1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

So sánh pháp luật cạnh tranh một số nước trên thế giới

132 22 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề So Sánh Pháp Luật Cạnh Tranh Một Số Nước Trên Thế Giới
Trường học Bộ Công Thương
Định dạng
Số trang 132
Dung lượng 1,15 MB

Cấu trúc

  • 1.1.2. Canada (17)
  • 1.1.3. Trung Quốc (17)
  • 1.1.4. Đức (17)
  • 1.1.5. Hàn Quốc (17)
  • 1.1.6. Malaysia (18)
  • 1.1.7. Singapore (18)
  • 1.1.8. Lào (20)
  • 1.1.9. Hoa Kỳ (20)
  • 2.1.1. Úc (22)
  • 2.1.2. Trung Quốc (22)
  • 2.1.3. Malaysia (23)
  • 2.1.4. Singapore (24)
  • 1.1.1. Úc (16)
  • 1.1.5. Nhật Bản (30)
  • 1.1.6. Hàn Quốc (31)
  • 1.1.7. Malaysia (32)
  • 1.1.8. Hoa Kỳ (33)
  • 1.1.8. Singapore (61)
  • 2.1.2. Canada (37)
  • 2.1.3. Trung Quốc (37)
  • 2.1.4. Đức (39)
  • 2.1.5. Nhật Bản (42)
  • 2.1.6. Hàn Quốc (43)
  • 2.1.7. Malaysia (43)
  • 2.1.8. Singapore (72)
  • 2.1.9. Hoa Kỳ (73)
  • 2.1.7. Singapore (84)
  • 2.1.8. Hoa Kỳ (45)
  • 3.1.1. Úc (48)
  • 3.1.2. Canada (49)
  • 3.1.3. Trung Quốc (49)
  • 3.1.4. Đức (50)
  • 3.1.5. Nhật Bản (51)
  • 3.1.6. Hàn Quốc (52)
  • 3.1.7. Singapore (92)
  • 3.1.8. Hoa Kỳ (54)
  • 1.1.2. Đài Loan (96)
  • 1.1.3. Nhật Bản (100)
  • 1.1.4. EU (105)
  • 1.1.5. Hoa Kỳ (108)
  • 2.1.1. Thực thi pháp luật cạnh tranh không lành mạnh tại Úc (111)
  • 2.1.2. Thực thi pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Đài Loan (112)
  • 2.1.3. Thực thi pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Nhật Bản (113)
  • 2.1.4. Thực thi pháp luật cạnh tranh không lành mạnh tại Hoa Kỳ (114)
  • PHẦN 3: TÓM TẮT NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN (120)
    • 5. Nhóm quy định về kiểm soát tập trung kinh tế (129)

Nội dung

Canada

Quyết định năm 1985 của Tòa án tối cao Canada trong vụ R v Libman xác định rằng Canada có quyền truy tố các cá nhân có hành vi xảy ra bên ngoài lãnh thổ nhưng gây hậu quả trái pháp luật tại Canada Để áp dụng thẩm quyền của tòa án Canada đối với các vi phạm này, một phần quan trọng của hành vi vi phạm phải diễn ra trên lãnh thổ Canada.

Mặc dù quyền tài phán đối với hành vi trong các vụ cartel diễn ra ngoài Canada chưa được mô tả chi tiết trong thủ tục tố tụng hình sự, cơ quan cạnh tranh Canada cho rằng các vụ cartel quốc tế ảnh hưởng đến khách hàng Canada có thể gây ra mối quan ngại về quyền tài phán đối với hành vi.

Các hướng dẫn và tài liệu của cơ quan cạnh tranh khẳng định quyền tài phán của họ đối với các giao dịch mua bán gián tiếp và trực tiếp vào lãnh thổ Canada Nhiều nhà sản xuất nước ngoài, sản xuất các sản phẩm như giấy fax, chất socbat, vitamin và phụ tùng xe hơi, đã bị cáo buộc vi phạm mục 45 về thỏa thuận ấn định giá và phân chia thị trường, mặc dù các hành vi này diễn ra hoàn toàn bên ngoài Canada nhưng vẫn ảnh hưởng đến thị trường, giá cả và khách hàng tại đây.

Trung Quốc

Luật Chống độc quyền của Trung Quốc (AML) áp dụng nguyên tắc “tác động” để xác định quyền tài phán Cụ thể, Điều 2 của AML quy định rằng luật này có hiệu lực đối với các thỏa thuận độc quyền diễn ra ngoài lãnh thổ Trung Quốc nếu những thỏa thuận đó có ảnh hưởng đến việc loại bỏ hoặc hạn chế cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc.

Đức

Luật Chống hạn chế cạnh tranh của Đức (GWB) điều chỉnh tất cả các hành vi hạn chế cạnh tranh có ảnh hưởng đến thị trường Đức, theo nguyên tắc tác động (mục 130(2) GWB) Điều này có nghĩa là các công ty nước ngoài cũng phải tuân thủ GWB nếu tham gia vào các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc có hành vi phối hợp ảnh hưởng đến thị trường tại Đức GWB có thể áp dụng cho cả những doanh nghiệp nước ngoài chưa từng hoạt động trực tiếp tại Đức, miễn là họ duy trì công ty con, chi nhánh hoặc thiết lập hoạt động kinh doanh trong nước.

Hàn Quốc

Luật Kiểm soát độc quyền và Thương mại lành mạnh của Hàn Quốc được áp dụng cho cả các hành vi diễn ra ngoài lãnh thổ nước này, miễn là những hành vi đó có ảnh hưởng đến thị trường liên quan tại Hàn Quốc.

Tòa án tối cao Hàn Quốc quy định rằng các vụ việc ảnh hưởng đến thị trường Hàn Quốc chỉ nên được xem xét khi hành vi xảy ra ngoài lãnh thổ Hàn Quốc có tác động trực tiếp và đáng kể đến thị trường này Tuy nhiên, nếu thị trường Hàn Quốc là mục tiêu trong thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các công ty nước ngoài, thì thỏa thuận đó sẽ thuộc sự điều chỉnh của điều 19(1) của Đạo luật, trừ khi có các trường hợp đặc biệt khác.

Dựa trên quan điểm của tòa án tối cao, KFTC đã thông báo về việc sửa đổi điều 2-2 để mở rộng phạm vi áp dụng đối với các vụ việc có ảnh hưởng trực tiếp, đáng kể và có thể nhận thức rõ ràng trên thị trường Hàn Quốc.

Malaysia

Đạo luật này áp dụng cho tất cả các hoạt động thương mại tại Malaysia, và việc áp dụng Đạo luật này ở ngoài Malaysia sẽ tuân theo quy định tại khoản (2) của điều này.

Đạo luật này quy định rằng mọi hoạt động thương mại diễn ra bên ngoài Malaysia nhưng có tác động đến cạnh tranh trên các thị trường tại Malaysia đều phải tuân thủ.

Đạo luật này không áp dụng cho các hoạt động thương mại được quy định trong Phụ lục Đầu tiên, và Bộ trưởng có quyền sửa đổi nội dung của Phụ lục này thông qua lệnh công bố trên Công báo.

Singapore

Điều 33 của Luật Cạnh tranh Singapore quy định rằng các hành vi diễn ra ngoài lãnh thổ Singapore sẽ bị cấm nếu chúng có mục đích hoặc tác động làm cản trở, hạn chế hoặc bóp méo cạnh tranh trong lãnh thổ Singapore.

Cụ thể, Điều 33 quy định như sau:

(a) một thỏa thuận đề cập tại khoản 34 diễn ra ngoài phạm vi Singapore;

(b) một bên nào đó tham gia thỏa thuận cư trú ngoài phạm vi Singapore;

(c) một vụ lạm dụng vị trí thống lĩnh đề cập tại điều 47 diễn ra bên ngoài lãnh thổ Singapore;

(d) sáp nhập dự kiến sẽ được tiến hành bên ngoài lãnh thổ Singapore;

(e) sáp nhập đề cập tại Điều 54 được tiến hành bên ngoài lãnh thổ Singapore;

(f) bất kỳ bên nào tham gia vào sáp nhập dự tính hoặc sáp nhập đã được tiến hành cư trú bên ngoài lãnh thổ Singapore hoặc

Bất kỳ vấn đề nào phát sinh từ thỏa thuận, vị trí thống lĩnh, hoặc sáp nhập dự kiến và đã thực hiện, đều nằm ngoài phạm vi lãnh thổ Singapore.

Phần này sẽ áp dụng đối với các bên, thỏa thuận, việc lạm dụng vị trí thống lĩnh, sáp nhập dự kiến hoặc sáp nhập đã tiến hành nếu:

( i) thỏa thuận nêu trên vi phạm hoặc đang vi phạm quy định cấm tại Điều 34;

( ii) hành vi lạm dụng vi phạm hoặc đang vi phạm quy định cấm tại Điều 47;

Sáp nhập dự kiến có thể vi phạm quy định cấm tại Điều 54 nếu được thực hiện, hoặc có thể đang vi phạm quy định này trong một số trường hợp cụ thể.

Một phần của ngành hoặc mảng ngành có thể chịu sự quản lý và điều chỉnh từ các cơ quan nhà nước khác.

Việc thực thi quyền hạn của các cơ quan quản lý ngành khác sẽ không ảnh hưởng đến quyền hạn của Ủy ban.

(b) việc thực thi quyền hạn của Ủy ban sẽ không được coi là làm tổn hại đến việc thực thi quyền hạn của cơ quan quản lý ngành khác.

Bộ trưởng có quyền ban hành quy chế phối hợp hành động giữa Ủy ban và các cơ quan quản lý ngành khác theo quy định, đồng thời có thể đưa ra quy định đặc biệt để các bên liên quan tuân thủ trong những trường hợp cụ thể.

Trong việc xác định một vụ việc cụ thể hoặc thể loại vụ việc nào đó, cần làm rõ liệu Ủy ban sẽ là đơn vị thực thi theo quy định tại Phần này hay một cơ quan quản lý nhà nước khác sẽ đảm nhận vai trò thực thi.

Ủy ban và các cơ quan quản lý ngành khác có khả năng thực thi quyền hạn của mình một cách đồng bộ và liên kết với nhau hay không là một câu hỏi quan trọng Việc này không chỉ đảm bảo tính hiệu quả trong quản lý mà còn tạo ra sự thống nhất trong các quyết định và hành động Sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên sẽ góp phần nâng cao chất lượng quản lý và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của cộng đồng.

(4) Các quy định tại Phần này sẽ không được áp dụng đối với bất kỳ hoạt động, thỏa thuận, hành vi nào có sự tham gia của:

(b) bất cứ cơ quan pháp định nào; hoặc

Bất kỳ cá nhân nào thực hiện hành động thay mặt Chính phủ hoặc cơ quan pháp luật sẽ phải chịu trách nhiệm tùy thuộc vào từng trường hợp liên quan đến các hoạt động, thỏa thuận hoặc hành vi nêu trên.

(5) Không tính đến quy định tại Khoản 4, các quy định tại Phần này sẽ được áp dụng đối với:

(a) cơ quan pháp định hoặc một cá nhân tiến hành thay mặt cơ quan pháp định hoặc

Các hoạt động, thỏa thuận và hành vi nêu trên được thực hiện bởi một cơ quan pháp định hoặc cá nhân đại diện cho cơ quan pháp định Bộ trưởng có quyền quy định thông qua việc ban hành lệnh công bố trên Gazette.

(6) Trong phần này, “cơ quan pháp định” có nghĩa là một đơn vị được thành lập bởi hoặc do một luật văn bản nào đó quy định.

Lào

Luật Cạnh tranh của Lào quy định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh, bao gồm các thỏa thuận hạn chế, lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền và hợp tác nhằm hạn chế cạnh tranh.

Phạm vi áp dụng Luật Chống Tham Nhũng (LCT) bao gồm tất cả các cá nhân, pháp nhân và tổ chức, cả trong nước lẫn quốc tế, có hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ Lào.

Hoa Kỳ

Theo quy định của Luật này, thuật ngữ “thực thể” hoặc “các thực thể” được hiểu là các tập đoàn và hiệp hội được thành lập hoặc được ủy quyền theo pháp luật của Hoa Kỳ, các vùng lãnh thổ, quốc gia hoặc đất nước khác.

1.2 Phân tích, đánh giá và đề xuất cho Việt Nam

Thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam cho thấy, gần đây đã xuất hiện nhiều vụ việc cạnh tranh quốc tế ảnh hưởng đến thị trường nội địa, như các thỏa thuận ấn định phí vận chuyển giữa các hãng tàu lớn và các thương vụ mua bán, sáp nhập có giá trị lớn như Tập đoàn Abbott mua lại Công ty CFR hay Central Group mua lại Big C Mặc dù Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh và áp dụng cho cả doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam, nhưng vẫn thiếu cơ sở pháp lý để xử lý các hành vi phản cạnh tranh diễn ra bên ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng tác động tiêu cực đến thị trường trong nước.

Phân tích quy định pháp luật cạnh tranh ở các quốc gia như Úc, Canada, Trung Quốc, Đức, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, Lào và Hoa Kỳ cho thấy tất cả đều điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh, bao gồm thỏa thuận hạn chế, lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền và tập trung kinh tế Các quy định này tuân theo nguyên tắc tác động, tức là điều chỉnh cả các hành vi xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia, miễn là chúng có mục đích, tác động hoặc khả năng gây ảnh hưởng đáng kể đến bất kỳ thị trường nào của quốc gia đó.

Trên thực tế, tại nhiều nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Canada, Úc, New Zealand,

Gần đây, các cơ quan cạnh tranh tại EU, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore đã tiến hành điều tra và xử lý nhiều vụ việc liên quan đến thoả thuận hạn chế cạnh tranh và tập trung kinh tế xuyên biên giới Một ví dụ điển hình là vụ thoả thuận ấn định giá và phí vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không giữa hơn hai mươi hãng hàng không lớn trên thế giới Ngoài ra, cũng có hai vụ mua bán, sáp nhập đáng chú ý giữa các công ty sản xuất ổ cứng, cụ thể là giữa Western Digital và Hitachi, cũng như giữa Samsung và Seagate.

Để bảo vệ môi trường cạnh tranh tại Việt Nam, Dự thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi) cần mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền và tập trung kinh tế Những hành vi này, dù được thực hiện trong nước hay ở nước ngoài, đều phải được xem xét nếu chúng có tác động hoặc khả năng gây ảnh hưởng đến cạnh tranh trên thị trường Việt Nam.

Việc mở rộng phạm vi điều chỉnh sẽ tạo hành lang pháp lý cho việc điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh, bất kể nguồn gốc, miễn là chúng có tác động tiêu cực đến thị trường Việt Nam Điều này giúp ổn định nền kinh tế nội địa bằng cách đảm bảo sự ổn định cho các yếu tố thị trường thiết yếu Hơn nữa, khung pháp lý mới cũng tạo điều kiện cho cơ quan cạnh tranh Việt Nam hợp tác với các quốc gia khác trong việc điều tra và xử lý các vụ việc cạnh tranh, từ đó thực thi các cam kết về cạnh tranh trong các Hiệp định thương mại Việc duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh là mục tiêu chính của “Chương cạnh tranh” trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

2.1 Tổng quan về quy định của một số nước

Luật cạnh tranh áp dụng cho các chủ thể thực hiện hoạt động kinh tế nhằm mục đích lợi nhuận, chủ yếu là các doanh nghiệp Khái niệm doanh nghiệp trong luật cạnh tranh có điểm khác biệt so với luật thương mại, với hai tiêu chí chính để xác định: (i) có tiến hành hoạt động kinh tế và (ii) có tính độc lập trong ra quyết định Tuy nhiên, một số trường hợp như bảo hiểm xã hội vẫn có thể được xem là "doanh nghiệp" mặc dù không theo đuổi lợi nhuận Tiêu chí về tính độc lập giúp loại trừ các công ty con, đại lý, hay văn phòng đại diện không có quyền quyết định kinh doanh độc lập do mối quan hệ phụ thuộc với công ty mẹ.

Khi xác định phạm vi áp dụng của luật cạnh tranh, một câu hỏi quan trọng là liệu luật này có áp dụng cho các cơ quan công quyền hay không, và nếu có, thì ở mức độ nào Nhiều quốc gia như Hoa Kỳ, các nước EU và Nhật Bản đã công nhận rằng luật cạnh tranh có thể áp dụng cho các tổ chức công, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước Nguyên tắc bình đẳng giữa các doanh nghiệp cho phép các doanh nghiệp nhà nước, kể cả những doanh nghiệp độc quyền, trở thành đối tượng áp dụng của luật cạnh tranh, đặc biệt khi có hành vi lạm dụng vị trí ưu đãi Tòa án Tư pháp phúc thẩm của Liên minh Châu Âu cũng khẳng định rằng cơ quan công quyền có thể được coi là doanh nghiệp trong bối cảnh áp dụng luật cạnh tranh Tuy nhiên, trong trường hợp các cơ quan này đưa ra quyết định liên quan đến dịch vụ công cộng hoặc lựa chọn đối tác ký hợp đồng, án lệ của Pháp cho rằng những quyết định này thuộc về lĩnh vực hành chính và không nằm trong phạm vi áp dụng của luật cạnh tranh.

Phần nội dung dưới đây sẽ trích dẫn một số quy định về phạm vi áp dụng của một số quốc gia trên thế giới, cụ thể như sau:

Úc

Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng Úc năm 2010 quy định rõ ràng về phạm vi áp dụng của Luật đối với chính quyền Khối thịnh vượng chung (mục 2A), các Bang và vùng lãnh thổ của Úc (mục 2B) Ngoài ra, mục 2BA cũng quy định việc áp dụng Phần IV đối với các cơ quan chính quyền địa phương, đảm bảo rằng các quy định này có hiệu lực trên toàn quốc.

Phần IV quy định áp dụng cho các cơ quan chính quyền địa phương khi thực hiện hoạt động kinh doanh, bao gồm cả việc thực hiện trực tiếp hoặc thông qua một công ty hợp nhất mà họ kiểm soát.

Cơ quan chính quyền địa phương được thành lập theo pháp luật của Nhà nước hoặc vùng lãnh thổ nhằm phục vụ cho mục đích quản lý chính quyền địa phương Điều này khác với các cơ quan được thành lập chủ yếu để cung cấp dịch vụ cụ thể, như điện hoặc nước.

Trung Quốc

Luật Chống độc quyền Trung Quốc không quy định một điều khoản chung về đối tượng áp dụng, nhưng rõ ràng thể hiện quan điểm rằng các cơ quan quản lý nhà nước không được lạm dụng quyền lực hành chính để cản trở hoặc hạn chế cạnh tranh Cụ thể, Điều 8 của Luật nêu rõ rằng các cơ quan nhà nước và tổ chức có thẩm quyền không được sử dụng thẩm quyền quản lý để loại trừ hoặc hạn chế cạnh tranh trong các quan hệ dịch vụ công.

Để cụ thể hóa quy định tại Điều 8, Luật Chống độc quyền Trung Quốc đã xây dựng Chương V, từ Điều 32 đến 37, quy định về "Lạm dụng quyền hành chính để loại bỏ hoặc hạn chế cạnh tranh" Cụ thể, Điều 32 nêu rõ rằng các cơ quan hành chính và tổ chức có thẩm quyền không được lạm dụng quyền lực để hạn chế hoạt động giao thương của bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào Điều 33 tiếp tục quy định rằng các cơ quan này không được thực hiện hành vi cản trở tự do lưu thông sản phẩm giữa các khu vực khác nhau.

Việc xây dựng biểu phí phân biệt đối xử đối với hàng hóa ngoại địa là hành động thu thêm phí không công bằng, vượt mức tiêu chuẩn đã quy định Điều này bao gồm việc áp dụng các mức giá phân biệt đối với sản phẩm từ các khu vực khác, gây ra sự không công bằng trong thương mại.

Việc áp đặt tiêu chuẩn kỹ thuật hoặc kiểm nghiệm khác biệt cho sản phẩm từ các khu vực khác so với sản phẩm địa phương, cùng với các biện pháp phân biệt kỹ thuật như yêu cầu kiểm tra lại và cấp lại giấy chứng nhận, có thể dẫn đến việc hạn chế sự gia nhập thị trường của sản phẩm từ các địa phương khác.

Yêu cầu cấp phép đặc biệt mang tính hành chính áp dụng riêng cho sản phẩm ngoại địa nhằm hạn chế sự gia nhập của các sản phẩm ngoại địa tương tự vào thị trường.

Để ngăn chặn sự khó khăn trong việc chuyển giao sản phẩm ngoại địa và nội địa, cần thiết lập các trạm kiểm soát hoặc áp dụng các biện pháp phù hợp.

Các hành vi gây cản trở lưu thông sản phẩm tự do được quy định rõ ràng trong các điều luật Điều 34 cấm các cơ quan hành chính lạm dụng quyền lực để loại trừ doanh nghiệp ngoại địa khỏi hoạt động đấu giá hoặc đấu thầu bằng cách áp đặt yêu cầu kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn phân biệt Điều 35 cũng khẳng định rằng không được hạn chế doanh nghiệp ngoại địa trong việc đầu tư hoặc thiết lập chi nhánh thông qua quy định bất bình đẳng so với doanh nghiệp địa phương Điều 36 cấm ép buộc các chủ thể tham gia vào hành vi độc quyền, trong khi Điều 37 nhấn mạnh rằng các cơ quan hành chính không được ban hành quy định nào có tính chất loại trừ hoặc hạn chế cạnh tranh.

Malaysia

Đạo luật cạnh tranh Malaysia điều chỉnh tất cả các hoạt động thương mại trong nước, đồng thời quy định rõ ràng các điều kiện áp dụng đối với việc thực thi luật này ở bên ngoài Malaysia.

“Hoạt động thương mại” được định nghĩa trong Luật là mọi hoạt động có tính chất thương mại nhưng không bao gồm:

(a) bất kì hoạt động nào dù trực tiếp hay gián tiếp thực hiện chức năng quản lí nhà nước;

(b)các hoạt động tiến hành dựa trên nguyên tắc liên đới; và

(c) các hoạt động mua hàng hoá, dịch vụ không với mục đích cung cấp hàng hoá và dịch vụ như là một phần của hoạt động kinh tế.

Úc

Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng Úc năm 2010 quy định rõ ràng về các hành vi phản cạnh tranh, đặc biệt là các thoả thuận hạn chế cạnh tranh và tập trung kinh tế Đáng chú ý, luật này có phạm vi điều chỉnh bên ngoài lãnh thổ Úc, đảm bảo tính hiệu quả trong việc quản lý các hành vi thương mại không công bằng.

 Thoả thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thường có mặt hoặc kinh doanh tại Úc;

Thoả thuận hạn chế cạnh tranh giữa các bên có thể bao gồm đại diện của doanh nghiệp nước ngoài, chẳng hạn như công ty con tại Úc, thực hiện hoạt động kinh doanh theo chỉ đạo của công ty mẹ ở nước ngoài Hành vi của đại diện này tham gia vào thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở nước ngoài có thể được xem là hành vi diễn ra "trong" lãnh thổ Úc của công ty nước ngoài đó.

Hành vi của một công ty nước ngoài liên lạc với Úc qua điện thoại hoặc email, ủy quyền cho công ty con hoạt động tại đây, hoặc chỉ đạo công ty này tham gia vào thỏa thuận cartel ở nước ngoài, có thể được xem là diễn ra "trong" lãnh thổ Úc.

Các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thỏa thuận cartel ảnh hưởng đến thị trường Úc sẽ phải đối mặt với kiện tụng tại Úc, ngay cả khi không có sự hiện diện thực tế Đối với các giao dịch kinh tế xảy ra hoàn toàn bên ngoài Úc nhưng có tác động đến nước này, mục 50A quy định rằng Trưởng ban Khối thịnh vượng chung, ACCC hoặc cá nhân khác có thể nộp đơn lên Tòa án Cạnh tranh Úc nếu việc mua lại quyền kiểm soát một công ty ở Úc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đáng kể và không mang lại lợi ích công cộng bù đắp cho thiệt hại về cạnh tranh.

Quyết định của Tòa án tối cao Canada trong vụ R v Libman năm 1985 đã xác định rằng Canada có quyền hợp pháp trong việc truy tố những hành vi diễn ra bên ngoài lãnh thổ nhưng gây hậu quả trái pháp luật tại Canada Để áp dụng thẩm quyền của tòa án Canada đối với các vi phạm, một phần quan trọng của hành vi vi phạm phải xảy ra trong lãnh thổ Canada.

Mặc dù quyền tài phán đối với hành vi trong các vụ cartel ngoài Canada chưa được quy định rõ trong thủ tục tố tụng hình sự, cơ quan cạnh tranh Canada cho rằng các vụ cartel quốc tế ảnh hưởng đến khách hàng tại Canada có thể gây ra những lo ngại về quyền tài phán.

Các hướng dẫn và tài liệu từ cơ quan cạnh tranh nhấn mạnh quyền tài phán của họ đối với các giao dịch mua bán gián tiếp và trực tiếp vào lãnh thổ Canada Các nhà sản xuất nước ngoài, sản xuất các sản phẩm như giấy fax, chất socbat, vitamin, phụ tùng xe hơi, đã bị cáo buộc vi phạm mục 45 về thỏa thuận ấn định giá và phân chia thị trường, mặc dù các hành vi này diễn ra hoàn toàn bên ngoài Canada nhưng vẫn tác động đến thị trường, giá cả và khách hàng tại đây.

Luật Chống độc quyền của Trung Quốc (AML) áp dụng nguyên tắc “tác động” để xác định quyền tài phán Cụ thể, Điều 2 của AML quy định rằng luật này có hiệu lực đối với các thỏa thuận độc quyền diễn ra bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc, miễn là thỏa thuận đó có tác động làm giảm hoặc loại bỏ cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc.

Luật Chống hạn chế cạnh tranh của Đức (GWB) quy định rằng tất cả các hành vi hạn chế cạnh tranh có ảnh hưởng đến thị trường Đức đều phải tuân thủ, bao gồm cả các công ty nước ngoài Theo mục 130(2) của GWB, các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi phối hợp có tác động đến thị trường Đức sẽ bị điều chỉnh bởi luật này Điều này áp dụng ngay cả với những doanh nghiệp chưa từng hoạt động trực tiếp tại Đức, miễn là họ có công ty con, chi nhánh hoặc hoạt động kinh doanh tại đây.

Luật Kiểm soát độc quyền và Thương mại lành mạnh của Hàn Quốc có hiệu lực không chỉ trong lãnh thổ quốc gia mà còn áp dụng cho các hành vi diễn ra bên ngoài, miễn là chúng ảnh hưởng đến thị trường Hàn Quốc.

Tòa án tối cao Hàn Quốc xác định rằng các vụ việc ảnh hưởng đến thị trường Hàn Quốc chỉ nên được xem xét nếu hành vi xảy ra ngoài lãnh thổ nhưng có tác động trực tiếp và đáng kể đến thị trường này Tuy nhiên, nếu thỏa thuận hợp tác nhằm hạn chế cạnh tranh giữa các công ty ngoài Hàn Quốc có mục tiêu thị trường Hàn Quốc, thì thỏa thuận đó sẽ bị điều chỉnh bởi điều 19(1) của Đạo luật, trừ khi có những trường hợp đặc biệt khác.

Dựa trên quan điểm của Tòa án Tối cao, KFTC gần đây đã thông báo về việc sửa đổi điều 2-2, nhằm mở rộng phạm vi áp dụng cho các vụ việc có tác động trực tiếp và đáng kể đến thị trường Hàn Quốc, với khả năng nhận thức rõ ràng từ phía các bên liên quan.

Đạo luật này chi phối tất cả các hoạt động thương mại tại Malaysia, và việc áp dụng của nó ở nước ngoài sẽ tuân theo quy định tại khoản (2) của điều luật này.

Đạo luật này điều chỉnh tất cả các hoạt động thương mại diễn ra ngoài Malaysia nhưng có tác động đến cạnh tranh trên các thị trường trong nước.

Đạo luật này không áp dụng cho các hoạt động thương mại được quy định cụ thể trong Phụ lục Đầu tiên, và Bộ trưởng có quyền sửa đổi nội dung của Phụ lục này thông qua lệnh công bố trên Công báo.

Ngày đăng: 17/03/2022, 15:36

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w