MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hoạch định cương lĩnh, đường lối, quan điểm, truyền bá và hiện thực hóa cương lĩnh, đường lối, quan điểm là sứ mệnh quan trọng của bất kỳ Đảng chính trị, Đảng cầm quyền nào. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả việc thực hiện cương lĩnh, đường lối, quan điểm thì việc truyền bá, đa dạng hóa và đổi mới hình thức truyền bá là rất quan trọng. Vì vậy, trong quá trình thực hiện chức năng lãnh đạo và cầm quyền của Đảng chính trị, các Đảng cầm quyền rất quan tâm đến việc đổi mới, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, phố biến cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược của mình trong xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền đồng thời cũng là chính đảng duy nhất được phép hoạt động trên đất nước Việt Nam. Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội bằng Cương lĩnh chính trị, chiến lược, đường lối, chủ trương… Tám mươi bảy năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành 12 lần Đại hội. Trong mỗi kỳ Đại hội và giữa hai kỳ Đại hội, Đảng ta ban hành nhiều nghị quyết trên cơ sở yêu cầu phát triển của cách mạng trong mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể và trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Để hiện thực hoá nghị quyết, đưa những quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đến được với cán bộ, đảng viên và nhân dân, cần phải tiến hành tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện đưa nghị quyết vào cuộc sống. Trong thời gian qua, việc tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng đã có nhiều đổi mới, có nhiều hình thức mới, nhưng hình thức truyền thống và phổ biến nhất là tổ chức dưới hình thức hội nghị, lớp học. Việc đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng là yêu cầu được đặt đi đặt lại nhiều lần, nhất là trong những năm gần đây. Hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng ở Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương tuy đã có những bước đổi mới nhất định, có một số tiến bộ nhưng cũng có nhiều mặt hạn chế, cần được khắc phục, những đổi mới ấy chưa thật sự đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn. Một số cấp ủy đảng trong Đảng bộ Khối tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng cho cán bộ, đảng viên trong cơ quan, đơn vị còn chưa thực sự nghiêm túc; chất lượng học tập chưa cao; nội dung, hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng ở cơ sở chưa sát hợp với thực tế, việc cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng vào nhiệm vụ chuyên môn của bộ, ngành, cơ quan, đơn vị mình còn thiếu trọng tâm, trọng điểm, chưa tập trung đi sâu giải quyết những tồn tại, hạn chế, yếu kém của chính đảng bộ và trong mỗi cơ quan, đơn vị; nhiều đảng viên còn vắng mặt và coi nhẹ việc nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng; chất lượng đội ngũ báo cáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết của Đảng chưa thường xuyên, thiếu chặt chẽ, có nơi, có lúc còn buông lỏng. Khâu yếu nhất hiện nay là việc tổ chức học tập, quán triệt, triển khai thực hiện, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc suống. Một trong những nguyên nhân của tình hình này là chưa thực sự đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng. Chính vì lý do trên nên tác giả chọn đề tài: “Đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng ở Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Chính trị học, chuyên ngành Quản lý hoạt động tư tưởng văn hóa.
Học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng và các hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng
1.1.1 Nghị quyết của Đảng: khái niệm, đặc điểm và phân loại
1.1.1.1 Khái niệm nghị quyết của Đảng
Thuật ngữ “nghị quyết” lần đầu tiên được sử dụng trong văn kiện của đảng chính trị vào năm 1904, trong Dự thảo Nghị quyết về biện pháp khôi phục hòa bình trong Đảng, được thông qua tại Hội nghị Hội đồng Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga, do V.I Lênin đề xuất Tại thời điểm này, mặc dù Đảng đã thông qua một văn bản, nhưng chưa xác định tên gọi cho văn bản đó V.I Lênin đã đề nghị sử dụng thuật ngữ “nghị quyết”, đánh dấu sự chính thức hóa của thuật ngữ này trong các văn kiện của Đảng.
Nghị quyết, theo định nghĩa trong từ điển Tiếng Việt, là quyết định chính thức được thông qua tại hội nghị sau khi đã có sự thảo luận tập thể về vấn đề Hội nghị sẽ thông qua nghị quyết và các thành viên có trách nhiệm chấp hành nội dung của nghị quyết đó.
Nghị quyết là các quyết định được thông qua tại hội nghị của Đảng, bao gồm cả đại hội, sau khi đã được thảo luận tập thể Những nghị quyết này cần được thực hiện trong toàn Đảng và xã hội, nhằm đảm bảo sự thống nhất và hiệu quả trong việc triển khai các chủ trương, chính sách.
Theo Quyết định số 66-QĐ/TW ngày 06/02/2017 của Ban Bí thư khóa XII, nghị quyết được định nghĩa là văn bản ghi lại các quyết định được thông qua tại đại hội, hội nghị của các cơ quan lãnh đạo Đảng, cũng như hội nghị đảng viên Nghị quyết liên quan đến đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch hoặc các vấn đề cụ thể của Đảng.
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là văn bản ghi nhận các quyết định quan trọng về đường lối, chủ trương, chính sách, và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội Các nghị quyết này được thông qua chính thức tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng sau khi đã trải qua quá trình bàn bạc và thảo luận kỹ lưỡng.
Nghị quyết của Đảng là tài liệu văn bản ghi lại hoạt động của các tổ chức đảng, được ban hành bởi các cấp ủy có thẩm quyền theo quy định của Điều lệ Đảng và Trung ương Đảng.
1.1.1.2 Đặc điểm nghị quyết của Đảng
- Lý luận thống nhất với thực tiễn
Nghị quyết của Đảng là sự áp dụng lý luận vào thực tiễn, cụ thể hóa các cương lĩnh và chiến lược phù hợp với điều kiện hiện tại Qua việc tổng kết thực tiễn và tư duy lý luận, Đảng xác định các quy luật và xu thế xã hội, từ đó hình thành các chủ trương, đường lối, chính sách và giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề cấp thiết trong đời sống.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin Ông chỉ ra rằng thực tiễn thiếu lý luận sẽ dẫn đến mù quáng, trong khi lý luận không gắn liền với thực tiễn chỉ là lý thuyết suông.
Dựa trên thực tiễn cách mạng và lý luận chung, Đảng ban hành nghị quyết nhằm xác định mục tiêu, quan điểm và giải pháp cho các vấn đề cấp thiết trong xã hội.
- Nghị quyết có tính khái quát hóa cao
Nghị quyết là sản phẩm của quá trình tổng kết thực tiễn và ứng dụng lý luận khoa học, do đó mang tính khái quát cao, không đi vào chi tiết cụ thể mà tập trung vào các vấn đề chung và triển vọng biến đổi Là văn bản chỉ đạo, nghị quyết bao quát nhiều lĩnh vực và nội dung, nên được viết cô đọng, thể hiện tính khái quát cao Tính khái quát này yêu cầu khi triển khai học tập và giới thiệu nghị quyết, báo cáo viên cần cụ thể hóa các luận điểm bằng những luận cứ và số liệu cụ thể.
- Nghị quyết thường có cấu trúc, bố cục chặt chẽ, cân đối
Nghị quyết được xây dựng với cấu trúc và bố cục hợp lý, chặt chẽ và lô gic, phản ánh trình độ tư duy và trí tuệ của toàn Đảng cũng như từng tập thể cấp ủy đảng, đảm bảo sử dụng các khái niệm chính xác và nội hàm rõ ràng.
Mỗi nghị quyết của Đảng bao gồm hai phần chính: phần đầu tiên đánh giá tình hình, nêu rõ ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm; phần thứ hai xác định mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp cần thực hiện trong thời gian tới.
Nghị quyết của Đảng cần được trình bày bằng văn phong chính luận, nhằm thuyết phục người đọc và người nghe thông qua lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép và luận cứ chính xác Văn phong này không nên giống văn nói, không sử dụng lối diễn đạt dân dã, cũng như không mang tính học thuật quá mức hay văn chương bóng bẩy Từ ngữ và ngữ pháp phải chuẩn mực, ngắn gọn và cô đọng, đồng thời phản ánh ý tưởng sâu sắc Cần tránh thừa từ, thừa ý, trùng lặp và sử dụng quá nhiều trạng từ, đồng thời tăng cường động từ Việc viết tắt nên được hạn chế, và các quy tắc về tiêu đề, đánh số, kiểu chữ và cách viết hoa phải được tuân thủ nghiêm ngặt Để nghị quyết có chất lượng và khả thi, văn phong trình bày cũng là yếu tố quyết định quan trọng.
1.1.1.3 Phân loại nghị quyết của Đảng
Nghị quyết được ban hành theo cấp độ bao gồm nghị quyết của Đại hội Đảng các cấp, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nghị quyết của Bộ Chính trị, cũng như nghị quyết của ban chấp hành và ban thường vụ cấp ủy từ tỉnh đến cơ sở.
Theo quy định, chỉ các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ cấp Trung ương đến cơ sở, cũng như các tổ chức đảng được thành lập theo Điều lệ Đảng hoặc quyết định của Bộ Chính trị và ban cán sự đảng, đảng đoàn các cấp mới có quyền ban hành nghị quyết.
Nghị quyết của Đảng có thể được phân ra làm hai loại là: nghị quyết tổng quan và nghị quyết chuyên đề.
Đổi mới các hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng
1.2.1 Đổi mới và đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng
Theo GS.TS Phạm Ngọc Quang, đổi mới là bản chất vốn có của mọi sự vận động và phát triển trong tự nhiên, xã hội cũng như trong tư duy Mọi sinh vật đều liên tục tự đổi mới để thích nghi với sự thay đổi của môi trường sống Trong xã hội, đổi mới là phản ứng tự nhiên nhằm đảm bảo sự thích nghi trước những biến đổi của môi trường tự nhiên và quốc tế Quá trình đổi mới này phản ánh sự vận động tự nhiên của mọi hiện tượng xã hội.
Từ năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh khái niệm “Đổi mới” trong công cuộc xây dựng đất nước, khẳng định rằng “Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân” Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc không ngừng đổi mới nhận thức để phản ánh đúng tình hình thế giới và trong nước, đồng thời nhấn mạnh rằng đổi mới là cần thiết để vượt qua sức ỳ của thói quen cũ Đổi mới không chỉ là thay đổi phương thức sống mà còn là quá trình loại bỏ những rào cản, tổ chức lại xã hội và tạo ra một hệ thống đồng bộ cho sự phát triển vượt bậc Nó mang ý nghĩa giải phóng tư tưởng, lực lượng sản xuất và tiềm năng sáng tạo của con người, phục vụ cho sự phát triển và tự do của nhân dân Đổi mới còn là việc điều chỉnh những nhận thức sai lầm về “cái cũ” để hiểu đúng và áp dụng hiệu quả vào thực tiễn mới Qua đó, nền tảng tư tưởng được củng cố, giúp Đảng hoạch định và triển khai đường lối phát triển đất nước một cách hiệu quả hơn.
* Đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết
Đổi mới hình thức tổ chức học tập và quán triệt nghị quyết của Đảng là một quá trình cải tiến, sáng tạo và thay đổi cách thức thực hiện nhằm đáp ứng kịp thời và hiệu quả hơn với nhu cầu phát triển Điều này bao gồm việc từ bỏ những cách nghĩ và cách làm cũ, lạc hậu để áp dụng những phương pháp tiến bộ hơn, đồng thời kế thừa những kết quả tích cực từ công tác trước đó Mục tiêu cuối cùng là nâng cao hiệu quả trong việc học tập và quán triệt nghị quyết của Đảng trong bối cảnh mới.
Việc đổi mới hình thức tổ chức học tập và quán triệt nghị quyết của Đảng cần dựa trên những giá trị bền vững của "cái cũ" mà chúng ta đã từng bỏ qua Điều này không chỉ là khôi phục các phương pháp tổ chức trước đây mà còn phù hợp với điều kiện hiện tại Đổi mới tư duy và phương thức học tập là yếu tố then chốt để nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, với phương châm chú trọng vào chất lượng hơn số lượng và thực chất hơn hình thức khi mở các lớp học nghị quyết.
1.2.2 Các tiêu chí đánh giá đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng
* Sáng tạo ra hình thức mới
Sáng tạo là một khái niệm phổ biến trong cuộc sống, thường được nhắc đến khi nói về con người, công ty và cách làm việc Vậy sáng tạo thực sự là gì? Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về sáng tạo, phản ánh sự đa dạng và phong phú của nó trong các lĩnh vực khác nhau.
Là người đam mê nghiên cứu và khám phá, tôi luôn nỗ lực tạo ra những giá trị mới về vật chất và tinh thần Tôi tìm kiếm những giải pháp sáng tạo và độc đáo, không bị ràng buộc bởi những gì đã tồn tại, nhằm mang đến cái mới cho cuộc sống.
Trong quá trình làm việc, việc liên tục suy nghĩ, tìm tòi và học hỏi là rất quan trọng để phát hiện ra những điều mới mẻ và tìm ra các giải pháp tối ưu, từ đó đạt được hiệu quả cao nhất.
Hay chỉ đơn giản là dám làm ra một cái gì đó mới mẻ, táo bạo, khác thường nhưng vẫn rất hữu dụng.[31]
Tất cả các định nghĩa trên chỉ đúng một phần mà chưa đủ.
PGS.TSKH Phan Dũng định nghĩa sáng tạo là hoạt động tạo ra những sản phẩm hoặc ý tưởng mới, có tính ứng dụng và lợi ích cụ thể Sáng tạo không chỉ đơn thuần là sự mới mẻ, mà còn phải đáp ứng nhu cầu thực tiễn và mang lại giá trị cho người sử dụng.
Mọi thứ trong thế giới vật chất và tinh thần đều có thể được xem xét dưới góc độ tính mới Tính mới được định nghĩa là sự khác biệt của một đối tượng so với những đối tượng cùng loại đã xuất hiện trước đó, đặc biệt là về mặt thời gian.
Tính ích lợi bao gồm việc tăng năng suất và hiệu quả, tiết kiệm chi phí, giảm giá thành, đồng thời mang lại sự thuận tiện trong sử dụng và thân thiện với môi trường Những lợi ích này không chỉ ảnh hưởng tích cực đến cá nhân mà còn lan tỏa đến gia đình, cộng đồng và toàn nhân loại.
Phạm vi áp dụng: chỉ đúng trong không gian, thời gian, hoàn cảnh, điều kiện… cụ thể, nếu vượt ra ngoài thì có thể biến lợi thành hại.
Sáng tạo những hình thức mới là quá trình phát triển phương thức độc lập, mang lại cách thể hiện mới mẻ cho cá nhân, tập thể và toàn xã hội, đồng thời tạo ra giá trị sử dụng thiết thực.
Hiện nay, bên cạnh các hình thức tự nghiên cứu, học tập, tổ chức thảo luận và kiểm tra, vẫn chưa có hình thức học tập và quán triệt nghị quyết hoàn toàn mới nào được sáng tạo để phù hợp với đặc điểm tình hình của từng cơ quan, đơn vị, địa phương và đối tượng cụ thể.
* Cải tiến những hình thức đang sử dụng phù hợp với tình hình mới Cải tiến là gì?
Cải tiến, theo Từ điển Việt - Việt, được định nghĩa là việc sửa đổi để đạt được sự tiến bộ hơn Từ điển.com cũng nhấn mạnh rằng cải tiến là quá trình thay đổi những gì đã có nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả, ví dụ như cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý doanh nghiệp, và sử dụng công cụ cải tiến.
Cải tiến là quá trình tìm kiếm và áp dụng những phương pháp tốt hơn, không chỉ dừng lại ở những cách làm hiện tại Điều này đòi hỏi sự nghiên cứu và tư duy sáng tạo để phát triển những giải pháp mới Cải tiến cũng thể hiện sự không thỏa mãn với tình trạng hiện tại, nhằm đạt được hiệu quả cao hơn trong công việc.
Cải tiến để bắt kịp với nhịp phát triển của thế giới Cải tiến để tạo và duy trì lợi thế cạnh tranh.
Cải tiến có nhiều cách thức như:
+ Loại bỏ: loại bỏ những gì không cần thiết, dư thừa trong quá trình chúng ta thực hiện công việc;
+ Giảm bớt: nếu không loại bỏ được hoàn toàn thì nghĩ cách để giảm bớt một phần.
+ Thay đổi: thay đổi cách thức làm việc, phương pháp làm việc để công việc được tiến hành đơn giản hơn, hiệu quả hơn.[29].
Cho đến nay, các hình thức tổ chức học tập và quán triệt nghị quyết của Đảng, ngoài hội nghị do Trung ương tổ chức, đã có một số cải tiến nhưng vẫn còn giữ lối cũ và thiếu sự đổi mới, sáng tạo đáng kể.
Sự cần thiết phải đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng
Phối kết hợp hình thức kiểm tra, giám sát, đánh giá với hình thức tổ chức hội nghị, hội thảo sơ kết, tổng kết…
+ Phối hợp các hình thức tổ chức giữa cấp trên và cấp dưới, cấp dưới với cấp dưới:
Đảng ủy Khối có thể không tổ chức tổng kết đánh giá 3 năm, 5 năm hay 10 năm thực hiện nghị quyết của Đảng, nhưng các đảng ủy trực thuộc vẫn có thể tổ chức hội nghị, hội thảo sơ kết và tổng kết Đối với những đảng ủy có ít đảng viên hoặc không đủ điều kiện tổ chức, họ có thể đăng ký tham dự các lớp học tập nghị quyết do Đảng ủy Khối hoặc phối hợp với các đảng bộ khác trong Đảng bộ Khối tổ chức.
1.3 Sự cần thiết phải đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng
1.3.1 Đổi mới góp phần quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng trong tình hình mới
Thời gian qua, việc tổ chức học tập và quán triệt nghị quyết của Đảng còn nhiều hạn chế, thể hiện qua cách tiếp cận "lối mòn" và thiếu sự chú trọng đến đối tượng, lĩnh vực và địa bàn cụ thể Cán bộ chủ chốt ở các cấp thường tiếp thu những nội dung giống nhau, từ nghị quyết tổng hợp đến chuyên đề, mà không phân biệt mức độ cần thiết của từng đối tượng Việc báo cáo và tuyên truyền nghị quyết chủ yếu tập trung vào quan điểm và nhận thức, chưa chú trọng đầy đủ vào nhiệm vụ, giải pháp và cách thức tổ chức thực hiện Chương trình hành động và kế hoạch triển khai còn mang tính hình thức, không phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, đơn vị, đồng thời thiếu nguồn lực và thời gian cần thiết để thảo luận, phân tích những thuận lợi và khó khăn.
Trong bối cảnh hiện nay, để thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, chúng ta cần tăng cường nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, làm rõ các vấn đề liên quan đến Đảng cầm quyền, chủ nghĩa xã hội và con đường phát triển của đất nước Việc đổi mới nội dung và phương thức tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như các chính sách của Đảng và Nhà nước là rất quan trọng Đồng thời, cần kiên quyết đấu tranh để ngăn chặn mọi âm mưu và hoạt động chống phá.
Các thế lực thù địch đang thực hiện diễn biến hòa bình nhằm gây rối nội bộ Để đối phó, cần chủ động phòng ngừa, đấu tranh và phê phán các biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" Đồng thời, cần khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhằm giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và đồng thuận xã hội.
Việc đổi mới hình thức tổ chức học tập và quán triệt nghị quyết của Đảng giúp cán bộ, đảng viên hiểu sâu và vận dụng hiệu quả vào nhiệm vụ chuyên môn Điều này tạo ra chuyển biến tích cực trong nhận thức của cán bộ, đảng viên về quan điểm của Đảng, nâng cao trình độ tư duy lý luận và chính trị, cũng như năng lực hoạt động thực tiễn Đồng thời, nó cũng tạo sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, giúp hiện thực hóa nghị quyết trong cuộc sống, xây dựng Đảng vững mạnh và nâng cao năng lực lãnh đạo Ngược lại, nếu đảng viên không thấm nhuần tư tưởng của Đảng, sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến danh dự, uy tín của Đảng và làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Chất lượng và hiệu quả học tập về nghị quyết của Đảng phụ thuộc lớn vào trình độ, kinh nghiệm và thái độ chính trị của báo cáo viên Nhiệm vụ giới thiệu nghị quyết không chỉ là trách nhiệm trước cán bộ, đảng viên mà còn là trách nhiệm đối với Đảng Để truyền tải thông điệp đúng đắn và hiệu quả, báo cáo viên cần có ý thức trách nhiệm cao và tâm huyết với công việc Điều này thể hiện qua việc chuẩn bị nội dung báo cáo một cách công phu và nghiêm túc, cũng như nghiên cứu và rút kinh nghiệm trong phương pháp trình bày Đây là một công việc đặc biệt, đòi hỏi sự nghiêm ngặt và chất lượng cao trong lao động khoa học.
Đổi mới hình thức tổ chức học tập và quán triệt nghị quyết của Đảng là yếu tố quan trọng giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả trong bối cảnh hiện nay.
1.3.2 Đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng
Thực hiện thắng lợi nghị quyết có nghĩa là đưa nghị quyết vào cuộc sống, chuyển tải lý luận thành hành động cách mạng Để nghị quyết của Đảng đi vào thực tiễn, cần tổ chức nghiên cứu, học tập và quán triệt với chất lượng cao cho cán bộ, đảng viên Nếu nhận thức không thống nhất, dẫn đến không rõ việc cần làm, sẽ gây ra sai lầm trong thực hiện Do đó, việc tổ chức nghiên cứu và quán triệt nghị quyết là bước đầu tiên và quan trọng Ngược lại, nếu chỉ dừng lại ở nghiên cứu mà không thực hiện hiệu quả, nghị quyết sẽ không có tác dụng Để đường lối, nghị quyết của Đảng được hiện thực hóa, cần có sự chuyển tải của cán bộ, đảng viên, đảm bảo họ kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội Cán bộ, đảng viên phải hiểu rõ lý do ra đời của nghị quyết và cách áp dụng vào thực tiễn cụ thể, từ đó định hướng tư tưởng và hành động đúng theo chủ trương của Đảng, hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Thời gian qua, cán bộ và đảng viên thường thiếu hứng thú trong việc học tập nghị quyết do các buổi quán triệt thường mang tính khô khan và cứng nhắc Do đó, việc giới thiệu nghị quyết một cách sinh động và hấp dẫn là rất cần thiết, nhằm thu hút sự chú ý và tạo động lực cho người học.
"Đưa cuộc sống vào Nghị quyết và đưa nghị quyết về với đời sống" là nguyên tắc quan trọng trong việc thực hiện nghị quyết của Đảng Nghị quyết được hình thành từ việc tổng kết sâu sắc thực tiễn, phản ánh sự phong phú và đa dạng của cuộc sống Khi giới thiệu nghị quyết, báo cáo viên cần truyền tải sức sống thực tiễn tiềm ẩn trong từng câu chữ, giúp người nghe hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của nghị quyết trong đời sống hàng ngày.
Chọn lọc sự kiện và con người tiêu biểu trong đời sống thực tế, liên hệ đúng lúc và đúng chỗ với nội dung nghị quyết sẽ giúp người nghe cảm nhận sự sống động và thiết thực của nghị quyết, từ đó xóa bỏ định kiến về sự tách biệt giữa nghị quyết và cuộc sống Để đạt được điều này, báo cáo viên cần có vốn thực tiễn phong phú, kiến thức sâu rộng và khả năng lựa chọn những dẫn chứng thực tiễn phù hợp trong thuyết trình.
Đổi mới hình thức tổ chức học tập và quán triệt nghị quyết của Đảng là cần thiết để cán bộ, đảng viên hiểu đúng và sâu sắc về quan điểm, đường lối của Đảng Điều này không chỉ tạo ra sự đoàn kết và thống nhất tư tưởng trong nội bộ Đảng mà còn thúc đẩy sự đồng thuận giữa Đảng và nhân dân, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi các nghị quyết.
Đổi mới là yêu cầu thiết yếu để nâng cao trình độ tư duy lý luận, tư duy chính trị cũng như phẩm chất chính trị và đạo đức của cán bộ, đảng viên Việc này không chỉ giúp cải thiện năng lực lãnh đạo mà còn tạo ra một môi trường làm việc tích cực và hiệu quả hơn.
Nghị quyết của Đảng là sự áp dụng quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng, đồng thời là kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn cách mạng qua tư duy lý luận của toàn Đảng Để xây dựng và ban hành nghị quyết, mỗi đảng viên cần có trình độ tư duy lý luận, giúp họ hiểu sâu sắc và vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn Việc học tập và quán triệt nghị quyết của Đảng không chỉ nâng cao trình độ, năng lực tư duy chính trị mà còn hình thành tư duy lý luận và thực tiễn cho cán bộ, đảng viên.
Tư duy chính trị là khả năng nhận thức và phân tích các sự kiện, quá trình chính trị trong xã hội Nó bao gồm việc dự đoán và đề xuất giải pháp cho các tình huống chính trị phức tạp Tư duy chính trị được hình thành từ hiểu biết sâu sắc về quy luật hoạt động của đời sống chính trị và kinh nghiệm cá nhân trong tham gia chính trị Để phát triển tư duy chính trị, cần học tập và nghiên cứu kỹ lưỡng các đường lối, quan điểm và nghị quyết của Đảng.