TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Quan điểm của đảng và nhà nước về phát triển TDTT trong thời kỳ đổi mới
1.1.1 Quan điểm của Đảng về phát triển TDTT trong thời kỳ đổi mới
Chỉ thị 36-CT/TW ngày 24/3/1994 của Ban Chấp Hành Trung ương là Nghị Quyết toàn diện và sâu sắc nhất về công tác thể dục thể thao (TDTT) từ trước đến nay Nghị Quyết đã đánh giá phong trào TDTT quần chúng, nhấn mạnh sự gia tăng số người tham gia tập luyện, qua đó khẳng định tầm quan trọng của việc phát triển TDTT trong giai đoạn mới.
Trong bối cảnh hiện nay, hoạt động thể dục thể thao (TDTT) còn hạn chế, đặc biệt là ở thanh thiếu niên, với hiệu quả giáo dục thể chất trong trường học và lực lượng vũ trang chưa cao Để phát triển TDTT, cần xây dựng một nền TDTT mang tính chất dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc các thành tựu hiện đại, nhằm phát triển phong trào TDTT quần chúng với khẩu hiệu “Khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” Phát triển phong trào TDTT là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội, trong đó ngành TDTT giữ vai trò nòng cốt, đồng thời xã hội hóa hoạt động TDTT dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
Thông tư 03-TT/TW ngày 02/4/1998 của Bộ Chính Trị nhấn mạnh việc củng cố công tác lãnh đạo thể dục thể thao (TDTT) và tiếp tục thực hiện các mục tiêu theo Chỉ thị 36-CT/TW Tài liệu này khuyến khích xây dựng các tổ chức TDTT tự nguyện tại cơ sở xã, phường, thôn, ấp, đồng thời tăng cường đội ngũ cán bộ cho ngành TDTT Ngoài ra, cần tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, đặc biệt là quy hoạch đất cho các trung tâm TDTT và sân tập tại các khu dân cư, trường học, cơ quan và xí nghiệp.
Chỉ thị số 17-CT/TW ngày 23/10/2002 của Ban Bí thư Trung ương đã đánh giá sự phát triển của thể dục thể thao (TDTT) tại Việt Nam sau 8 năm thực hiện Chỉ thị 36-CT/TW Kết quả cho thấy TDTT đã có những bước tiến đáng khích lệ, góp phần vào công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội Tuy nhiên, chỉ thị cũng chỉ ra những hạn chế như sự phát triển chậm của TDTT quần chúng, đặc biệt ở vùng nông thôn, miền núi và biên giới, cùng với chất lượng và hiệu quả TDTT trong trường học còn thấp Chỉ thị nhấn mạnh các chỉ tiêu cơ bản cần đạt được trong phát triển TDTT quần chúng đến năm 2010.
2010, toàn quốc đạt tỷ lệ 18-20% dân số tập luyện TDTT thường xuyên
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng vào tháng 6 năm 1991 nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo gắn liền với phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật và xây dựng nền văn hóa mới Nhà nước đã thực hiện các chính sách toàn diện nhằm phổ cập giáo dục, phát triển năng khiếu và bồi dưỡng nhân tài, đặc biệt chú trọng đến giáo dục thể chất và thể thao trong trường học Báo cáo chính trị tại Đại hội khẳng định cần nâng cao chất lượng giáo dục thể chất và xây dựng phong trào rèn luyện thân thể cho toàn dân, đặc biệt là thanh thiếu niên.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ, coi đây là quốc sách hàng đầu Để xây dựng một đất nước giàu mạnh và văn minh, cần chú trọng đến việc phát triển con người không chỉ về thể chất mà còn về tinh thần, điều này đòi hỏi sự chung tay của toàn xã hội cùng với sự tham gia của tất cả các cấp, ngành và đoàn thể.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của sức khoẻ nhân dân, đề ra chiến lược quốc gia nhằm nâng cao sức khoẻ và tầm vóc của người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi Đặc biệt, cần tăng cường thể lực cho thanh niên và phát triển thể dục thể thao, kết hợp thể thao phong trào với thể thao thành tích cao, giữa văn hóa dân tộc và hiện đại Cần có chính sách và cơ chế hợp lý để phát hiện, bồi dưỡng và phát triển tài năng thể thao, nhằm đưa thể thao Việt Nam vươn lên vị trí cao trong khu vực và từng bước hội nhập với châu lục và thế giới trong các môn thể thao mà Việt Nam có thế mạnh.
Nghị quyết số 29-NQ/TW, được ban hành vào ngày 04/11/2013 tại Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống giáo dục và đào tạo Nghị quyết này nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Hiện trạng sự nghiệp thể dục thể thao tại Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực thể dục thể thao trường học, đang gặp nhiều bất cập và hạn chế, không đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước Để khắc phục tình trạng này, vào tháng 12/2011, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ-TW, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của thể dục thể thao đến năm 2020.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng luôn chú trọng đến sức khỏe nhân dân, đặc biệt là trong công tác thể dục thể thao (TDTT) tại trường học Mục tiêu là nâng cao tầm vóc và thể lực cho người Việt Nam, góp phần vào sự phát triển và bảo vệ tổ quốc.
1.1.2 Sự lãnh đạo của Nhà nước về phát triển phong trào TDTT trường học trong thời kỳ đổi mới
Dựa trên quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước đã triển khai các chính sách về thể dục thể thao (TDTT) trong thời kỳ đổi mới Ngày 07/3/1995, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 133/TTg nhằm xây dựng quy hoạch phát triển ngành TDTT, giao nhiệm vụ cho các ngành, cấp thực hiện tốt công tác TDTT cho học sinh Chỉ thị nhấn mạnh rằng ngành TDTT cần xây dựng định hướng chiến lược, quy hoạch rõ ràng về các môn thể thao và hình thức hoạt động phổ cập cho mọi đối tượng và lứa tuổi, nhằm tạo ra phong trào tập luyện TDTT rộng rãi trong cộng đồng, góp phần vào việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Pháp lệnh TDTT (số 28/2000/PL.UBTTQH10) của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các điều 2,3,4, chương 1 đã quy định về trách nhiệm:
Nhà nước và xã hội cần phát triển nền thể dục thể thao (TDTT) dân tộc và khoa học, với sự quản lý thống nhất từ chính phủ Cần có đầu tư hợp lý cho TDTT, quy hoạch sử dụng đất để xây dựng sân bãi và cơ sở vật chất thể thao công cộng Đồng thời, Nhà nước cũng khuyến khích mọi người tham gia hoạt động TDTT và tận hưởng những giá trị mà TDTT mang lại.
Chỉ thị 274/TTg ngày 27/01/1996 của Thủ tướng Chính phủ đã đề ra quy hoạch và sử dụng đất đai nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển thể dục thể thao (TDTT) Chỉ thị này đóng vai trò quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài, tạo nền tảng cho các hoạt động TDTT Nó phân cấp và giao trách nhiệm cho các ngành như địa chính, xây dựng, kế hoạch và đầu tư, tài chính, cùng với các bộ liên quan và ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trong việc hướng dẫn lập quy hoạch đất đai và tiêu chuẩn xây dựng các công trình TDTT.
Pháp lệnh TDTT số 28/2000/PL – UBTVQH 10, ngày 9/10/2000 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các điều 2,3,4, chương 1 đã quy định về trách nhiệm
Nhà nước và xã hội cần phát triển nền thể dục thể thao (TDTT) dân tộc, khoa học và phục vụ nhân dân, với sự thống nhất trong quản lý sự nghiệp TDTT Cần có đầu tư hợp lý cho TDTT, quy hoạch đất đai để xây dựng sân bãi và cơ sở vật chất thể thao, cũng như các công trình TDTT công cộng Đồng thời, Nhà nước cũng khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi người tham gia hoạt động TDTT và tận hưởng những giá trị mà TDTT mang lại.
Pháp lệnh khuyến khích sự tham gia của tổ chức và cá nhân trong việc phát triển thể dục thể thao (TDTT), nhằm đa dạng hóa các cơ sở và hình thức hoạt động TDTT Nhà nước cam kết huy động mọi nguồn lực để xây dựng và phát triển sự nghiệp TDTT, hướng tới xã hội hóa lĩnh vực này.
Khái quát về thể dục thể thao quần chúng
1.2.1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN
Thể dục thể thao (TDTT) là một hiện tượng văn hóa xã hội độc đáo của loài người, đóng vai trò quan trọng trong nền văn hóa - giáo dục Thông qua các hoạt động vận động và trò chơi, TDTT không chỉ giúp tăng cường thể chất mà còn nâng cao kỹ năng vận động, góp phần làm phong phú đời sống xã hội.
Thể dục thể thao đóng vai trò quan trọng trong nền văn hóa xã hội, là hoạt động tập luyện thể lực nhằm nâng cao sức khỏe và cải thiện thành tích thể thao Qua đó, thể dục thể thao không chỉ giúp phát triển thể chất mà còn góp phần làm phong phú đời sống văn hóa và giáo dục, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của con người.
Thể dục thể thao quần chúng (hay thể thao cho mọi người)
Thể dục thể thao quần chúng là hoạt động thể thao dành cho mọi đối tượng, từ trẻ em đến người cao tuổi, nhằm nâng cao sức khỏe, cải thiện thể lực và hỗ trợ cho công việc, học tập, lao động sản xuất Hoạt động này cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc chuẩn bị cho các tình huống khẩn cấp, chữa bệnh, và tạo cơ hội cho sự nghỉ ngơi, giải trí Đặc biệt, thể dục thể thao quần chúng còn bao gồm cả người tàn tật, khẳng định rằng mọi người đều có quyền tham gia và hưởng lợi từ các hoạt động thể chất.
Khác với thể thao thành tích cao, thể thao quần chúng là hoạt động thể thao dành cho tất cả mọi người, thu hút đông đảo người dân tham gia tập luyện Đây là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh dân trí, hạnh phúc và sự phồn vinh của xã hội Trên thế giới và tại Việt Nam, khái niệm "thể thao cho mọi người" (Sport for all) xuất hiện, thực chất là khái niệm về thể thao quần chúng, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tham gia thể thao trong đời sống cộng đồng.
Phong trào thể dục thể thao
Phong trào thể dục thể thao (TDTT) là một hiện tượng xã hội đa dạng, bao gồm nhiều cá nhân hợp tác nhằm nâng cao và phổ biến các giá trị của TDTT Tình hình phát triển của phong trào này phản ánh nhu cầu và trình độ phát triển TDTT tại Việt Nam và trên thế giới, dẫn đến sự xuất hiện của nhiều phong trào phong phú như Olympic, "Thể thao vì mọi người", hay "Rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ" Bản chất xã hội của mỗi phong trào TDTT luôn phụ thuộc vào các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của từng địa phương, quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Phong trào thể dục thể thao quần chúng
Phong trào thể thao, một xu hướng xã hội rộng lớn, đã phát triển mạnh mẽ và gắn liền với sự tiếp xúc, mở mang và điều chỉnh thể thao trong cộng đồng Hiện nay, phong trào này đã trở thành một hiện tượng toàn cầu, với sự hình thành của các sự kiện quốc tế như Olympic và các hoạt động "Thể thao cho mọi người" dưới sự bảo trợ của UNESCO Đồng thời, các hình thức thể thao khu vực vẫn giữ được bản sắc văn hóa quốc gia và phát triển theo đặc điểm xã hội riêng Sự tương tác giữa các quốc gia và quốc tế là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ trong lĩnh vực thể thao.
Luật Thể dục, Thể thao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2006) đề cập đến thuật ngữ thể dục, thể thao cho mọi người trong Chương II, bao gồm các khái niệm về thể dục, thể thao quần chúng (Mục 1) và phong trào thể dục, thể thao quần chúng (Điều 12) cùng với thi đấu thể thao quần chúng (Điều 13) Tuy nhiên, sự không thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ TDTT quần chúng trong các tài liệu lý luận, phương pháp TDTT và văn bản luật ở Việt Nam vẫn tồn tại.
Luật thể dục, thể thao nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong việc phát động phong trào thể dục, thể thao quần chúng, nhằm khuyến khích mọi người tham gia tập luyện, biểu diễn và thi đấu thể thao Điều này không chỉ giúp động viên cộng đồng mà còn hình thành thói quen rèn luyện thân thể cho tất cả mọi người.
Theo Điều 12, khoản 2 của luật thể dục thể thao, phong trào thể dục thể thao quần chúng được đánh giá dựa trên các tiêu chí như số lượng người tham gia tập luyện thường xuyên và số lượng gia đình tham gia thể thao.
Số lượng cộng tác viên, câu lạc bộ và công trình thể thao, cũng như số giải thể thao tổ chức hàng năm, cho thấy sự phát triển của lĩnh vực này Cụm từ “Thể dục thể thao” khi dịch sang tiếng nước ngoài không thể tách rời thành hai phần, mà cần được hiểu là “văn hóa thể chất và thể thao” (ví dụ, tiếng Nga là “Физической культуры и спорт”) Điều này cho thấy rằng trên thế giới, thuật ngữ “văn hóa thể chất” được sử dụng phổ biến hơn, trong khi “Thể dục thể thao” và “Thể dục thể thao quần chúng” không phải là thuật ngữ chính thức Để chuẩn hóa các thuật ngữ này với tiêu chuẩn quốc tế, cần có sự hợp tác của các nhà lý luận thể dục thể thao và ngôn ngữ học Tuy nhiên, hiện tại, chúng ta vẫn tiếp tục sử dụng các cụm từ như “Thể dục thể thao quần chúng” và “Phong trào thể dục thể thao quần chúng”.
Thể thao đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng khả năng giáo dục thể chất và tinh thần con người Trong xã hội thể thao, có hai bộ phận chính: thể thao thành tích cao và thể thao cho mọi người, mỗi bộ phận đều góp phần vào sự phát triển toàn diện của cộng đồng.
Thể thao quần chúng, hay còn gọi là Thể dục thể thao quần chúng, là phong trào chủ yếu nhằm nâng cao sức khỏe và thể lực cho cộng đồng Phong trào này không chỉ phục vụ cho việc giải trí và hồi phục, mà còn hỗ trợ cho các hoạt động chính như lao động, học tập và quân sự Thể thao quần chúng giúp hình thành thói quen rèn luyện thân thể cho mọi người, đóng góp vào sự phát triển toàn diện của xã hội.
Theo từ điển Tiếng Việt năm 2010 của Viện ngôn ngữ học thì biện pháp có nghĩa là: “Cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể”
Giải pháp: là đưa ra cách giải quyết một vấn đề nào đó mang tính chiến lược” [49]
Giải pháp là những phương pháp cụ thể được áp dụng trong thực tiễn, giúp hiện thực hóa các phương pháp đó Mỗi phương pháp có thể bao gồm nhiều giải pháp cụ thể, trong khi một giải pháp cụ thể có thể đại diện cho nhiều phương pháp khác nhau Điều này cho thấy sự tương đồng giữa phương pháp và giải pháp, nhưng chúng không hoàn toàn đồng nghĩa Một nhóm giải pháp cụ thể sẽ tạo thành một phương pháp, và từ góc độ phân tích hệ thống, các giải pháp này kết hợp lại thành một hệ thống giải pháp Trong một giải pháp lớn, có thể tồn tại các hệ thống giải pháp con hoặc giải pháp thành phần, với sự tác động qua lại để hình thành và phát triển giải pháp lớn.
1.2.2 Xu thế phát triển thể dục thể thao quần chúng trên thế giới
Dự báo xu thế phát triển thể dục thể thao quần chúng phụ thuộc vào một số yếu tố chính, bao gồm sự gia tăng số lượng người tham gia tập luyện, nội dung và hình thức luyện tập đa dạng, các yếu tố tác động đến sự phát triển của thể dục thể thao quần chúng, cũng như sự quan tâm và hỗ trợ từ Chính phủ đối với lĩnh vực này Chúng ta sẽ phân tích chi tiết từng vấn đề để hiểu rõ hơn về xu hướng này.
Sự phát triển của hoạt động thể dục thể thao quần chúng đang diễn ra mạnh mẽ, với số lượng người tham gia ngày càng tăng, chiếm tới 70% dân số ở nhiều quốc gia phát triển Xu hướng này phản ánh đời sống người dân được nâng cao và thời gian nghỉ ngơi gia tăng Hoạt động thể dục thể thao quần chúng đang dần chuyển mình theo hướng tổ chức thi đấu chuyên nghiệp, tương tự như thể thao thành tích cao, thông qua sự phối hợp giữa Nhà nước, xã hội và cá nhân Việc mở rộng các câu lạc bộ thể thao và tổ chức các cuộc thi đấu quần chúng cũng đang diễn ra, không khác gì so với các giải đấu thể thao thành tích cao về tần suất và quy mô tổ chức.
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
1.3.1 Lịch sử hình thành và phát triển:
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn có gần 60 năm lịch sử hình thành và phát triển, bắt đầu từ Hiệp định Genève 1954 Trường được tái lập tại Sài Gòn vào tháng 11 năm 1955 với tên gọi Trường Cao đẳng dự bị Văn khoa Pháp, trở thành thành viên của Viện Đại học Quốc gia Việt Nam Đến ngày 01-3-1957, trường chính thức mang tên Trường Đại học Văn khoa thuộc Viện Đại học Sài Gòn.
Từ năm 1976 đến năm 1996, Trường trở thành bộ phận các ngành khoa học xã hội và nhân văn trong Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
Ngày 30-3-1996, Trường mang tên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc hệ thống Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh theo quyết định số 1233/QĐ-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn là trung tâm đào tạo và nghiên cứu chất lượng cao, cung cấp nguồn nhân lực trình độ cao với bản sắc riêng trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn Trường còn sản xuất các sản phẩm khoa học phục vụ cho việc hoạch định chính sách xã hội, góp phần nâng cao vị thế của khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong khu vực.
Trường hiện có hai cơ sở: cơ sở 10-12 Đinh Tiên Hoàng, Q1 với diện tích 1,2 ha và cơ sở Linh Trung, Thủ Đức rộng hơn 23 ha Hiện tại, trường đang tối ưu hóa việc sử dụng cơ sở Đinh Tiên Hoàng và tập trung phát triển cơ sở Linh Trung thành một trung tâm đào tạo hiện đại, bao gồm các khu chức năng như văn phòng, giảng dạy, nghiên cứu, thư viện và khu thể dục thể thao, nằm trong quy hoạch rộng 700 ha của Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
1.3.2 Giới thiệu về bộ môn Giáo dục thể chất
Bộ môn Giáo dục Thể chất của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã được thành lập và phát triển từ khi trường tách ra từ trường Đại học Tổng Hợp vào tháng 6 năm 1996.
Bộ môn có nhiệm vụ xây dựng và giảng dạy nội dung giáo dục thể chất, nhằm bồi dưỡng kiến thức cho sinh viên chính quy trong toàn trường, từ đó góp phần vào việc đào tạo con người phát triển toàn diện.
Phát hiện tài năng thể thao qua giảng dạy chính khóa giúp tập trung vào những yếu tố tích cực, từ đó huấn luyện sinh viên phát triển phẩm chất đạo đức và thể lực tốt Mục tiêu là tạo ra những sinh viên có trình độ chuyên môn cao, đại diện cho trường tham gia thi đấu và giao lưu với các trường khác.
Thành lập các Câu lạc bộ thể thao thu hút nhiều sinh viên tham gia tập luyện dưới dạng phong trào
Tham gia và xây dựng các đội tuyển thể thao cho cán bộ trẻ trong trường
Tổ chức hội thao các môn cho cán bộ và sinh viên nhân dịp các ngày lễ lớn trong năm
Thành lập đội tuyển thể thao cán bộ đại diện cho trường tham gia thi đấu giao lưu với các trường [8].
Vai trò của công đoàn trong phát triển phong trào TDTT cho CBVC- NLĐ
Theo luật Công đoàn Điều 1 Công đoàn
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội quan trọng, đại diện cho quyền lợi của người lao động tại Việt Nam, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam Tổ chức này được thành lập trên cơ sở tự nguyện, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cán bộ, công chức, viên chức và công nhân Công đoàn tham gia vào quản lý nhà nước và kinh tế - xã hội, thực hiện thanh tra, kiểm tra các hoạt động của cơ quan nhà nước và doanh nghiệp Đồng thời, công đoàn còn tuyên truyền và vận động người lao động nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, cũng như chấp hành pháp luật, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống tổ chức công đoàn tại Việt Nam bao gồm Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và các công đoàn cấp dưới, được quy định theo Điều lệ Công đoàn Việt Nam.
Công đoàn cơ sở được thành lập tại các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, doanh nghiệp và các tổ chức khác có sử dụng lao động theo quy định pháp luật Điều này bao gồm cả các cơ quan, tổ chức nước ngoài và tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam Điều 26 quy định về tài chính công đoàn.
Tài chính công đoàn gồm các nguồn thu sau đây:
1 Đoàn phí công đoàn do đoàn viên công đoàn đóng theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam;
2 Kinh phí công đoàn do cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đóng bằng 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động;
3 Ngân sách nhà nước cấp hỗ trợ;
4 Nguồn thu khác từ hoạt động văn hóa, thể thao, hoạt động kinh tế của Công đoàn; từ đề án, dự án do Nhà nước giao; từ viện trợ, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài Điều 27 Quản lý, sử dụng tài chính công đoàn
1 Công đoàn thực hiện quản lý, sử dụng tài chính công đoàn theo quy định của pháp luật và quy định của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
2 Tài chính công đoàn được sử dụng cho hoạt động thực hiện quyền, trách nhiệm của Công đoàn và duy trì hoạt động của hệ thống công đoàn, bao gồm các nhiệm vụ sau đây: a) Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động; b) Tổ chức hoạt động đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; c) Phát triển đoàn viên công đoàn, thành lập công đoàn cơ sở, xây dựng công đoàn vững mạnh; d) Tổ chức phong trào thi đua do Công đoàn phát động; đ) Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn; đào tạo, bồi dưỡng người lao động ưu tú tạo nguồn cán bộ cho Đảng, Nhà nước và tổ chức công đoàn; e) Tổ chức hoạt động văn hoá, thể thao, du lịch cho người lao động; g) Tổ chức hoạt động về giới và bình đẳng giới; h) Thăm hỏi, trợ cấp cho đoàn viên công đoàn và người lao động khi ốm đau, thai sản, hoạn nạn, khó khăn; tổ chức hoạt động chăm lo khác cho người lao động; i) Động viên, khen thưởng người lao động, con của người lao động có thành tích trong học tập, công tác; k) Trả lương cho cán bộ công đoàn chuyên trách, phụ cấp trách nhiệm cho cán bộ công đoàn không chuyên trách; l) Chi cho hoạt động của bộ máy công đoàn các cấp; m) Các nhiệm vụ chi khác.
Một số công trình nghiên cứu có liên quan
Trong những năm gần đây, phong trào thể dục thể thao trong trường học đã phát triển mạnh mẽ trên toàn quốc Bên cạnh đó, nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực này cũng đã được thực hiện.
1.5.1 Một số công trình nghiên cứu liên quan đến thể thao trong trường học trên thế giới
Vấn đề thể thao trong trường học đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều quốc gia trên thế giới Theo đề tài “Thúc đẩy lối sống năng động trong trường học” của WHO (1998), việc tham gia các hoạt động thể chất từ sớm là cần thiết để phát triển kỹ năng và thói quen tập thể dục suốt đời Tham gia thể thao không chỉ giúp duy trì sức khỏe trong suốt quá trình trưởng thành mà còn góp phần vào lão hóa lành mạnh WHO nhấn mạnh rằng cơ hội tham gia hoạt động thể chất là quyền thiết yếu của mọi trẻ em và thanh niên, và trách nhiệm này thuộc về cha mẹ, cộng đồng, hệ thống giáo dục và toàn xã hội.
Theo nghiên cứu của WHO về "Sức khỏe và sự phát triển thể chất thông qua hoạt động thể thao" (2008), hoạt động thể chất mang lại nhiều lợi ích và cần thiết phải được đưa vào chính sách phát triển y tế và xã hội Chính phủ và các cơ quan chức năng các nước cần hành động khẩn cấp để thúc đẩy hoạt động thể chất, vì điều này không chỉ cải thiện sức khỏe cộng đồng mà còn gián tiếp thúc đẩy lợi nhuận trong các lĩnh vực quan trọng khác, góp phần vào sự phát triển con người và tiến bộ kinh tế.
Nghiên cứu của Don J Webber và Andrew Mearman tại ĐH West of England năm 2009 về "Sự tham gia của sinh viên vào các hoạt động thể thao" đã chỉ ra rằng các trường đại học cần triển khai nhiều chính sách khuyến khích sinh viên tham gia thể dục thể thao Những chính sách này nên bao gồm việc tổ chức nhiều hoạt động thể thao hơn và thay đổi nhận thức của sinh viên về thể thao, với sự tập trung vào việc cung cấp các môn thể thao có tính xã hội, cạnh tranh và được tổ chức một cách chặt chẽ.
Nghiên cứu của Kimiko Fujita (2005) về "Ảnh hưởng của hoạt động ngoại khóa đối với thành tích học tập học sinh trung học" cho thấy sự tham gia vào các hoạt động ngoại khóa, như thể thao và hoạt động xã hội, có tác động tích cực đến thành tích học tập của học sinh tại Walnut Creek Christian Academy Tuy nhiên, việc tham gia biểu diễn âm nhạc không mang lại cải thiện về thành tích học tập cho nhóm học sinh này.
1.5.2 Một số công trình nghiên cứu liên quan đến phong trào thể thao trong nước
Trong những năm gần đây, phong trào thể dục thể thao quần chúng đã phát triển mạnh mẽ trên toàn quốc, đi kèm với đó là một số nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực này.
Tác giả Lê Thiết Can (2012) đã nghiên cứu: “Xây dựng giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Thể dục thể thao quần chúng ở Tp HCM”
Tác giả nghiên cứu nhằm phát triển các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thể dục thể thao quần chúng, từ đó đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của người dân và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của Thành Phố.
Bài viết đánh giá thực trạng phong trào thể dục thể thao quần chúng tại TP.HCM, thông qua việc phân tích dữ liệu về tỷ lệ người tham gia luyện tập thể dục thể thao thường xuyên, tỷ lệ hộ gia đình tham gia luyện tập, số lượng câu lạc bộ và phòng tập thể thao được thành lập, số giải và hội thi thể thao các cấp, cũng như số cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang đạt tiêu chuẩn rèn luyện thể thao.
Cơ sở vật chất phục vụ thể dục thể thao (TDTT) quần chúng là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý TDTT trong giai đoạn mới Nghiên cứu đã chỉ ra 11 nhóm giải pháp thiết yếu, bao gồm: chính sách, quy hoạch và kế hoạch; tăng cường nguồn lực tài chính; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ TDTT quần chúng; tổ chức và quản lý TDTT quần chúng; thông tin, tuyên truyền và nâng cao nhận thức; chuyên môn hóa TDTT quần chúng; ứng dụng khoa học và công nghệ; đầu tư cơ sở vật chất và phát triển kinh doanh TDTT; xã hội hóa TDTT và hợp tác quốc tế; thanh tra, kiểm tra hoạt động TDTT quần chúng; và thi đua, khen thưởng.
Tác giả Nguyễn Huỳnh Vũ Khoa (2016) trong đề tài “Nghiên cứu xây dựng các tiêu chí đặc thù để nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động văn hóa thể chất tại các xã điểm nông thôn mới tỉnh Vĩnh Long” đã đánh giá thực trạng hoạt động văn hóa thể chất và thiết chế thể thao tại địa phương Đề tài đề xuất các tiêu chí đặc thù nhằm nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa thể chất, từ đó cải thiện mức hưởng thụ văn hóa thể chất của người dân ở các xã nông thôn mới tỉnh Vĩnh Long.
Bảy tiêu chí lựa chọn bao gồm: tổ chức các hoạt động thể thao theo sở thích của từng đối tượng; tổ chức giải thể thao truyền thống; tổ chức các cuộc thi đấu giao lưu; đăng cai các giải thể thao; nâng cao trình độ chuyên môn cho nguồn nhân lực; xã hội hóa trong việc khai thác cơ sở vật chất thể thao; và thực hiện cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập.
Nhóm tiêu chí đặc thù về xây dựng thiết chế thể thao bao gồm bốn tiêu chí chính: quy mô xây dựng công trình thể thao, quản lý và sử dụng công trình thể thao, cơ chế trách nhiệm đầu tư kinh phí, và hệ thống chấm điểm công nhận xã nông thôn mới.
Tác giả Nguyễn Văn Sơn (2016) đã thực hiện nghiên cứu về thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thể dục thể thao quần chúng tại thành phố Quảng Ngãi Nghiên cứu này đóng góp vào việc cải thiện hoạt động thể thao cộng đồng, từ đó thúc đẩy sự phát triển thể chất và tinh thần cho người dân địa phương.
Tác giả đã tiến hành nghiên cứu và đánh giá thực trạng quản lý thể dục thể thao quần chúng tại thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi Bài viết cũng đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, góp phần phát triển phong trào thể dục thể thao trong khu vực.
Nghiên cứu cho thấy phong trào thể dục thể thao quần chúng tại Quảng Ngãi đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng vẫn gặp phải một số hạn chế như kinh phí đầu tư chưa đủ để phát triển, cán bộ thể thao thiếu về số lượng và yếu về trình độ, chính sách hỗ trợ còn bất cập, quỹ đất cho thể thao chưa được chú trọng Nguyên nhân của những hạn chế này bao gồm sự thiếu quan tâm từ các cấp ủy Đảng, cơ sở vật chất cần được cải thiện, nguồn kinh phí hạn chế, và công tác tổ chức hướng dẫn còn nhiều bất cập Hơn nữa, công tác xã hội hóa thể thao và tuyên truyền về thể thao tại địa phương cũng còn ở mức thấp, gây ảnh hưởng đến sự phát triển chung của phong trào.