VHC là một trong những doanh nghiệp dẫn đầu trong việc định hướng phát triển bền vững ngành cá tra.

Phát triển bền vững không chỉ bảo vệ môi trường mà còn gia tăng giá trị sản phẩm trong nhận thức của người tiêu dùng Công ty VHC đang áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, kết hợp phát triển sản xuất với bảo vệ môi trường và hệ sinh thái Các chất thải trong quá trình sản xuất và chế biến được tái sử dụng làm nguyên liệu cho các công đoạn tiếp theo.

VHC, với quy mô lớn và tiềm lực mạnh mẽ, đã tiên phong sản xuất collagen từ da cá, một lĩnh vực chưa có công ty nào trong ngành thực hiện Vào tháng 10/2019, VHC giới thiệu sản phẩm collagen mang thương hiệu Vinh Wellness, được chế biến từ phụ phẩm cá tra và là sản phẩm đầu tiên trên thế giới đạt chứng nhận ASC Nhà máy collagen của VHC có công suất 3,500 tấn mỗi năm, dự kiến đóng góp khoảng 3% vào doanh thu hàng năm của công ty.

Các hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là Hiệp định thương mại tự do Liên minh Châu Âu và Việt Nam (EVFTA), sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp thủy sản tại Việt Nam, trong đó có Công ty VHC.

Xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc tăng trưởng doanh thu của VHC, với Mỹ là một trong những thị trường chính, đạt giá trị khoảng 4,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 54% tổng doanh thu năm 2019 Giá trị xuất khẩu sang Mỹ của VHC đã tăng trưởng ổn định với tốc độ khoảng 2% mỗi năm trong giai đoạn 2015.

2019, từ 3,8 nghìn tỷ đồng vào năm 2015 lên 4,3 nghìn tỷ đồng vào năm 2019.

- Chi phí sản xuất ngày càng tăng từ con giống, thức ăn, cá nguyên liệu, điện, chi phí tài chính

Thiếu hụt nguyên liệu sản xuất có thể cản trở Công ty hoàn thành kế hoạch sản xuất, dẫn đến việc chậm trễ trong tăng trưởng Hiện tại, Công ty chỉ đáp ứng được khoảng 50-60% nhu cầu sản xuất, điều này cần được cải thiện để đảm bảo sự phát triển bền vững.

- Các rào cản về thương mại và kỹ thuật ở các nước nhập khẩu

- Rủi ro cạnh tranh tại thị trường Mĩ

Vào ngày 13/09/2018, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) công bố kết quả sơ bộ của kỳ POR14, trong đó Vĩnh Hoàn và Biển Đông tiếp tục chịu mức thuế cũ Đồng thời, có thêm 6 doanh nghiệp được xem xét giảm thuế chống bán phá giá trong kỳ tới Sự gia nhập này dự kiến sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh gia tăng, ảnh hưởng đến giá bán và thị phần hiện tại của VHC.

Năm 2019, giá cá tra nguyên liệu đã giảm sau đợt tăng mạnh, kéo theo sự giảm giá của sản phẩm Hiện tượng người dân ồ ạt đào ao nuôi cá tra ngoài quy hoạch do giá cá tăng cao đã dẫn đến nguồn cung cá tra tăng nhanh, có nguy cơ dư thừa nguyên liệu Điều này có thể làm giảm giá và lợi nhuận, như đã từng xảy ra trong quá khứ.

- Mức thuế mới sẽ gia tăng rủi ro doanh thu cho VHC.

Mức thuế sơ bộ đối với VHC trong POR 16 đã tăng lên 3% so với giá xuất khẩu sang Mỹ, so với POR 15 Tuy nhiên, kết quả cuối cùng có thể thay đổi, giống như các kỳ POR14 và POR13 trước đó Kết luận cuối cùng dự kiến sẽ được công bố trong vòng 120 ngày kể từ thông báo kết quả sơ bộ, khoảng vào tháng 4/2021.

Phân tích hoạt động sản xuất – kinh doanh của công ty

3.1 Hoạt động chế biến và xuất khẩu thủy sản

Giá cá tra có dấu hiệu phục hồi kể từ cuối năm 2020

Giá bán bình quân cá tra của VHC giảm 20,1% svck xuống 2,7 USD/kg vào năm

Năm 2020, giá cá nguyên liệu trung bình giảm 6,2% so với cùng kỳ năm trước, đạt 20.762 đồng/kg, dẫn đến tỷ suất lợi nhuận gộp giảm 2,6 điểm phần trăm xuống còn 14,2% Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), từ quý 3 năm 2020, xuất khẩu cá tra bắt đầu phục hồi tại thị trường Trung Quốc - Hồng Kông và Anh, mặc dù giá trị xuất khẩu sang Mỹ giảm do ảnh hưởng của đại dịch Công ty dự đoán nhu cầu sẽ phục hồi mạnh mẽ khi các nhà hàng và khách sạn tại các thị trường mục tiêu hoạt động trở lại, với giá bán bình quân dự kiến tăng từ 2,7 USD/kg trong năm 2020 lên 3,0 USD/kg - 3,2 USD/kg (tương ứng 8,6% - 6,7%) trong năm 2021-2022.

Cuối năm 2020, thị trường cá nguyên liệu trở nên sôi động nhờ sự gia tăng hợp đồng cá tra với các nhà máy chế biến, trong khi nguồn cung và tồn kho giảm Diện tích nuôi cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long ước đạt 5.700 ha, giảm 15,7% so với cùng kỳ năm trước, với diện tích thu hoạch chỉ đạt 1.800 ha, mức thấp nhất trong 4 năm qua Người nuôi không có động lực để mở rộng diện tích, dẫn đến nguồn cung cá nguyên liệu giảm và giá cá nguyên liệu tăng từ 20.762 đồng năm 2020 lên 22.008 - 23.329 đồng cho năm 2021-2022 Dự kiến, tỷ suất lợi nhuận gộp sẽ tăng 1,7 điểm phần trăm lên 15,9% trong năm 2021 và 17,8% cho năm 2022.

Thị trường xuất khẩu EU kỳ vọng phục hồi mạnh

Nhờ ảnh hưởng tích cực của EVFTA, giá trị xuất khẩu của VHC sang EU đã tăng trưởng mạnh 22,3% so với cùng kỳ năm trước trong năm 2020, nhờ hiệp định có hiệu lực từ tháng 8 năm 2020 Các sản phẩm của VHC được hưởng lợi từ việc giảm thuế, cụ thể thuế suất đối với cá tra tươi sống và ướp lạnh giảm từ 9% xuống 0% sau 3 năm, cá tra phi lê đông lạnh giảm từ 5,5% xuống 0%, và thuế đối với sản phẩm cá tra đông lạnh sẽ được loại bỏ trong 3 năm Chúng tôi kỳ vọng sản lượng xuất khẩu của VHC sang EU đạt 323 triệu tấn, tương đương 949 tỷ đồng doanh thu xuất khẩu cá tra trong năm 2021, tăng 20% và 30,7% so với cùng kỳ năm trước.

So sánh các chính sách thuế tới EU đối với các sản phẩm cá tra

Sản phẩm-Quốc gia Thuế suất GSP MFN EVFTA sau 3 năm

Cá tra tươi sống ướp lạnh

Cá tra phi lê đông lạnh

Các mức thuế mới ảnh hưởng đến sản lượng xuất khẩu của VHC sang Mỹ

Giá trị xuất khẩu của VHC sang thị trường Mỹ đã giảm 21,1% so với cùng kỳ năm trước, chỉ còn 2.314 tỷ đồng vào năm 2020 Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu đối với sản phẩm cá tra suy yếu trong bối cảnh dịch COVID-19 và sự căng thẳng thương mại nhẹ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.

Bộ Thương mại Hoa Kỳ vừa công bố việc tăng thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm cá tra của Việt Nam, với kết quả sơ bộ từ đợt rà soát thuế đối với POR16 bắt đầu từ ngày 1 tháng.

Từ ngày 31 tháng 7 năm 2019, VHC đã nâng mức thuế suất từ 0% lên 0,09 USD/kg, tương đương 3% giá bán của sản phẩm tại Mỹ Mặc dù mức thuế này không lớn, nhưng có thể sẽ được xem xét lại như trong các giai đoạn POR13 và POR14, với quyết định cuối cùng được thông báo trong vòng 120 ngày kể từ kết quả sơ bộ vào tháng 4 năm 2021 Rủi ro đối với xuất khẩu cá tra sang Mỹ của VHC gia tăng, dẫn đến dự đoán sản lượng xuất khẩu cá tra sẽ giảm xuống còn 487 triệu tấn, giảm 4,2% so với cùng kỳ năm trước.

2021 Chúng tôi dự báo doanh thu xuất khẩu cá tra trong năm 2021 của VHC vào Mỹ đạt 148,8 tỷ đồng (+ 4,0% svck).

Thị trường Trung Quốc sẽ phục hồi trong năm 2021

Năm 2020, giá trị xuất khẩu của VHC sang Trung Quốc giảm 12,2% svck do

Trung Quốc đã hạn chế nhập khẩu thủy sản do lo ngại lây lan COVID-19 qua sản phẩm đông lạnh, dẫn đến nhu cầu giảm đối với cá tra Theo VASEP, xuất khẩu cá tra sang Trung Quốc trong tháng 11/2020 giảm 29,3% so với tháng trước, chủ yếu do ùn tắc tại các cửa khẩu do xét nghiệm virus SARS-CoV-2 Thêm vào đó, việc các nhà hàng và dịch vụ ăn uống phải đóng cửa do COVID-19 đã làm giảm nhu cầu đối với sản phẩm cá tra, gây trì trệ trong xuất khẩu sang Trung Quốc trong năm 2020.

Năm 2021, chúng tôi tin rằng các rào cản thương mại với Trung Quốc sẽ được tháo gỡ, dẫn đến sự phục hồi nhu cầu đối với sản phẩm thủy sản, đặc biệt là cá tra Dự kiến, sản lượng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc sẽ đạt 366 triệu tấn, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước Doanh thu xuất khẩu cá tra của VHC cũng được kỳ vọng sẽ đạt 1.074,7 tỷ đồng, tăng 19,8% so với cùng kỳ.

 Cạnh tranh ngành và vị thế

VHC là doanh nghiệp hàng đầu trong ngành xuất khẩu cá tra, duy trì thị phần khoảng 15% trong giai đoạn 2016-2020, mang lại nhiều lợi thế cho công ty Với vị thế dẫn đầu, VHC được hưởng lợi từ quy mô lớn, thể hiện qua biên lợi nhuận hoạt động cao ngay cả khi toàn ngành gặp khó khăn trong năm 2020 Trong 9 tháng đầu năm 2020, mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19, VHC vẫn đạt biên lợi nhuận hoạt động 11%, là mức cao nhất trong ngành và gấp 1.9 lần so với mức trung bình của ngành.

VHC là doanh nghiệp tiên phong trong phát triển bền vững ngành cá tra, kết hợp bảo vệ môi trường với gia tăng giá trị sản phẩm trong nhận thức người tiêu dùng Công ty áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, trong đó chất thải từ sản xuất được tái chế thành sản phẩm đầu vào cho quy trình tiếp theo Cụ thể, nước thải từ vùng nuôi được xử lý sinh học để tưới tiêu cho cây trồng, cá chết và bùn thải được biến thành phân hữu cơ, trong khi bao bì thải được sử dụng làm nguyên liệu cho nhà máy sản xuất phân bón Mai Thiên Thanh.

VHC hiện đang sở hữu một trại ươm cá giống cùng với các dự án sản xuất giống công nghệ cao, diện tích nuôi trồng lên tới 610ha, bao gồm 5 nhà máy chế biến cá fillet, 1 nhà máy chế biến sản phẩm giá trị gia tăng, 2 nhà máy sản xuất bột mỡ cá, và 1 nhà máy sản xuất collagen và gelatin Để hoàn thiện mô hình kinh tế tuần hoàn, VHC cũng đang hướng tới việc xây dựng nhà máy tái chế bao bì, quy hoạch ao nước thải gần vùng nông nghiệp, nuôi cá tuần hoàn và giảm thiểu việc sử dụng nước.

VHC đã mạnh dạn sản xuất collagen từ da cá, một bước đi tiên phong trong ngành Vào tháng 10 năm 2020, công ty mở rộng dây chuyền sản xuất C&G và thành lập trung tâm nghiên cứu mới, nhằm đa dạng hóa sản phẩm chăm sóc sức khỏe và đầu tư vào công nghệ Hiện tại, công suất dây chuyền sản xuất C&G của VHC đã tăng từ 2.000 tấn/năm lên 3.500 tấn/năm.

Tăng trưởng mảng collagen & gelatin (C&G) của VHC trong năm 2020 ước tính chỉ đạt 8,6% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều so với dự báo 43,9% do hoãn nâng cấp dây chuyền sản xuất và thiếu container xuất khẩu Dự kiến, dây chuyền nâng cấp sẽ đạt 50% công suất vào năm 2021, giảm so với giả định 80% trước đó Chúng tôi kỳ vọng doanh thu của C&G sẽ đạt từ 798,9 đến 1278,2 tỷ đồng, tương ứng với mức tăng 37,5% và 60% so với cùng kỳ trong năm 2021-2022.

3.2 Hoạt động nuôi trồng thủy sản

Vĩnh Hoàn hiện có 6 vùng nuôi trồng thủy sản chính với tổng diện tích 140 ha, bao gồm Tân Hòa, Tân Thuận Tây, Tân Thuận Đông, Cồn Tân Thanh, Mỹ Xương và Bình Thạnh Năm 2010, công ty đã mở rộng thêm 60 ha, nâng tổng diện tích lên 200 ha, trong đó có 4 vùng đạt chứng chỉ AquaGap và 5 vùng đạt chứng chỉ Global Gap Các vùng nuôi chủ yếu cung cấp nguyên liệu cho hoạt động chế biến, với khoảng 40.000 tấn cá tra nguyên liệu được cung cấp trong năm 2010, đáp ứng 50% nhu cầu sản xuất của Vĩnh Hoàn Với diện tích được cải tạo cho năm 2011, sản lượng cá tra tự cung cấp dự kiến sẽ đạt khoảng 70.000 tấn, đáp ứng 70-80% nhu cầu sản xuất của công ty.

Tháng 8 năm 2018, Vĩnh Hoàn góp 100% vốn tương đương 300 tỷ đồng thành lập công ty TNHH Vĩnh Phước để mua lại nhà máy và vùng nuôi hiện hữu của bên thứ ba với vị trí thuận lợi và lao động sẵn có Sau Thanh Bình, Vĩnh Phước là bước tiếp nối hoàn thiện kế hoạch gia tăng công suất để đảm bảo mục tiêu tăng 20% mỗi năm giai đoạn 2019 - 2020, tạo cơ sở vững chắc để thực hiện các mục tiêu tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận trong những năm tới Vĩnh Phước hiện có một nhà máy chế biến cá tra công suất 150 tấn nguyên liệu/ngày trên diện tích gần 17 hecta, thuận tiện cho việc xây thêm nhà máy Ngoài ra Vĩnh Phước còn có hai vùng nuôi với diện tích khoảng 70 hecta, góp phần duy trì và gia tăng tỷ lệ tự cung nguyên liệu cho toàn công ty phù hợp với tốc độ tăng công suất chế biến Cuối năm 2018, Vĩnh Phúc đã nhanh chóng nâng cấp sửa chữa nhà máy, ổn định lực lượng lao động sẵn có và thu hút thêm lao động để có thể nhanh chóng đóng góp vào kết quả kinh doanh của toàn công ty trong năm 2019 Hiện tại, Vĩnh Phúc cũng đang thực hiện dự án xây dựng nhà máy sản xuất bột cá và mỡ cá trên diện tích đất sẵn có để sớm hoàn thiện chuyên sản xuất mang lại hiệu quả cho công ty.

Đánh giá hiệu quả sản xuất và kinh doanh của Vĩnh Hoàn

Doanh thu và lợi nhuận của VHC năm 2020 (tỷ đồng)

Trong năm 2020, doanh nghiệp Vĩnh Hoàn ghi nhận doanh thu 7.037,2 tỷ đồng và lợi nhuận 704,8 tỷ đồng, giảm lần lượt 10,5% và 40,2% so với năm 2019 Doanh nghiệp chỉ hoàn thành 66,3% kế hoạch lợi nhuận theo kịch bản cao và 88,1% theo kịch bản thấp Kế hoạch năm 2020 của Vĩnh Hoàn bao gồm hai kịch bản: kịch bản cao với doanh thu 8.600 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế 1.063 tỷ đồng, trong khi kịch bản thấp dự kiến doanh thu 6.450 tỷ đồng và lợi nhuận 800 tỷ đồng Ngoài ra, VHC ghi nhận lãi từ chứng khoán kinh doanh gần 63,6 tỷ đồng, nhưng cũng gặp lỗ 16,2 tỷ đồng, dẫn đến lãi ròng 47,4 tỷ đồng từ hoạt động này.

Tính đến ngày 30/09/2020, giá trị chứng khoán kinh doanh của VHC đạt 117,7 tỷ đồng, nhưng đến 31/12/2020, con số này giảm xuống chỉ còn 562.792 đồng Điều này cho thấy VHC đã bán toàn bộ chứng khoán đầu tư trong năm tài chính, hiện không còn đầu tư vào cổ phiếu Sự sụt giảm này phản ánh khó khăn trong hoạt động kinh doanh cốt lõi của công ty trong năm 2020, khi doanh nghiệp đã chuyển dịch một phần đầu tư chứng khoán và cụ thể hóa lợi nhuận trong năm tài chính.

Trong tháng 2, doanh thu của Vĩnh Hoàn giảm 31% so với tháng 1/2021 do sự suy giảm doanh thu ở hầu hết các sản phẩm Tuy nhiên, lũy kế hai tháng đầu năm, tổng doanh thu của công ty vẫn tăng 11% so với cùng kỳ năm 2020, nhờ vào sự tăng trưởng của nhiều dòng sản phẩm, bao gồm cá tra (+0,3%), sản phẩm phụ (+83%), sản phẩm chăm sóc sức khỏe (+30%) và sản phẩm giá trị gia tăng (+57%).

Về tình hình kinh doanh, VNDirect dự phóng năm 2021, doanh thu thuần củaVĩnh Hoàn sẽ đạt 8.524 tỷ đồng, lợi nhuận ròng vào khoảng 899 tỷ đồng, lần lượt tăng

Trong giai đoạn 2021E-2025E, ước tính tốc độ tăng trưởng lợi nhuận bình quân đạt 8.4% mỗi năm Đặc biệt, lợi nhuận năm 2021E dự kiến sẽ tăng 17% so với năm trước, nhờ vào sự phát triển tích cực của các thị trường.

Tính đến cuối năm 2020, Vĩnh Hoàn ghi nhận tổng tài sản đạt gần 7.192 tỷ đồng, tăng 8,7% so với đầu năm Trong cơ cấu tài sản, tài sản cố định chiếm 25,1% với giá trị 1.808 tỷ đồng, các khoản phải thu ngắn hạn đạt 1.699 tỷ đồng (23,6%), tồn kho đạt 1.498,5 tỷ đồng (20,8%), và tiền cùng các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn đạt 1.405,3 tỷ đồng (19,5%) Đặc biệt, tiền và các khoản đầu tư tài chính giảm 51% so với năm trước Tổng tài sản của công ty trong các quý của năm 2020 đã tăng từ 6.440,34 tỷ đồng lên 7.191,98 tỷ đồng.

Đến cuối năm 2020, nợ phải trả của Vĩnh Hoàn đạt hơn 2.030 tỷ đồng, tăng 17% so với đầu năm Trong đó, tổng nợ vay của công ty gần 1.175 tỷ đồng, tăng gần 36% so với cuối năm ngoái, phản ánh sự thay đổi trong cơ cấu tài sản Cụ thể, nợ vay ngắn hạn tăng 27,6% lên mức 1.105 tỷ đồng, trong khi nợ vay dài hạn chỉ hơn 69 tỷ đồng.

Triển vọng kinh doanh của VHC năm 2021

Theo VCSC, nhu cầu cá tra đang phục hồi trong khi nguồn cung vẫn hạn chế, cùng với sự tăng trưởng hai chữ số của ngành collagen và gelatin, sẽ mang lại triển vọng tích cực cho Vĩnh Hoàn trong năm 2021.

Do giá bán giảm so với cùng kỳ năm trước, doanh thu và lợi nhuận của CTCP Vĩnh Hoàn (Mã: VHC) đã giảm mạnh Trong 9 tháng đầu năm, Vĩnh Hoàn ghi nhận doanh thu thuần đạt 5.093 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế cũng giảm đáng kể.

552 tỉ đồng, lần lượt giảm 11% và 44% so với cùng kì.

Theo CTCP Chứng khoán Bản Việt (VCSC), triển vọng của CTCP Vĩnh Hoàn (Mã: VHC) trong năm 2021 được đánh giá tích cực nhờ vào sự phục hồi của nhu cầu cá tra, trong khi nguồn cung vẫn hạn chế và sẽ tiếp tục duy trì trong năm tới.

Theo Agromonitor, trong tháng 10, xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc, Mỹ và EU tăng lần lượt 34%, 11% và 13% so với cùng kỳ năm trước, sau khi giảm trong 9 tháng đầu năm 2020 Tuy nhiên, tính đến tháng 9/2020, diện tích nuôi trồng cá tra của Việt Nam đã giảm 9% so với cùng kỳ Với chu kỳ nuôi trồng cá tra kéo dài 8 - 9 tháng, nguồn cung cá tra dự kiến sẽ tiếp tục hạn chế đến ít nhất giữa năm 2021.

Vì các yếu tố này nên VCSC dự báo giá cá tra nguyên liệu (mỗi kg) tăng từ 17.500 đồng trong quí III/2020 lên 23.000 đồng trong tháng 10/2020, theo Agromonitor.

Nguồn cung hạn chế sẽ giúp giá bán trung bình cá phi lê của VHC tăng, từ đó củng cố biên lợi nhuận gộp của công ty Dự báo, biên lợi nhuận gộp mảng cá phi lê của VHC sẽ tăng từ 9,9% trong quý III lên 11,5% trong quý IV/2020 và đạt 15,9% vào năm 2021.

Theo VCSC, Vĩnh Hoàn đang có động lực tăng trưởng mạnh mẽ từ mảng collagen & gelatin (C&G), với biên lợi nhuận cao và tốc độ tăng trưởng nhanh Trong 9 tháng năm 2020, doanh thu từ C&G tăng 23% so với cùng kỳ, chiếm khoảng 38% lợi nhuận sau thuế của cổ đông VHC VCSC dự đoán Vĩnh Hoàn sẽ nhanh chóng tận dụng công suất mới nhờ thị phần toàn cầu nhỏ và nhu cầu cao cho C&G từ nguồn gốc thủy hải sản Năm 2020, VHC đã ra mắt sản phẩm collagen nano và collagen tripeptide với giá bán cao gấp đôi sản phẩm hiện tại, dự kiến mảng C&G sẽ đóng góp 36% - 37% vào lợi nhuận sau thuế của cổ đông trong năm 2020 và 2021 Tuy nhiên, Vĩnh Hoàn cũng đối mặt với rủi ro từ quy định nhập khẩu nghiêm ngặt hơn của Trung Quốc do lo ngại về COVID-19, cùng với thị phần và biên lợi nhuận tại Mỹ thấp hơn dự kiến do sự cạnh tranh gia tăng và doanh số C&G tháng 9 không đạt kỳ vọng.

Cổ phiếu VHC

Bài viết phân tích bảy công ty niêm yết tại hai sàn TP.HCM và Hà Nội, bao gồm Công ty Vĩnh Hoàn (VHC), Công ty Thực phẩm Sao Ta (FMC), Công ty Thủy hải sản Minh Phú (MPC), Công ty Thủy sản Việt Nam (SEA), Công ty Cổ phần Nam Việt (ANV), Công ty Cổ phần Tập đoàn Sao Mai, và Công ty Cổ phần Đầu tư và phát triển Đa Quốc Gia (IDI) Bảng dưới đây trình bày một số chỉ tiêu tài chính cơ bản của các công ty này.

Số CP lưu Vốn hóa

Mã hành bình thị BV EPS P/E P/B ROE

CK quân (Triệu trường (VND) (VND) (Lần) (Lần) (%)

VHC tiếp tục khẳng định vị thế hàng đầu trong ngành với các chỉ số mạnh mẽ như vốn hóa, giá trị sổ sách, lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu và hệ số giá trên thu nhập Đặc biệt, công ty chiếm ưu thế lớn trong thị trường xuất khẩu cá tra tại Mỹ nhờ vào chất lượng sản phẩm vượt trội và không bị áp thuế chống bán phá giá Cá tra của VHC vẫn duy trì lợi thế cạnh tranh về giá so với các sản phẩm cá thịt trắng khác, đồng thời chưa có sản phẩm thay thế đáng kể nào trên thị trường.

Với lợi thế về thuế suất và danh tiếng tại thị trường Mỹ, doanh nghiệp đang dẫn đầu ngành với sự tăng trưởng mạnh mẽ Chất lượng sản phẩm và hệ thống quản lý chất lượng được công nhận, đặc biệt tại thị trường Châu Âu, cùng với quy trình nuôi trồng bền vững theo tiêu chuẩn quốc tế Hệ thống nuôi trồng và chế biến khép kín giúp tối ưu hóa lợi nhuận từ các phân khúc giá trị khác nhau Đội ngũ quản lý có kinh nghiệm, đa văn hóa và ngôn ngữ, cùng với sự hiểu biết sâu rộng về thị trường quốc tế, tạo điều kiện cho việc cải tiến và phát triển kinh doanh Hơn nữa, tình hình tài chính vững mạnh và không có gánh nặng lãi vay là điểm cộng lớn cho doanh nghiệp.

VHC là cổ phiếu hàng đầu trong ngành thủy sản Việt Nam, nổi bật với thương hiệu mạnh và chất lượng cao Dự án Collagen và Gelatin là những yếu tố quan trọng giúp VHC chuyển mình thành doanh nghiệp thực phẩm công nghệ cao, không còn đơn thuần là doanh nghiệp gia công.

VHC xứng đáng có trong danh mục đầu tư TRUNG HẠN (không nên đầu tư dài hạn vì ngành cá tra thường có chu kỳ hai năm).

Ngày đăng: 18/03/2022, 21:02

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

  • Đang cập nhật ...

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w