MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thanh niên là lực lượng lao động xã hội to lớn, có mặt trong tất cả các giai cấp và tầng lớp xã hội, là lực lượng xung kích đảm nhận những công việc khó khăn, gian khổ, đòi hỏi sức khoẻ, trí tuệ và khả năng sáng tạo. Thanh niên đến tuổi lao động là nguồn nhân lực quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung, ở mỗi địa phương, các ngành, lĩnh vực … nói riêng. Đặc biệt, thanh niên lực lượng đông đảo, có vai trò quyết định sự nghiệp đổi mới, CNH HĐH đất nước. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, thanh niên phải được trau dồi bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, được đào tạo nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp. Trong thực tế, lực lượng lao động thanh niên chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu mới của nền kinh tế, nhất là ở vùng nông thôn và những vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn của đất nước. Nhìn chung, trình độ, năng lực và sự vận dụng các kiến thức KHKT của thanh niên vào thực tiễn của đa số TNNT chưa theo kịp sự phát triển chung. Đây là thực trạng chung của các địa phương, trong đó có tỉnh Bắc Giang. Tỉnh Bắc Giang hiện có khoảng 449.112 thanh niên (độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi), chiếm 28,89% dân số và 44,98% tổng số người trong độ tuổi lao động của địa phương, trong đó TNNT có 413.071 người, chiếm 91,97% tổng số thanh niên, sinh sống tại khu vực nông thôn có điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn. Đời sống vật chất, tinh thần của TNNT từng bước được cải thiện, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật ngày càng được nâng lên. Đại bộ phận thanh niên tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và công cuộc đổi mới đất nước; có ý chí vươn lên, tích cực học tập nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn. Tuy nhiên, TNNT Bắc Giang cũng đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Một bộ phận TNNT không có việc làm hoặc việc làm không ổn định, thu nhập thấp. Số thanh niên có trình độ tay nghề cao chiếm tỷ lệ thấp, chất lượng nguồn nhân lực trẻ khu vực nông thôn còn nhiều hạn chế so với yêu cầu phát triển của địa phương. Một bộ phận khác ngại khó khăn, thiếu ý chí vươn lên thoát nghèo, trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước. Số thanh niên vi phạm pháp luật và mắc các tệ nạn xã hội vẫn có chiều hướng gia tăng. Theo kết quả điều tra dân số và nhà ở tính đến 31122011 của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Bắc Giang, số người trong độ tuổi lao động trên toàn tỉnh là 998.314 người, lao động thanh niên chiếm 44,98% tổng số lao động trong độ tuổi. Trong năm năm qua, số thanh niên được học nghề là 7.965 người, 15.600 thanh niên được giải quyết việc làm. Tổ chức Đoàn đã giúp trên 3.000 TNNT có việc làm thông qua vay vốn phát triển kinh tế; tổ chức tư vấn nghề nghiệp và xuất khẩu lao động cho trên 2.000 thanh niên. Nhiều thanh niên được tổ chức Đoàn định hướng đã có nghề nghiệp và việc làm ổn định, xuất hiện nhiều TNNT làm kinh tế giỏi, thu nhập cao. Tuy nhiên, số TNNT được tạo việc làm còn thấp, toàn tỉnh hiện còn khoảng 3.500 TNNT chưa có việc làm. Nhiều thanh niên có tâm lý dễ thoả mãn, tự ti do thiếu kiến thức, kỹ năng, hạn chế về trình độ chuyên môn, đặc biệt là kiến thức và trình độ tay nghề đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc hỗ trợ, giải quyết việc làm. Dự báo trong những năm tới, việc phát triển các ngành nghề mới, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề trong lao động trên địa bàn tỉnh ngày càng tăng, nhu cầu đào tạo nghề để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ là rất cần thiết, đáp ứng được thị trường lao động trong và ngoài tỉnh, phục vụ xuất khẩu lao động, góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững cho địa phương. Quản lý việc hỗ trợ, giải quyết việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng thiết thực của TNNT, bổ sung nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh CNH HĐH nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững cho tỉnh Bắc Giang là vấn đề có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội quan trọng và cấp thiết. Vì vậy, học viên lựa chọn đề tài “Quản lý công tác hỗ trợ, giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn của Tỉnh đoàn Bắc Giang hiện nay” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành quản lý xã hội nhằm phân tích và làm rõ và đề xuất những giải pháp khả thi đối với việc nâng cao hiệu quả quản lý công tác hỗ trợ, giải quyết việc làm cho TNNT tỉnh Bắc Giang hiện nay và trong thời gian tới.
Nội dung, phương pháp và nguyên tắc quản lý công tác hỗ trợ và giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn của Tỉnh đoàn
và giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn của Tỉnh đoàn
1.2.1 Nội dung quản lý công tác hỗ trợ và giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn của Tỉnh đoàn
Quản lý công tác hỗ trợ và giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn (TNNT) là một vấn đề quan trọng, liên quan đến nhiều chủ thể quản lý khác nhau Điều này thể hiện rõ qua các nội dung cụ thể trong quá trình thực hiện và phát triển các chương trình hỗ trợ việc làm cho TNNT.
Quản lý tổ chức đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho thanh niên nông thôn (TNNT) là yếu tố quan trọng nhằm hỗ trợ họ giải quyết việc làm Đào tạo nghề giúp TNNT nâng cao kỹ năng, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong bối cảnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và giảm diện tích đất nông nghiệp UBND tỉnh quy hoạch hệ thống cơ sở đào tạo nghề thông qua các trường cao đẳng, trung cấp nghề và trung tâm giáo dục thường xuyên Các phương pháp đào tạo đa dạng, từ tập trung đến phi tập trung, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội địa phương Để nâng cao chất lượng đào tạo, UBND tỉnh đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ giảng viên có năng lực, đồng thời hỗ trợ học phí cho TNNT, khuyến khích họ tham gia học nghề và cải thiện kỹ năng nghề nghiệp.
Việc giới thiệu việc làm cho người lao động nông thôn (TNNT) là rất cần thiết để kết nối cung và cầu lao động Do thiếu thông tin thị trường, TNNT thường gặp khó khăn và rủi ro khi tham gia thị trường lao động Họ cần thông tin chính xác để lựa chọn công việc phù hợp với trình độ và khả năng của mình với chi phí dịch vụ thấp nhất Ngược lại, người sử dụng lao động cũng cần thông tin rõ ràng để tuyển dụng đúng người với chi phí thấp Để tối đa hóa lợi ích cho cả hai bên, hệ thống trung tâm dịch vụ cung cấp thông tin thị trường lao động đã được thành lập, hỗ trợ giải quyết việc làm UBND tỉnh đã tổ chức các trung tâm giới thiệu việc làm và sử dụng công nghệ thông tin để xây dựng các trang điện tử phục vụ việc giới thiệu việc làm, đồng thời tổ chức các phiên giao dịch việc làm, tạo điều kiện cho TNNT tham gia vào thị trường lao động.
1.2.1.2 Quản lý hỗ trợ thanh niên nông thôn phát triển kinh tế
Hỗ trợ phát triển kinh tế cho nông thôn là một giải pháp chiến lược nhằm tạo ra việc làm ổn định và lâu dài tại địa phương Mặc dù nông thôn có tiềm năng phát triển, nhưng nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc khởi nghiệp Nông dân chủ yếu dựa vào hoạt động nông nghiệp và dịch vụ, nhưng thu nhập từ đó thường thấp Để cải thiện tình hình, nông dân cần tự phát triển sản xuất và kinh doanh Tuy nhiên, họ thường đối mặt với nhiều trở ngại như thiếu vốn, kinh nghiệm, kiến thức về khoa học kỹ thuật, hiểu biết thị trường và kỹ năng kinh doanh Do đó, việc hỗ trợ nông dân trong phát triển kinh tế là rất cần thiết.
UBND tỉnh đã ban hành các chính sách nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế cho thanh niên nông thôn (TNNT) Các quỹ quốc gia giải quyết việc làm và các khoản vay ưu đãi được ủy thác qua các tổ chức chính trị - xã hội như Đoàn thanh niên, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ và Hội Cựu chiến binh sẽ giúp TNNT tiếp cận vốn phát triển kinh tế Bên cạnh đó, UBND tỉnh cũng đã thành lập quỹ hỗ trợ ổn định đời sống, học tập, đào tạo nghề và việc làm cho người dân bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp, đồng thời hỗ trợ lãi suất cho vay từ các ngân hàng thương mại.
UBND tỉnh triển khai chính sách hỗ trợ vốn và chỉ đạo dồn điền, đổi thửa nhằm tạo điều kiện cho nông dân, đặc biệt là TNNT, áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp Điều này không chỉ giúp nông dân sản xuất hàng hóa mà còn thúc đẩy hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn Bên cạnh đó, UBND tỉnh cũng chú trọng chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho TNNT và tổ chức các hoạt động giới thiệu sản phẩm nông nghiệp, giúp họ tiếp cận thị trường và tham gia vào chuỗi giá trị, từ đó nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp trên mỗi đơn vị diện tích.
1.2.1.3 Quản lý hỗ trợ hoạt động xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là hoạt động cung ứng lao động giữa các quốc gia thông qua các hiệp định pháp quy, nhằm bù đắp sự thiếu hụt yếu tố cần thiết cho sản xuất và phát triển kinh tế Việt Nam, với dân số vàng và nhu cầu việc làm cao, đặc biệt cho thanh niên nông thôn, đang tận dụng xuất khẩu lao động như một giải pháp quan trọng để tăng thu nhập và giải quyết việc làm Để phát triển kênh xuất khẩu lao động, các tỉnh cần thực hiện nhiều giải pháp khuyến khích, như hỗ trợ nâng cao trình độ văn hóa, nghề nghiệp, ngoại ngữ cho người lao động, cũng như tổ chức truyền thông và nâng cao nhận thức về xuất khẩu lao động Hơn nữa, cần kêu gọi sự tham gia của các doanh nghiệp uy tín trong lĩnh vực này để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động.
1.2.1.4 Quản lý hỗ trợ phát triển sản xuất các ngành nghề thu hút lao động thanh niên nông thôn
Để giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động, đặc biệt là thanh niên nông thôn, UBND tỉnh cần thu hút các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bằng cách cải thiện môi trường đầu tư Cần tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp triển khai dự án và xây dựng chiến lược thu hút đầu tư, xác định rõ các lĩnh vực và đối tác ưu tiên Đồng thời, nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư, chú trọng quảng bá cả trong và ngoài nước, phát triển hạ tầng các khu, cụm công nghiệp và khu chế xuất, cải cách hành chính và cải thiện chỉ số cạnh tranh để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia đầu tư.
Việc hỗ trợ phát triển các làng nghề và cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp là giải pháp hiệu quả để tạo việc làm tại chỗ cho thanh niên nông thôn Những làng nghề này đóng vai trò quan trọng trong việc đa dạng hóa cơ cấu kinh tế nông nghiệp, giải quyết việc làm, đặc biệt là việc làm thời vụ, và nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn Do đó, cần chủ động và tích cực tìm kiếm, mở rộng thị trường, đổi mới công nghệ, chuyển giao công nghệ phù hợp, đa dạng hóa hình thức huy động vốn và đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động tại các làng nghề.
1.2.2 Phương pháp quản lý công tác hỗ trợ và giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn của Tỉnh đoàn
Phương pháp quản lý công tác hỗ trợ và giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn (TNNT) được xem như một hệ thống các thủ thuật và quy trình nhằm tổ chức, giám sát và thực hiện các quyết định quản lý Các phương pháp này dựa trên nền tảng quản lý tổng thể và được phân chia theo tác động đến ý thức, ý chí và lợi ích của con người, bao gồm những phương pháp chính trong việc hỗ trợ và giải quyết việc làm cho TNNT.
Phương pháp khoa học đóng vai trò quan trọng trong quản lý việc giới thiệu và giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn, bởi vì nó yêu cầu sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị Các chuẩn mực, quy tắc và thủ thuật cần thiết để nghiên cứu và áp dụng vào thực tế, giúp phản ánh các mối quan hệ giữa các cấp, ngành trong việc hỗ trợ việc làm Tất cả các mối liên hệ này dựa trên nguyên tắc và chuẩn mực, từ đó các cơ quan có thể xây dựng cơ chế và quy chế phối hợp một cách khoa học và hợp lý.
Phương pháp kinh tế trong quản lý là cách thức đạt được mục tiêu quản lý bằng việc áp dụng một cách có ý thức các quy luật kinh tế Trong mọi ngành nghề, kinh tế luôn đóng vai trò chủ đạo, giúp triển khai các phương pháp và cách thức một cách hiệu quả hơn.
Phương pháp quản lý hành chính là cách tác động trực tiếp và linh hoạt đến đối tượng quản lý để đảm bảo sự nhất quán trong hành vi và hành động của những người thi hành Phương pháp này dựa trên quyền uy của chính quyền và các thẩm quyền, yêu cầu mệnh lệnh từ nhà lãnh đạo phải được thực hiện một cách bắt buộc và chính xác Sự thể hiện của phương pháp quản lý hành chính được minh chứng qua các quyết định cụ thể từ cơ quan quản lý và nhà lãnh đạo.
1.2.3 Nguyên tắc quản lý công tác giới thiệu và giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn của Tỉnh đoàn
Nguyên tắc hệ thống trong quản lý công tác hỗ trợ và giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn (TNNT) nhấn mạnh sự thống nhất giữa các cấp, ngành và cơ quan đoàn thể từ Trung ương đến cơ sở Tính hệ thống thể hiện qua sự đồng bộ trong hành động, trong đó các cơ quan quản lý thực hiện nhiệm vụ của mình nhằm đạt được mục tiêu chung là nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ và giải quyết việc làm cho TNNT.
Nguyên tắc khách quan trong quản lý công tác hỗ trợ và giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn (TNNT) yêu cầu các chủ trương, chính sách và phương pháp thực hiện phải dựa trên cơ sở khách quan, không bị chi phối bởi ý kiến chủ quan của bất kỳ cơ quan quản lý nào Điều này đảm bảo rằng các biện pháp được tổ chức thực hiện phù hợp với quy luật chung, tạo điều kiện thuận lợi cho TNNT trong việc tìm kiếm việc làm.
Quản lý công tác hỗ trợ và giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn của Tỉnh đoàn một số tỉnh ở Việt Nam và bài học kinh nghiệm cho Tỉnh đoàn Bắc Giang
1.3.1 Thực tiễn quản lý công tác hỗ trợ và giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn của Tỉnh đoàn Bắc Ninh
Bắc Ninh, tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, được tách ra từ tỉnh Hà Bắc vào năm 1997, nằm cách trung tâm Hà Nội 30km về phía Đông Bắc Tỉnh giáp với Thủ đô Hà Nội ở phía Tây và Tây Nam, Bắc Giang ở phía Bắc, Hải Dương ở phía Đông và Đông Nam, cùng Hưng Yên ở phía Nam Bắc Ninh là cửa ngõ quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, nằm trên hai hành lang kinh tế lớn Nổi bật với văn hóa dân ca quan họ, Bắc Ninh còn là trung tâm của xứ Kinh Bắc cổ xưa, với truyền thống khoa bảng và nền văn hóa lâu đời Tỉnh có nhiều điểm tương đồng với Bắc Giang trong phát triển kinh tế - xã hội và có kinh nghiệm trong giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn.
Bắc Ninh là tỉnh có xuất phát điểm kinh tế thấp với cơ cấu nông nghiệp chiếm 45,1%, dịch vụ 31,1%, công nghiệp - xây dựng 23,8%, thu ngân sách
Tính đến thời điểm hiện tại, Bắc Ninh có tổng sản phẩm nội địa (GRDP) đạt 164 tỷ đồng và thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt 144 USD/năm Tỉnh này hiện chỉ có bốn doanh nghiệp FDI với tổng vốn đăng ký 117 triệu USD, cùng với kết cấu hạ tầng còn yếu kém và chủ yếu là các cơ sở sản xuất nhỏ, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 569 tỷ đồng Tuy nhiên, sau năm 1997, kinh tế Bắc Ninh đã có sự phát triển mạnh mẽ, với tốc độ tăng trưởng GRDP liên tục nằm trong tốp dẫn đầu cả nước, bất chấp các khủng hoảng kinh tế trong giai đoạn 2008 - 2011.
2015 bình quân đạt 14,7%/năm; quy mô GRDP đứng thứ 6 toàn quốc; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Năm
Năm 2015, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tại tỉnh đạt 75,1%, với GRDP bình quân đầu người đạt 4.931 USD Tỉnh đã có 9/15 khu công nghiệp hoạt động, tỷ lệ lấp đầy vượt 80% Đến năm 2015, có 8.154 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, trong đó giai đoạn 2011-2015 có hơn 4.000 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký 23,196 nghìn tỷ đồng Tỉnh thu hút 477 doanh nghiệp FDI với tổng vốn gần 6.000 triệu USD, chiếm 73,3% tổng vốn đầu tư Giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 195,5 nghìn tỷ đồng, gấp 5,3 lần so với năm 2010, đứng thứ 2 toàn quốc Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 90% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp Tỉnh đã thu hút 126 dự án đầu tư công nghiệp hỗ trợ, tạo ra hàng vạn việc làm cho lao động nông thôn Để đáp ứng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tỉnh chú trọng hỗ trợ phát triển lao động nông thôn, đặc biệt là thông qua Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2010 - 2014.
Tỉnh Bắc Ninh đã triển khai đào tạo 35 nghề, trong đó có 22 nghề phi nông nghiệp, nhằm đáp ứng nhu cầu lao động cho sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương Chương trình đào tạo nghề phi nông nghiệp đã giúp 70% người học tìm được việc làm ngay sau khi tốt nghiệp Trong số hơn 14.000 lao động được giải quyết việc làm, 50% đã tự tạo việc làm và 32% tham gia sản xuất tiểu thủ công nghiệp với cam kết tiêu thụ từ doanh nghiệp Nhờ hiệu quả của chương trình, tỉnh đã thành lập 181 tổ hợp tác, hợp tác xã và doanh nghiệp tư nhân, giúp hơn 1.500 hộ nông dân có thu nhập khá, trong đó gần 400 hộ đã thoát nghèo bền vững Hiện tại, toàn tỉnh có 718 hợp tác xã hoạt động hiệu quả.
Tính đến năm 2015, đã có 95 hợp tác xã được thành lập với 205.201 thành viên, trong đó có 7.486 lao động làm việc thường xuyên Nhóm thanh niên đi xuất khẩu lao động về nước, mặc dù có tay nghề và kỷ luật lao động từ môi trường làm việc chuyên nghiệp tại các doanh nghiệp nước ngoài, gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm Để hỗ trợ nhóm này, tỉnh đã tổ chức các phiên giao dịch việc làm riêng biệt, góp phần quan trọng trong việc giải quyết vấn đề việc làm cho họ.
1.3.2 Kinh nghiệm quản lý công tác hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn của Tỉnh đoàn Hải Dương
Hải Dương là tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, được tái lập từ tỉnh Hải Hưng Thành phố Hải Dương, cách Hà Nội 57 km về phía Đông và Hải Phòng 45 km về phía Tây, là trung tâm hành chính của tỉnh Hải Dương giáp Bắc Ninh ở phía Tây Bắc, Bắc Giang ở phía Bắc, Quảng Ninh ở phía Đông Bắc, Hải Phòng ở phía Đông, Thái Bình ở phía Nam và Hưng Yên ở phía Tây.
2007, Hải Dương nằm trong Vùng Thủ đô với vai trò là một trung tâm công nghiệp của toàn vùng.
Hải Dương, vùng đất "địa linh nhân kiệt", nổi bật với 1.098 di tích lịch sử, trong đó có 133 di tích quốc gia và nhiều di tích đặc biệt như Côn Sơn, Kiếp Bạc Nơi đây cũng là quê hương của nhiều anh hùng dân tộc và danh nhân văn hóa, đồng thời là cái nôi của nghệ thuật múa rối nước Hải Dương từ lâu đã được biết đến là đất học, nơi sản sinh ra nhiều nho sĩ và Trạng Nguyên Với vị trí quan trọng trong du lịch Bắc Bộ, Hải Dương được chia thành hai vùng: vùng đồi núi phía Bắc chiếm 11% diện tích tự nhiên, phù hợp cho trồng cây ăn quả và cây công nghiệp ngắn ngày, và vùng đồng bằng chiếm 89% diện tích, nhờ phù sa sông Thái Bình, đất đai màu mỡ cho phép sản xuất nhiều loại cây trồng trong năm.
Trong những năm qua, tỉnh Hải Dương đã chú trọng thu hút đầu tư, góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hiện tại, tỉnh có 249 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn thực hiện khoảng 2.590 triệu USD, chiếm 45% tổng vốn đầu tư đăng ký Ngoài ra, có 831 dự án thuê đất còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký lên tới 33.847,6 tỷ đồng Tỉnh cũng sở hữu 11 khu công nghiệp và 65 làng nghề, tạo việc làm cho gần 20.000 lao động nông nhàn, tạo điều kiện thuận lợi cho Hải Dương trong việc chuyển dịch cơ cấu lao động.
Công tác giải quyết việc làm tại Hải Dương đã đạt kết quả tích cực, với bình quân hàng năm tạo mới 15.000 việc làm cho lao động là TNNT Tỉnh đã tổ chức gần 100 phiên giao dịch việc làm với sự tham gia của 1.500 doanh nghiệp, đồng thời xuất khẩu trên 3.000 lao động mỗi năm Để hỗ trợ người lao động, đặc biệt là TNNT ở những địa phương bị thu hồi đất, Hải Dương đã tổ chức các ngày hội việc làm, tư vấn vay vốn ngân hàng chính sách xã hội, và duy trì các điểm tư vấn giới thiệu việc làm Tỉnh cũng phát triển các mô hình câu lạc bộ thanh niên và hợp tác xã để giúp nhau lập nghiệp Hiện nay, toàn tỉnh có hơn 20 cơ sở dạy nghề được đầu tư, với chính sách mở rộng cơ hội đào tạo cho các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp Nhờ gắn kết việc dạy nghề với tư vấn việc làm, đến 75% lao động TNNT có việc làm ngay sau khi học nghề.
1.3.3 Kinh nghiệm quản lý công tác hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn của Tỉnh đoàn Thanh Hoá
Thanh Hoá, tỉnh địa đầu Bắc Miền Trung, nằm trong vùng ảnh hưởng của các khu kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Trung Bộ và Bắc Lào Địa hình nơi đây đa dạng, thấp dần từ Tây sang Đông, chia thành ba vùng chính: vùng núi và trung du, vùng đồng bằng và vùng ven biển Sự đa dạng này tạo điều kiện thuận lợi cho tỉnh phát triển kinh tế đa ngành Thanh Hoá bao gồm 27 đơn vị hành chính, với 01 thành phố, 02 thị xã và 24 huyện, trong đó có 11 huyện miền núi.
Năm 2010, tỉnh có dân số 3.418.628 người, trong đó có 2.217.182 người trong độ tuổi lao động, chiếm 64,9% tổng dân số Lao động nông thôn đạt 1.985.000 người, tương đương 89,52% tổng số lao động, với 55% lao động làm trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp Tỉnh có khoảng 797.600 người thuộc khu vực kinh tế nông thôn, chiếm 40,2% lao động nông thôn Áp lực dân số và số thanh niên bước vào độ tuổi lao động hàng năm cao tạo ra thách thức lớn trong việc giải quyết việc làm cho thanh niên địa phương.
Từ năm 2006 đến 2010, tỉnh đã tạo ra 253.777 việc làm, trong đó 218.760 lao động nông thôn chiếm 86,2%, đồng thời đưa 44.369 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, với 75% là thanh niên, vượt kế hoạch đề ra Tỷ lệ lao động được đào tạo tăng từ 12,7% năm 2006 lên 21,7% năm 2010, và tỷ lệ lao động thiếu việc làm ở nông thôn cũng giảm so với năm 2005.
Tỉnh có 92 cơ sở dạy nghề, bao gồm 47 cơ sở công lập và 45 cơ sở ngoài công lập Từ năm 2006 đến 2010, các cơ sở này đã đào tạo 191.981 lao động nông thôn, trong đó có 3.711 người học cao đẳng nghề (chiếm 1,9%), 34.019 người học trung cấp nghề (chiếm 17,7%), và 3.711 người học sơ cấp nghề (chiếm 80,4%), với hơn 60% là lao động nông thôn Trong 5 năm qua, tỉnh đã đầu tư 738,522 tỷ đồng cho công tác dạy nghề, trong đó 426,71 tỷ đồng (chiếm 57,78%) đến từ các cơ sở ngoài công lập và đóng góp của người học.
Mỗi năm, tỉnh Thanh Hóa có khoảng 23.000 đến 24.000 thanh niên tốt nghiệp THPT, thi đỗ vào các trường đại học và cao đẳng trên toàn quốc, góp phần cung cấp nguồn lao động chất lượng cho địa phương và cả nước.
1.3.4 Bài học vận dụng quản lý công tác hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn đối với Tỉnh đoàn Bắc Giang
Từ kinh nghiệm quản lý công tác hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn và lao động trẻ ở các địa phương có điều kiện tự nhiên và phát triển kinh tế - xã hội tương đồng với tỉnh Bắc Giang, có thể rút ra một số bài học quan trọng Những bài học này sẽ giúp nâng cao hiệu quả trong việc giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn tại địa phương, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững và tạo ra cơ hội việc làm cho lực lượng lao động trẻ.
Những kết quả đạt được và nguyên nhân trong quản lý công tác hỗ trợ và giải quyết việc làm cho thanh niên nông thông Tỉnh đoàn Bắc Giang hiện nay
2.2.1 Những kết quả đã đạt được
Tổ chức đào tạo nghề và giới thiệu việc làm đóng vai trò quan trọng trong việc giúp người lao động tiếp cận cơ hội việc làm, đồng thời tạo điều kiện cho sự gặp gỡ giữa cung và cầu lao động Nhận thức được tầm quan trọng này, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TU vào ngày 22/02/2011, nhằm triển khai 05 chương trình phát triển kinh tế, dựa trên mục tiêu của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII (nhiệm kỳ 2010 - 2015).
Trong giai đoạn 2011 - 2015, UBND tỉnh Bắc Giang đã phê duyệt Quy hoạch hệ thống cơ sở dạy nghề đến năm 2020 và triển khai Dự án nâng cao năng lực hoạt động Trung tâm giới thiệu việc làm Tỉnh cũng thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” nhằm mở rộng hoạt động đào tạo nghề và giải quyết việc làm Các chương trình giảm nghèo được ban hành với giải pháp đồng bộ, bao gồm khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và hướng dẫn sản xuất cho người nghèo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tích cực tham gia giám sát các chương trình như dạy nghề cho thanh niên dân tộc thiểu số, lao động nông thôn và phụ nữ, cùng với dự án vay vốn giải quyết việc làm trong chương trình mục tiêu quốc gia.
Tỉnh đã chú trọng đầu tư cơ sở vật chất cho công tác dạy nghề, dẫn đến việc mở rộng mạng lưới và quy mô các cơ sở đào tạo nghề từ năm 2011 đến 2015 Hiện tại, toàn tỉnh có 105 cơ sở dạy nghề, bao gồm 02 trường cao đẳng nghề và 06 trường trung cấp nghề Đầu tư vào trang thiết bị và cơ sở vật chất đã đạt khoảng 621.581,66 triệu đồng, trong đó 330.225,26 triệu đồng từ chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề Đến nay, có 05 trường được phê duyệt dự án đầu tư nghề trọng điểm, bao gồm Trường Cao đẳng Nghề Công nghệ Việt Hàn, Trường Cao đẳng Nghề Bắc Giang, và các trường trung cấp nghề khác, với nhiều nghề trọng điểm đạt tiêu chuẩn quốc tế và khu vực ASEAN Trường Cao đẳng Nghề Công nghệ Việt Hàn còn là một trong 45 trường được đầu tư phát triển thành trường nghề chất lượng cao đến năm 2020.
Tỉnh đã chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên dạy nghề, với 373 cán bộ quản lý tính đến cuối năm 2015, trong đó 45,57% có trình độ đại học Trong 5 năm qua, hơn 400 cán bộ quản lý cấp tỉnh, huyện và cơ sở dạy nghề đã tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ Các cơ sở dạy nghề cũng tạo điều kiện cho giáo viên nâng cao trình độ qua các lớp đào tạo Đồng thời, các cơ sở này chủ động xây dựng giáo trình, biên soạn tài liệu hướng dẫn, cải thiện cơ sở vật chất và trang thiết bị, phối hợp với địa phương để tuyên truyền và tư vấn học nghề cho người lao động, tổ chức dạy nghề theo chương trình đã phê duyệt.
Chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề đã được cải thiện đáng kể nhờ sự quan tâm từ các cơ sở dạy nghề, tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp đào tạo nâng cao Để nâng cao chất lượng giảng dạy, các cơ sở đã mời giảng viên từ các trường ĐH, CĐ và các nghệ nhân, kỹ sư, thợ bậc cao từ doanh nghiệp tham gia giảng dạy Hiện tại, toàn tỉnh có 1.373 giáo viên dạy nghề, trong đó có 8,3% có trình độ thạc sĩ, 47,56% có trình độ đại học, 23,82% có trình độ cao đẳng, 0,29% là nghệ nhân và công nhân kỹ thuật, còn lại 23,74% ở trình độ khác.
Trong giai đoạn hiện nay, các cơ sở dạy nghề tại tỉnh đã thu hút 76.713 TNNT, chiếm 54,5% tổng số người học nghề, với 2.703 TNNT học cao đẳng, 8.403 TNNT học trung cấp, và 65.607 TNNT học sơ cấp cùng các khóa đào tạo ngắn hạn Đào tạo nghề được đa dạng hóa thông qua các hình thức như đào tạo tại cơ sở, lưu động tại thôn bản, trang trại, doanh nghiệp, và kèm cặp tại làng nghề Chất lượng đào tạo đã được nâng cao, với sự kết nối giữa cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp, giúp giải quyết việc làm hiệu quả Có 72 doanh nghiệp tham gia vào đào tạo nghề, và tỷ lệ việc làm sau khi tốt nghiệp đạt 90% cho cao đẳng nghề, 80% cho trung cấp, và trên 70% cho sơ cấp Tỷ lệ lao động qua đào tạo cũng tăng từ 37%.
Bảng 2.1: Danh mục các ngành nghề và kết quả đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn giai đoạn 2011- 2015 Đơn vị tính: Người
Stt Chỉ tiêu Kết quả qua các năm
7 Sửa chữa máy công cụ 36 15 0 30 70 151
9 May và thiết kế thời trang 0 12 0 11 90 113
11 KTSC lắp ráp máy tính 0 0 0 20 50 70
5 May và TK thời trang 198 321 500 332 200 1,551
10 Sửa chữa máy công cụ 4 10 2 9 21 46
11 Kỹ thuật máy lạnh và ĐHKK 70 19 61 50 48 248
13 Vận hành máy thi công 0 24 0 11 35 70
14 Gia công thiết kế SP mộc 0 12 11 0 0 23
16 Sửa chữa động cơ điện 0 45 0 0 0 45
17 Quản trị cơ sở dữ liệu 0 0 0 0 0 0
20 Sửa chữa lắp máy tính 0 0 14 20 100 134
III Sơ cấp nghề và DNTX 11,550 16,610 12,924 11,831 12,692 65,607
7 Trồng trọt, chăn nuôi thú y, nuôi trồng thủy sản 2,167 388 502 1,047 420 4,524
8 Mây tre đan xuất khẩu, tăm tre chổi đót, thêu tranh… 84 119 37 55 27 322
9 Nghiệp vụ truyền thanh cơ sở 20 0 0 0 0 20
10 Sửa chữa máy may, máy nổ 46 190 549 1,100 815 2,700
13 Nghiệp vụ KD xăng dầu 11 86 0 17 0 114
Việc đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy học tại các cơ sở dạy nghề đang được chú trọng, với sự chỉ đạo từ Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội nhằm đào tạo trình độ cao đẳng và trung cấp nghề Các chương trình đào tạo đã được xây dựng và phê duyệt phù hợp với thực tế, đồng thời điều chỉnh phần chương trình tự chọn Đặc biệt, các cơ sở dạy nghề đã đổi mới chương trình theo hướng đáp ứng nhu cầu thị trường lao động, chú trọng giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp và phát huy tính sáng tạo, chủ động của người học Một số cơ sở còn hợp tác với doanh nghiệp để thiết kế chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu thực tế của thị trường.
Tỉnh đã chú trọng đến việc phát triển thị trường lao động bên cạnh đào tạo nghề và giới thiệu việc làm Để đáp ứng nhu cầu thông tin về lao động, tỉnh đã tiến hành rà soát và đánh giá nguồn nhân lực cũng như nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp Từ năm 2011, tỉnh đã tổ chức 96 phiên giao dịch việc làm với sự tham gia của hơn 1.000 doanh nghiệp, thu hút gần 20.000 lượt người đăng ký tư vấn và giới thiệu việc làm thông qua sàn giao dịch.
Kết quả quản lý công tác hỗ trợ thanh niên nông thôn phát triển kinh tế cho thấy nhiều chính sách và chương trình, đặc biệt là hỗ trợ vay vốn Hàng năm, ngân sách Trung ương bổ sung nguồn vốn cho Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm của tỉnh, với chương trình vay vốn đã tài trợ cho 5.547 dự án, tổng số tiền vay lên đến 104 tỷ đồng, tạo việc làm cho 6.611 lao động, chiếm 4,84% tổng số lao động được giải quyết việc làm tại tỉnh Ngoài ra, Nghị quyết số 16/2008/NQ-HĐND ngày 08/7/2008 của HĐND tỉnh cũng đã thành lập Quỹ hỗ trợ ổn định đời sống, học tập, đào tạo nghề và việc làm cho người dân khi Nhà nước thu hồi từ 50% đất sản xuất nông nghiệp trở lên, trong giai đoạn 2011.
Từ năm 2013, tỉnh đã hỗ trợ 10.501 thanh niên nông thôn (TNNT) thuộc hộ gia đình bị thu hồi từ 50% đất nông nghiệp trở lên với tổng kinh phí 7.343 tỷ đồng Sự hỗ trợ này giúp các hộ gia đình giảm bớt chi phí học tập, học nghề và tạo việc làm, góp phần ổn định đời sống Việc quản lý và sử dụng vốn vay hiệu quả đã nâng cao nhận thức của TNNT về việc làm, khuyến khích họ phát triển sản xuất và tự tạo việc làm, đồng thời tạo ra cơ hội việc làm mới cho lao động xã hội Điều này đã tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở khu vực nông thôn.
Quỹ quốc gia giải quyết việc làm tại tỉnh được triển khai qua hai kênh: một là do UBND tỉnh giao cho Sở Lao động Thương binh & Xã hội quản lý, và hai là nguồn vốn từ các đoàn thể Trung ương ủy quyền cho đoàn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh quản lý và điều tiết cho vay Tất cả nguồn vốn này được quản lý thông qua tổ tiết kiệm và vay vốn ở thôn, dưới sự giám sát của Ngân hàng Chính sách xã hội.
Bảng 2.2: Thanh niên nông thôn vay vốn giải quyết việc làm giai đoạn 2011 - 2015 Đơn vị tính: triệu đồng, người
Số vốn vay (triệu đồng) 18.229 20.710 20.230 20.648 24.900
Số lao độngđược giải quyết việc làm(người) 1.431 1.341 1.219 1.147 1.370
Số TNNT giải quyết việc làm(người) 820 651 604 497 390
Các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội đã tích cực hỗ trợ thanh niên tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi, với tổng dư nợ gần 200 tỷ đồng từ Ngân hàng Chính sách xã hội, giúp 7.660 hộ gia đình thanh niên nông thôn phát triển sản xuất, kinh doanh Ngoài ra, đã tổ chức hội nghị chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho 12.800 thanh niên nông thôn và tập huấn khởi sự doanh nghiệp cho gần 1.000 thanh niên Nhờ những hoạt động này, nhiều mô hình kinh tế, hợp tác xã và trang trại trẻ do thanh niên nông thôn quản lý đã ra đời, hiện tỉnh có 636 hợp tác xã thanh niên và 521 trang trại trẻ với gần 4.000 thanh niên tham gia.
- Kết quả quản lý công tác hỗ trợ hoạt động xuất khẩu lao động
UBND tỉnh Bắc Giang đã đánh giá kết quả thực hiện Đề án số 34/ĐA-UBND về xuất khẩu lao động giai đoạn 2007 - 2010 và tiếp tục chỉ đạo việc hỗ trợ xuất khẩu lao động thông qua Quyết định 1248/QĐ-UBND ban hành Chương trình giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động giai đoạn 2013 - 2020 Chính quyền tỉnh đã khuyến khích doanh nghiệp và người dân tham gia xuất khẩu lao động, thu hút sự quan tâm của cộng đồng Các đoàn thể chính trị - xã hội đã tích cực vận động, giúp hội viên vay vốn để tham gia UBND tỉnh đã chỉ đạo các huyện, thành phố phối hợp với doanh nghiệp trong công tác thông tin tuyên truyền, tuyển chọn và giáo dục định hướng cho thanh niên nông thôn có nhu cầu xuất khẩu lao động Các địa phương có nhiều thanh niên đi làm việc ở nước ngoài cũng đã chủ động hợp tác với đơn vị tuyển dụng để vận động tham gia Tỉnh đã hỗ trợ 300 lao động thanh niên nông thôn đi làm việc ở nước ngoài với tổng số tiền 500 triệu đồng.
Tiếp tục chủ trương phát triển thị trường lao động ngoài nước, từ năm
Từ năm 2011 đến nay, tỉnh đã thu hút hơn 150 doanh nghiệp xuất khẩu lao động để tuyển dụng lao động Dựa trên các đơn hàng của doanh nghiệp và thông báo về chương trình hợp tác xuất khẩu lao động tại Nhật Bản, Hàn Quốc từ Trung tâm lao động ngoài nước thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, tỉnh đã chỉ đạo các cấp, ngành thường xuyên cung cấp thông tin về điều kiện, tiêu chuẩn và quyền lợi khi đi xuất khẩu lao động qua các phương tiện truyền thông và đoàn thể chính trị - xã hội, giúp người lao động có sự lựa chọn và tham gia phù hợp.
Nhờ những nỗ lực trong công tác xuất khẩu lao động, tỉnh đã ghi nhận sự phát triển đáng kể với 25.703 lao động làm việc có thời hạn ở nước ngoài, trong đó tỷ lệ lao động thuộc diện thanh niên nông thôn đạt 77,68% Hàng năm, lượng kiều hối về tỉnh ước tính trên 500 tỷ đồng, góp phần giúp nhiều hộ gia đình thoát nghèo và không ít gia đình đã trở nên khá giả.
Bảng 2.3: Thanh niên nông thôn tham gia xuất khẩu lao động giai đoạn 2010 - 2015 Đơn vị tính: người, %
Số người đi xuất khẩu lao động
Số TNNT đi xuất khẩu lao động
Tỷ lệ TNNT xuất khẩu lao động/ tổng số (%)