Tình hình đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp việt nam giai đoạn 2015 2020 Tình hình đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp việt nam giai đoạn 2015 2020 Tình hình đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp việt nam giai đoạn 2015 2020 Tình hình đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp việt nam giai đoạn 2015 2020 Tình hình đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp việt nam giai đoạn 2015 2020 Tình hình đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp việt nam giai đoạn 2015 2020 Tình hình đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp việt nam giai đoạn 2015 2020 Tình hình đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp việt nam giai đoạn 2015 2020 Tình hình đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp việt nam giai đoạn 2015 2020 Tình hình đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp việt nam giai đoạn 2015 2020 Tình hình đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp việt nam giai đoạn 2015 2020 Tình hình đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp việt nam giai đoạn 2015 2020
T Ổ NG QUAN V Ề HO ẠT ĐỘNG ĐTRNN CỦ A DN
Khái niệm
1.1 Khái niệm đầu tư Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó Nguồn lực có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ Các kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực. Đầu tư theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đêm lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Đầu tư là quá trình sử dụng tài chính, tài nguyên vật chất, lao động và trí tuệ để sản xuất và kinh doanh trong thời gian dài, với mục tiêu tạo ra lợi nhuận và mang lại lợi ích kinh tế xã hội.
1.2 Đầu tư ra nước ngoài ĐTRNN là việc nhà đầu tư chuyển vốn; hoặc thanh toán mua một phần hoặc toàn bộ cơ sở kinh doanh; hoặc xác lập quyền sở hữu để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh ngoài lãnh thổ VN, đồng thời trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó.
Tập đoàn Viettel đã đầu tư 1 triệu USD vào Campuchia, thực hiện chiến lược "hạ tầng đi trước, kinh doanh theo sau" để phát triển thị trường.
Viettel đã áp dụng thành công chiến lược "lấy nông thôn vây thành thị" tại nhiều thị trường quốc tế, bắt đầu với việc ra mắt dịch vụ di động Metfone tại Campuchia vào năm 2009 Chỉ sau 3 năm hoạt động, Metfone đã nhanh chóng mở rộng mạng lưới phủ sóng đến 25 tỉnh thành và đạt được sự tăng trưởng ấn tượng Chỉ sau 2 năm, Metfone đã vươn lên trở thành nhà cung cấp dịch vụ di động hàng đầu tại Campuchia.
Các hình thức ĐTRNN của DN
Các hình thức ĐTRNN ngày các phong phú, đa dạng Các DNVN có thể ĐTRNN thông qua 5 hình thức:
2.1 Thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của nước tiếp nhận đầu tư:
Tổ chức kinh tế bao gồm các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo Luật Doanh Nghiệp, như doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH và công ty hợp danh Ngoài ra, còn có hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã được thành lập theo Luật Hợp Tác Xã, cùng với các tổ chức kinh tế được thành lập theo Luật Đầu Tư.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài, điển hình là tập đoàn Hoàng Quân với khoản đầu tư 40 triệu USD thông qua Công ty TNHH Đầu tư Giáo dục Hoàng Quân - Mỹ Dự án nhà ở xã hội HQC Tacoma, nằm trên đường Tacoma Ave S, thành phố Tacoma, tiểu bang Washington, là dự án đầu tiên của Việt Nam được triển khai trên đất Mỹ, theo mô hình nhà ở cho thuê dài hạn.
2.2 Thực hiện theo hợp đồng BCC (Business Cooperation Contract) ở nước ngoài
Hợp đồng BCC cho phép nhà đầu tư Việt Nam ký kết hợp tác kinh doanh với nhà đầu tư nước ngoài mà không cần thành lập tổ chức kinh tế tại nước tiếp nhận Hình thức đầu tư này tích hợp nhiều tiềm năng và lợi thế từ các nhà đầu tư khác trong một dự án Khi nhà đầu tư gặp khó khăn như thiếu vốn, kinh nghiệm quản lý hoặc nguồn nhân lực, họ có thể kêu gọi thêm nhà đầu tư khác cùng tham gia dự án, chia sẻ lợi nhuận và rủi ro.
1 Báo tuổi trẻ: https://tuoitre.vn/dieu-it-biet-ve-khoan-dau-tu-1-trieu-usd-cua-viettel-o-campuchia-20190425145901397.htm
Đầu tư thông qua Hợp đồng BCC là lựa chọn tối ưu cho nhà đầu tư nước ngoài khi muốn thâm nhập vào thị trường mới, giúp họ tiếp cận thông tin nhanh chóng nhờ vào sự hiểu biết của các đối tác trong nước Bên cạnh đó, nhà đầu tư trong nước cũng nhận được sự hỗ trợ về vốn và công nghệ hiện đại từ đối tác, góp phần nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và phát triển dự án Phương thức đầu tư này đặc biệt phù hợp với các dự án ngắn hạn và yêu cầu tiến độ thực hiện nhanh chóng.
Việc không thành lập pháp nhân trong hình thức đầu tư BCC gây ra nhiều hạn chế, đặc biệt là trong việc thực hiện các hợp đồng và giao dịch bên lề Thiếu một đại diện chính thức khiến bên thứ ba cảm thấy không chắc chắn về tính hợp pháp của các giao dịch này Pháp luật Việt Nam hiện chưa quy định rõ ràng về trách nhiệm của các bên khi ký kết hợp đồng với bên thứ ba, điều này tạo ra sự bất an cho các nhà đầu tư Họ cũng phải thỏa thuận về việc sử dụng con dấu của một trong hai bên để ký kết hợp đồng, và nếu xảy ra tranh chấp về việc này, dự án đầu tư sẽ bị đình trệ cho đến khi có giải quyết.
2.3 Mua lại một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của tổ chức kinh tế ở nước ngoài Ở hình thức này nhà đầu tư có quyền tham gia quản lý và thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại nước ngoài
Hình thức góp vốncủa nhà đầu tư nước ngoài
• Mua cổ phần phát hành lần đầu hoặc cổ phần phát hành thêm của công ty cổ phần
• Góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh
• Góp vốn vào tổ chức kinh tế khác
Hình thức mua cổ phần, phần vốn gópcủa nhà đầu tư nước ngoài
• Mua cổ phần của công ty cổ phần từ công ty hoặc cổ đông
• Mua phần vốn góp của các thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn để trở thành thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn
• Mua phần vốn góp của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh để trở thành thành viên góp vốn của công ty hợp danh
Mua phần vốn góp của thành viên tổ chức kinh tế khác là một hình thức đầu tư phổ biến Một ví dụ điển hình là thương vụ Vinamilk mua lại toàn bộ nhà máy Driftwood tại Mỹ vào năm 2013 Sau 5 năm sở hữu, doanh thu của Vinamilk đã có sự tăng trưởng đáng kể.
3 Thời báo Tài chính: http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/kinh-doanh/2020-05-16/hieu-qua-tu-thuong-vu-m-a-cua- vinamilk-86839.aspx
Driftwood mang về cho Công ty cổ phần sữa VN (Vinamilk) 116,2 triệu USD trong năm
2.4 Mua, bán chứng khoán, giấy tờ có giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài
Hình thức đầu tư này cho phép nhà đầu tư dễ dàng rút vốn khi cần, với lợi nhuận dựa vào sự gia tăng giá trị cổ phiếu Tuy nhiên, nhà đầu tư không có quyền quản lý hay điều hành công ty.
2.5 Các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư
Nhà đầu tư Việt Nam có thể lựa chọn nhiều hình thức đầu tư khác nhau tùy thuộc vào quy định pháp luật của từng quốc gia và thị trường Một trong những hình thức được khuyến khích là đầu tư theo mô hình PPP (Đối tác công tư) tại Lào Đây là hình thức đầu tư dựa trên hợp đồng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án, nhằm thực hiện, quản lý và vận hành các dự án kết cấu hạ tầng cũng như cung cấp dịch vụ công.
TÌNH HÌNH ĐTRNN CỦA CÁC DNVN GIAI ĐOẠ N 2015-2020
Chính sách ĐTRNN của VN
Chính phủ Việt Nam đã thực hiện chính sách mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế bằng cách ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy và hỗ trợ hoạt động đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN) Cụ thể, vào ngày 29/09/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 83/2015/NĐ-CP để thay thế Nghị định số 78/2006/NĐ-CP, quy định rõ ràng về ĐTRNN.
Vào ngày 9/8/2006, Chính phủ ban hành CP, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong nước mở rộng đầu tư và kinh doanh ở nước ngoài.
Nghị định số 83/2015/NĐ-CP quy định các điều kiện cần thiết để quyết định đầu tư, cũng như thẩm quyền và quy trình thực hiện đối với các dự án đầu tư xây dựng nhà nước sử dụng vốn nhà nước Điều này được thực hiện theo Luật Quản lý sử dụng vốn nhà nước trong đầu tư sản xuất và kinh doanh.
DN và các quy định của pháp luật có liên quan
Nghị định quy định rằng năm loại dự án đầu tư cần phải có tài liệu xác nhận địa điểm thực hiện, bao gồm: 1- Dự án năng lượng; 2- Dự án nuôi, trồng, đánh bắt và chế biến sản phẩm nông, lâm nghiệp, thủy hải sản; 3- Dự án khảo sát, thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản; 4- Dự án xây dựng cơ sở sản xuất, chế biến, chế tạo; 5- Dự án xây dựng và kinh doanh bất động sản, cơ sở hạ tầng.
Sau khi nhận Giấy chứng nhận đăng ký ĐTRNN, nhà đầu tư cần gửi báo cáo bằng văn bản về hoạt động dự án theo quy định của Luật Đầu tư Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan để theo dõi và hỗ trợ nhà đầu tư tuân thủ pháp luật địa phương, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ, và thông qua ngoại giao, đề xuất chính quyền sở tại tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện dự án đầu tư.
Sự thay đổi quan trọng trong quy trình cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư nước ngoài (ĐTRNN) là việc loại bỏ thủ tục thẩm tra đối với các dự án không thuộc lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát thanh, truyền hình, viễn thông có vốn đầu tư dưới 800 tỷ đồng Các dự án này chỉ cần nộp hồ sơ đăng ký ĐTRNN tới cơ quan quản lý mà không cần trải qua quá trình thẩm tra như trước Quy định mới này được đánh giá là thông thoáng, đơn giản và minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhà đầu tư trong việc đăng ký ĐTRNN.
Trước đây, các dự án ĐTRNN yêu cầu vốn đầu tư trên 15 tỷ đồng phải thực hiện thủ tục thẩm tra Tuy nhiên, quy định về điều kiện, hồ sơ và quy trình cấp Giấy chứng nhận ĐTRNN còn thiếu hướng dẫn chi tiết, khiến nhà đầu tư gặp khó khăn trong việc lập hồ sơ Điều này dẫn đến việc mất nhiều thời gian cho việc giải trình và bổ sung, kéo dài quy trình xem xét và cấp Giấy chứng nhận ĐTRNN.
Theo Nghị định mới về ĐTRNN, các dự án trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát thanh, truyền hình và viễn thông có vốn đầu tư dưới 400 tỷ đồng sẽ được miễn thủ tục thẩm tra.
Nghị định số 83/2015/NĐ-CP không chỉ xây dựng khung pháp lý rõ ràng và minh bạch để khuyến khích đầu tư của doanh nghiệp, mà còn tăng cường giám sát chặt chẽ các hoạt động đầu tư, đặc biệt đối với các dự án đầu tư nước ngoài sử dụng vốn Nhà nước hoặc các dự án lớn có sử dụng nhiều ngoại tệ.
Thứ hai, ngày 17/10/2018 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư số
Thông tư 03/2018/TT-BKHĐT hướng dẫn thực hiện thủ tục ĐTRNN và ban hành mẫu văn bản liên quan, có hiệu lực từ ngày 01/12/2018, thay thế cho Thông tư trước đó.
Thông tư 03/2015/TT-BKHĐT, ban hành ngày 23/10/2015, đã cập nhật một số điểm mới so với Thông tư 09 Đầu tiên, mẫu đề nghị cấp/điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký ĐTRNN đã được đơn giản hóa, loại bỏ những nội dung giải trình không cần thiết và bổ sung thông tin về hình thức ĐTRNN để đảm bảo tuân thủ quy định của Luật Thứ hai, các mẫu báo cáo tình hình thực hiện dự án hàng quý và hàng năm đã được bổ sung hướng dẫn về thời hạn gửi, thời gian lấy số liệu và địa điểm gửi Thứ ba, mẫu báo cáo tình hình hoạt động của dự án tại nước ngoài hàng năm cũng được bổ sung theo quy định tại điểm c khoản điều 72 Luật Đầu tư 2014 Thứ tư, hướng dẫn cụ thể về việc nộp tài liệu cam kết thu xếp ngoại tệ đã được đưa ra Cuối cùng, một số mẫu văn bản khác đã được điều chỉnh từ ngữ để rõ ràng hơn, giảm thiểu sự hiểu lầm.
Việc thay đổi và bổ sung các mẫu văn bản báo cáo là cần thiết để chuẩn hóa thủ tục pháp lý cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN) Điều này không chỉ tạo ra một môi trường thông thoáng cho các dự án mà còn giúp cơ quan quản lý nhà nước nâng cao hiệu lực quản lý đối với các dự án ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Tình hình ĐTRNN của các DNVN giai đoạn 2015 -2020
2.1 Tổng số vốn đầu tư cho các dự án ĐTRNN và số dự án đăng kí mới 2015-2020
Theo dữ liệu từ Tổng cục Thống kê, tổng vốn đầu tư cho các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTRNN) trong năm và vốn tăng thêm từ các dự án trước đây (đơn vị: triệu USD) cùng với số lượng dự án ĐTRNN đăng ký mới qua các năm đã được ghi nhận.
Trong giai đoạn 2015-2020, tổng số vốn và số dự án đăng ký ra nước ngoài của các doanh nghiệp đã có sự biến đổi rõ rệt qua từng năm Sự biến đổi này phản ánh tình hình kinh tế trong nước và quốc tế, cùng với những thay đổi trong chính sách pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN).
VN và các nước khác
Giai đoạn 2015-2016, tổng số vốn đăng ký mới cho các dự án đầu tư nước ngoài (ĐTRNN) và vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước đã tăng mạnh Cụ thể, năm 2015 ghi nhận 118 dự án với tổng vốn đăng ký là 774,8 triệu USD, trong khi năm 2016, số vốn này đã đạt 970,7 triệu USD, tăng 195,9 triệu USD, tương đương 25,3% so với năm trước, cùng với số lượng dự án tăng lên 139.
4 Tổng cục Thống kê, https://www.gso.gov.vn/px-web-2/?pxid=V0418&theme=%C4%90%E1%BA%A7u%20t%C6%B0
Biểu đồ 1: Tổng vốn ĐTRNN và số dự án ĐTRNN đăng kí mới 2015-2020
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Tổng vốn đầu tư cho các dự án ĐTRNN và số dự án ĐTRNN đăng kí mới qua các năm
Tổng số vốn đăng kí và vốn thêm (đơn vị: triệu USD)
Số dự án đăng kí mới án (tăng thêm 21 dự án) Nguyên nhân của mức trăng trưởng đột phá như vậy trong năm
Năm 2016, nhiều nghị định và thông tư đã được ban hành nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTRNN) Đặc biệt, Nghị định số 83/2015/NĐ-CP của Chính phủ đã cung cấp hướng dẫn về chuyển vốn ĐTRNN, xác định địa điểm thực hiện dự án và thực hiện chế độ báo cáo, góp phần thúc đẩy quy trình đầu tư.
Nghị định số 135/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài hay
Thông tư số 09/2015/BKHĐT-TT được Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành nhằm cung cấp mẫu văn bản cho thủ tục ĐTRNN Ngoài ra, còn có các thông tư hỗ trợ từ Ngân hàng Nhà nước để hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện.
Theo Thông tư số 12/2016/TT-NHNN, việc quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN) đã được hướng dẫn cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong nước mở rộng đầu tư và kinh doanh ở nước ngoài Nhờ đó, năm 2016 đã ghi nhận sự gia tăng nhanh chóng cả về vốn lẫn số lượng dự án ĐTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam.
Năm 2017, nguồn vốn đầu tư cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTRNN) giảm mạnh, chỉ còn 350 triệu USD, giảm 620,6 triệu USD (khoảng 64%) so với năm 2016 Tổng vốn đăng ký ĐTRNN đạt 268,5 triệu USD, giảm 84% so với năm trước Số lượng dự án đăng ký mới cũng giảm nhẹ, chỉ còn 30 dự án, giảm 9 dự án so với năm 2016 Thay vì tập trung vào các dự án lớn ở nước ngoài, DNVN bắt đầu chuyển hướng đầu tư vào các dự án quy mô trung bình hoặc nhỏ, thường từ vài chục ngàn đến vài triệu USD Đồng thời, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) giảm dần, trong khi đầu tư từ DN phi nhà nước, cá nhân và DN tăng lên.
FDI đã có xu hướng tăng, nhưng các doanh nghiệp và cá nhân chỉ đầu tư vào lĩnh vực thương mại và dịch vụ phù hợp với khả năng vốn, năng lực quản lý và kinh nghiệm đầu tư quốc tế của họ Tuy nhiên, năm 2017 chứng kiến sự giảm mạnh về quy mô vốn đầu tư, một phần do các thảm họa thiên nhiên nghiêm trọng trên toàn cầu như núi lửa Indonesia, cháy rừng California, động đất Trung Quốc, và lũ lụt Peru Những sự kiện này đã khiến các doanh nghiệp hạn chế thực hiện dự án mới và ngừng đầu tư vào các quốc gia bị ảnh hưởng.
Giai đoạn 2017-2020, tổng vốn đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN) có xu hướng tăng nhẹ hàng năm, chủ yếu do các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong lĩnh vực dầu khí, khoáng sản, thủy điện và nông nghiệp không tham gia hoạt động này Các dự án ĐTRNN chủ yếu có quy mô vốn trung bình và nhỏ, tập trung vào lĩnh vực thương mại và dịch vụ, phù hợp với khả năng tài chính và kinh nghiệm của doanh nghiệp Việt Nam Tuy nhiên, số lượng dự án lại biến động mạnh, thiếu sự ổn định trong giai đoạn này.
Năm 2019, số lượng dự án đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam tăng từ 130 lên 172 dự án, tương ứng với mức tăng 32% so với năm 2017 Sự gia tăng này chủ yếu nhờ vào Thông tư số 03/2018/TT-BKHĐT được Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành, giúp chuẩn hóa thủ tục pháp lý cho hoạt động ĐTNN và tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng hơn Đồng thời, các thay đổi trong chính sách tiếp nhận ĐTNN của nhiều quốc gia cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam Chính phủ các nước đều có các chính sách khuyến khích và tạo thuận lợi cho việc đăng ký thành lập dự án ĐTNN.
Mối quan hệ kinh tế và chính trị đặc biệt giữa Việt Nam và một số nền kinh tế như Lào, LB Nga, và Campuchia đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ Chính phủ hai bên trong hợp tác đầu tư Tuy nhiên, đến năm 2020, số lượng dự án đầu tư đã giảm mạnh, chỉ còn 119 dự án, cho thấy sự sụt giảm đáng kể trong hoạt động đầu tư giữa các doanh nghiệp.
Năm 2020, số lượng dự án giảm xuống còn 53, giảm khoảng 31% so với năm 2019 Nguyên nhân chủ yếu là do tác động nghiêm trọng của đại dịch COVID-19 toàn cầu, dẫn đến sự đình trệ trong mọi hoạt động sản xuất kinh tế của các quốc gia.
DN đang hạn chế các hoạt động đầu tư mới nhằm giảm thiểu rủi ro, tập trung chủ yếu vào việc duy trì và phát triển các dự án cũ Điều này đã ảnh hưởng đến khả năng mở rộng và đổi mới trong năm qua.
Năm 2020, mặc dù số lượng dự án đầu tư giảm, nhưng tổng vốn đầu tư cho Đầu tư Trực tiếp Nước Ngoài (ĐTRNN) lại tăng Cụ thể, tổng vốn đăng ký cấp giấy chứng nhận đầu tư mới đạt gần 318 triệu USD, tương đương 78,9% so với năm trước.
2019 và 33 lượt dự án điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm 272 triệu USD, tăng gần 2,6 lầnso với năm 2019.
2.2 Tình hình ĐTRNN của DN phân theo ngành, lĩnh vực kinh tế
Theo dữ liệu từ Tổng cục Thống kê, tính đến ngày 31/12/2019, ĐTRNN đã được cấp giấy phép phân theo các ngành kinh tế, với tổng số dự án còn hiệu lực được ghi nhận.
Tổng vốn đầu tư (Triệu USD) Số dự án
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 3.167,5 118
Bảng 1: ĐTRNN được cấp giấy phép phân theo ngành kinh tế (Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày
31/12/2019 - Nguồn: Tổng cục Thống kê
ĐTRNN của một số DN tiêu biểu
Trong những năm gần đây, dòng vốn đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN) của các doanh nghiệp Việt Nam (DNVN) đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ, với các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chiếm ưu thế trong danh sách những doanh nghiệp có vốn chuyển ra nước ngoài lớn nhất.
3.1 Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội (Viettel)
Năm 2019, Viettel đã đầu tư 188,4 triệu USD vào các dự án quốc tế, trong đó dự án lớn nhất tại Myanmar đạt 161,6 triệu USD Tổng cộng, Viettel đã thực hiện 10 dự án viễn thông tại Campuchia, Lào, Mozambique, Đông Timor, Cameroon, Burundi, Tanzania, Haiti, Myanmar, và Peru, cùng với 3 dự án nghiên cứu phát triển tại Pháp, Mỹ, và Nga, với tổng vốn đầu tư lên tới 1,8 tỷ USD Đến nay, lợi nhuận và vốn đầu tư chuyển về nước lũy kế đạt 803,2 triệu USD, trong đó năm 2019 đóng góp 113,3 triệu USD Đặc biệt, các dự án tại Lào và Campuchia đã mang lại hiệu quả cao nhất với lợi nhuận lũy kế lần lượt là 168,3 triệu USD và 265,1 triệu USD Tại những thị trường này, thương hiệu Viettel đã trở thành một trong những mạng di động lớn nhất, chiếm hơn 50% thị phần Các dự án viễn thông của Viettel tại châu Phi cũng đang hoạt động hiệu quả.
10 Thời báo Ngân hàng, https://thoibaonganhang.vn/se-don-dau-cac-xu-huong-moi-106722.html
I don't know!
Viettel đã bắt đầu chuyển dòng tiền về nước từ các hoạt động đầu tư ra nước ngoài, tuy nhiên, tình hình chính trị không ổn định tại một số quốc gia châu Phi, như Cameroon và Tanzania, đã ảnh hưởng đến hoạt động của công ty tại đây.
3.2 Tập đoàn Dầu khí VN (PVN)
Năm 2019, PVN đã đầu tư 38,9 triệu USD tại Malaysia và 33,2 triệu USD tại Angeri, giữ vị trí dẫn đầu với 27 dự án nước ngoài, tổng vốn đăng ký 7,1 tỉ USD, chủ yếu trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí Tuy nhiên, trong số 27 dự án, chỉ có 11 dự án triển khai đúng tiến độ, 6 dự án chậm tiến độ, 13 dự án gặp khó khăn, và 7 dự án không khả thi Tổng vốn PVN chuyển ra nước ngoài để thực hiện các dự án này đạt khoảng 3,12 tỉ USD, chủ yếu trong giai đoạn 2008 - 2013, với lợi nhuận và tiền chuyển về nước lũy kế đến 2019 là 2 tỉ USD.
3.3 Tập đoàn Cao su VN (VRG)
Hiện tại, có 23 dự án trồng cao su đang được đầu tư tại Lào và Campuchia, với tổng vốn đăng ký đạt khoảng 1,31 tỷ USD Trong số đó, 8 dự án đã được triển khai, bao gồm 5 nhà máy chế biến cao su tại Campuchia và 3 nhà máy tại Lào Tuy nhiên, do giá mủ cao su giảm, các dự án hiện đang trong giai đoạn cân đối thu chi hàng năm và chưa mang lại lợi nhuận đáng kể Tính đến nay, lợi nhuận lũy kế về nước chỉ đạt 4,357 triệu USD, trong khi lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư là 0,51 triệu USD.
3.4 Tổng công ty Hàng không VN (Vietnam Airlines -VNA)
Hãng hàng không Cambodia Angkor Air (CCA) được thành lập với sự góp vốn 49% từ VNA, tổng vốn đầu tư nước ngoài là 49 triệu USD Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh của CCA không đạt hiệu quả như mong đợi Sau hơn 10 năm đầu tư, VNA đã lên kế hoạch thoái vốn tại CCA, nhưng quá trình này vẫn chưa hoàn tất Trong giai đoạn đầu, CCA ghi nhận doanh thu vượt 676 triệu USD, với ba năm (2009 - 2012) có lãi sau thuế gần 50 triệu USD.
1 triệu USD Nhưng từ năm 2013 đến nay hãng thua lỗ Ủy ban Quản lí vốn cho biết đã báo cáo Thủ tướng việc thoái vốn tại dự án này.
ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG ĐTRNN CỦ A DNVN
Những kết quả đạt được
Sau hơn 30 năm phát triển, dù gặp nhiều khó khăn, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn nỗ lực khẳng định năng lực và xây dựng hình ảnh tích cực cho cộng đồng Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp ngày càng đa dạng về thị trường, ngành nghề và hình thức đầu tư, với sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp trong 5 năm qua.
13 Diễn đàn pháp luật, https://diendanphapluat.enternews.vn/cac-tap-doan-nha-nuoc-dau-tu-ra-nuoc-ngoai-lai-lo-ra-sao- n7343.html?fbclid=IwAR0QCPTSmFXCFYckvrUbHauH8ylGWu3TYIK9L9RleJcYEfvfvXMwZDhNZa4
Năm 2020, hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể, thể hiện sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường quốc tế.
Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVN) tăng doanh thu và lợi nhuận, đồng thời thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng và bền vững của các tập đoàn lớn.
Trong bối cảnh hiện tại, việc mở rộng thị trường là rất cần thiết cho các doanh nghiệp Việt Nam Chuyển dòng vốn ra khỏi lãnh thổ quốc gia mang lại cơ hội cho doanh nghiệp tấn công vào các thị trường mới với quy mô lớn và tiềm năng cao hơn, từ đó gia tăng doanh thu Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã thành công trong việc này.
Báo cáo của Bộ Kế hoạch & Đầu tư về tình hình đầu tư nước ngoài năm 2019 cho thấy, có 19 doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện dự án đầu tư tại nước ngoài, với tổng doanh thu đạt 7,18 tỷ USD Trong đó, lĩnh vực dầu khí chiếm ưu thế với 1,38 tỷ USD, kinh doanh xăng dầu đạt 3,5 tỷ USD, viễn thông 1,7 tỷ USD, và trồng chế biến cao su đạt 131 triệu USD Lợi nhuận và tiền chuyển về nước trong năm đạt 313,5 triệu USD, với các dự án khai thác dầu khí tại Nga của PVN dẫn đầu với hơn 170 triệu USD, tiếp theo là dự án viễn thông của Viettel tại Campuchia với 22,1 triệu USD và dự án của Petrolimex tại Singapore gần 10 triệu USD.
Đến cuối năm 2019, tổng vốn đăng ký đầu tư nước ngoài đạt gần 21 tỉ USD, trong đó lợi nhuận chuyển về nước của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài khoảng 3 tỷ USD và 363 triệu USD được giữ lại để tái đầu tư Các dự án ở nước ngoài chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực dầu khí, kinh doanh xăng dầu, viễn thông, cũng như trồng và chế biến cao su.
Ngoài việc chuyển vốn về nước, các doanh nghiệp Việt Nam còn xây dựng một khối tài sản lớn, bao gồm nhà máy và cơ sở sản xuất có giá trị hàng tỷ USD ở nước ngoài.
Thứ hai, hoạt động ĐTRNN giúp các DNVN mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
Việc mở rộng đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN) đã giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh mới Chẳng hạn, sau 15 năm ĐTRNN, Viettel đã đạt được hơn 35 triệu thuê bao tại 11 thị trường quốc tế, trải dài trên 3 châu lục Á, Phi và Mỹ, và trở thành một trong ba mươi doanh nghiệp viễn thông có lượng khách hàng lớn nhất thế giới.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (ĐTRNN) giúp doanh nghiệp Việt Nam vượt qua các rào cản bảo hộ thương mại, tiếp cận nhanh chóng thị trường tiềm năng và mở rộng tiêu thụ sản phẩm Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, các rào cản thương mại ngày càng phức tạp, bao gồm rào cản kỹ thuật và môi trường, khiến việc xuất khẩu hàng hóa trở nên khó khăn hơn ĐTRNN không chỉ giúp doanh nghiệp vượt qua những rào cản này mà còn mang lại điều kiện ưu đãi trong sản xuất kinh doanh tại quốc gia nhận đầu tư Ví dụ, Tổng công ty Lương thực miền Nam và Công ty Lương thực VN đã đầu tư tại Campuchia để trồng lúa và xây dựng nhà máy chế biến, từ đó xuất khẩu gạo sang EU với chính sách miễn thuế nhập khẩu cho nông sản từ Campuchia, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận thị trường khó tính này.
Thứ tư,một số DN Việt khi ĐTRNN đã tận dụng khả năng sản xuất của nước ngoài
Vinamilk đã tận dụng sự khác biệt về điều kiện vĩ mô như kinh tế, công nghệ và nguồn cung lao động để cải thiện năng suất, giảm chi phí sản xuất và tối đa hóa lợi nhuận Việc đầu tư vào nhà máy Miraka tại New Zealand vào năm 2010 cho phép Vinamilk khai thác nguồn nguyên liệu sữa tươi dồi dào và chất lượng cao từ ngành công nghiệp sữa phát triển mạnh mẽ ở đây Khí hậu ôn đới mát mẻ và thổ nhưỡng thích hợp đã giúp công ty ổn định nguồn nguyên liệu đầu vào trước biến động giá thế giới Nhà máy Miraka chuyên sản xuất bột sữa nguyên kem chất lượng cao với công suất 8 tấn/giờ, tương đương 32.000 tấn/năm, và có khả năng chế biến 210 triệu lít sữa nguyên liệu hàng năm.
Vinamilk đã hợp tác với Công ty Miraka tại New Zealand để thu mua sữa tươi từ nông trại ở Taupo, từ đó sản xuất sữa chất lượng cao Với quy mô 55.000 con bò, nhà máy được thiết kế để có khả năng mở rộng trong tương lai, đáp ứng nhu cầu thị trường toàn cầu.
Những hạn chế và nguyên nhân cơ bản
Mặc dù môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có tiềm năng lớn và đã đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng doanh nghiệp nước ngoài vẫn gặp phải không ít hạn chế khi tham gia đầu tư.
Một là, nhiều dự án đầu tư ĐTRNN của DNVN còn triển khai chậm, hiệu quả vốn đầu tư chưa cao hay thậm chí là thua lỗ
Vietnam Airlines đã xin chủ trương từ Thủ tướng để thoái vốn tại dự án Cambodia Angkor Air (CAA) với tổng vốn đầu tư 49 triệu USD Dù tổng doanh thu của CAA từ 2009 đến 2018 đạt hơn 676 triệu USD, nhưng từ năm 2013, dự án này đã không còn hiệu quả kinh doanh, liên tục thua lỗ và không đạt được kỳ vọng về hiệu quả đầu tư Tương tự, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đã chuyển khoảng 3,12 tỷ USD ra nước ngoài, nhưng lợi nhuận và tiền chuyển về nước vẫn chưa đạt yêu cầu.
2019 là gần 2 tỷ USDnhưng có hơn một nửa số dự án gặp khó khăn khi triển khai Cụ thể có
Trong tổng số 27 dự án ĐTRNN của PVN, có 6 dự án chậm tiến độ, 12 dự án gặp khó khăn và 7 dự án không có khả năng triển khai Theo báo cáo về hoạt động đầu tư và quản lý vốn nhà nước năm 2018, tổng số lỗ phát sinh từ các dự án là 367 triệu USD, tăng 265% so với năm 2017 Các dự án của Viettel chiếm tỷ trọng lớn nhất với lỗ 349 triệu USD, trong khi Tập đoàn Cao su VN ghi nhận lỗ 7,7 triệu USD.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam (DNVN) vẫn còn yếu so với các đối thủ quốc tế Chỉ một số ít doanh nghiệp như Viettel và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam có thể cạnh tranh hiệu quả, trong khi hầu hết các doanh nghiệp gặp khó khăn khi tham gia vào thị trường quốc tế, đặc biệt là trong đấu thầu và liên doanh với các đối tác nước ngoài Nguyên nhân chủ yếu là do tiềm năng của đa số doanh nghiệp còn khiêm tốn, với vốn đầu tư hạn chế, khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn, trình độ chuyên môn thấp, và thiếu kinh nghiệm hoạt động trong môi trường kinh doanh toàn cầu, cùng với việc chưa xây dựng được thương hiệu mạnh.
Số lượng và quy mô dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước (DNVN) còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển như Lào, Campuchia và Myanmar, cũng như những khu vực khó tiếp cận như Châu Phi và Nam Mỹ Mặc dù có một số dự án ở các thị trường lớn và phát triển, nhưng số lượng và quy mô vẫn không đáng kể.
2.2 Những nguyên nhân cơ bản
Các nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNVN) trong việc phát triển thị trường nước ngoài (ĐTRNN) không chỉ xuất phát từ bản thân doanh nghiệp mà còn chịu ảnh hưởng từ chính sách và pháp luật của Việt Nam, cũng như rủi ro liên quan đến sự biến động tỷ giá.
DNVN hiện đang gặp nhiều điểm yếu, bao gồm hạn chế về nguồn vốn, khả năng dự báo thị trường, năng lực quản lý và kinh nghiệm trong đầu tư ra nước ngoài Những yếu tố này làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với các đối thủ từ các quốc gia khác như Thái Lan và Trung Quốc, dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp và tiến độ triển khai dự án chậm.
14 Vietnam.net, https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/dau-tu/dau-tu-ra-nuoc-ngoai-lai-it-lo-mat-von-nhieu-658106.html
Năng lực tài chính yếu kém là một trong những nguyên nhân chính khiến nhiều dự án đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN) không thể duy trì lâu dài Chi phí đầu tư cao, bao gồm lương nhân viên và các khoản chi phí phát sinh như thuê luật sư và báo cáo kiểm toán, tạo ra áp lực lớn cho doanh nghiệp Thời gian thu hồi vốn có thể kéo dài từ 5-10 năm, và nếu không có nền tảng tài chính vững chắc, doanh nghiệp dễ rơi vào tình trạng phải ngừng hoạt động Ngay cả khi có đủ vốn, nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp khó khăn do thiếu kinh nghiệm quản lý và không nắm rõ các quy định pháp luật, phong tục tập quán của nước sở tại Điều này dẫn đến việc một số dự án không đạt được hiệu quả kinh tế như mong đợi, chủ yếu do chưa tìm hiểu kỹ thị trường nơi đầu tư Doanh nghiệp Việt Nam vẫn giữ tư duy và cách nghĩ của người Việt, gây khó khăn trong việc thích ứng với môi trường đầu tư quốc tế.
Nhà đầu tư tại Việt Nam sẽ nhận được sự hỗ trợ từ Nhà nước trong việc thu hồi đất, trong khi tại Campuchia, chế độ sở hữu đất đai khác biệt sẽ tạo ra nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó, các DNVN cũng chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc liên kết
DN Việt Nam (DNVN) khi đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN) thường gặp khó khăn do thiếu văn hóa liên kết và hỗ trợ lẫn nhau, điều này trái ngược với các quốc gia khác Nhiều DNVN thực hiện hoạt động đầu tư một cách tự phát, dẫn đến phức tạp trong việc giải quyết tranh chấp Sự thiếu liên kết giữa các DNVN còn khiến họ cạnh tranh với nhau, làm giảm sức mạnh và tiếng nói tại thị trường tiếp nhận đầu tư, thậm chí gây khó khăn cho nước sở tại Tại Lào và Trung Quốc, DNVN cần có giấy giới thiệu từ các cơ quan quản lý nhà nước để thực hiện đầu tư.
Thứ hai, phía nhà nước, pháp luật VN:
Chính sách của nước ta còn hạn chế Hệ thống chính sách về thúc đẩy ĐTRNN của
Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện hệ thống quy định cho các nhà đầu tư, khi chỉ mới đưa ra yêu cầu tiếp nhận dự án mà chưa có nhiều chính sách ưu đãi rõ ràng cho họ.
Trong quản lý triển khai dự án và theo dõi hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam tại nước ngoài, thẩm quyền quản lý hiện chưa được xác định rõ Quy trình phê duyệt dự án gặp nhiều bất cập, với nhiều doanh nghiệp phản ánh về thời gian chờ đợi hoàn thành thủ tục và phê duyệt quá lâu Các doanh nghiệp muốn đầu tư phải tốn thời gian để hoàn thiện thủ tục xin giấy phép, trong khi đó, các doanh nghiệp ở địa phương cũng phải mất thời gian đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư để thực hiện các thủ tục cần thiết.
Hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài đang ngày càng gia tăng, với nhiều chính sách hỗ trợ từ chính phủ nhằm thúc đẩy sự phát triển này Việc xin phép văn bản cho phép hoặc thoả thuận với các bên nước ngoài là một yếu tố quan trọng trong quá trình đầu tư Để nâng cao hiệu quả, cần có những khuyến nghị cụ thể nhằm cải thiện môi trường đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư Việt Nam.
DN tiếp cận, hỗ trợ vốn vay còn chưa thông thoáng, dễ dàng cho DN.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công thương, và Bộ Ngoại giao là ba đơn vị chính cung cấp thông tin về thị trường nước ngoài cho nhà đầu tư, nhưng doanh nghiệp thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin này Việc thu thập thông tin về môi trường đầu tư nước ngoài chưa được coi trọng, đặc biệt là công tác xúc tiến đầu tư ra nước ngoài Môi trường kinh doanh quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, tạo ra rào cản về vốn, chính sách và văn hóa xã hội, yêu cầu doanh nghiệp phải liên tục cập nhật thông tin và có đối sách hợp lý Tuy nhiên, khả năng tiếp cận thông tin và nghiên cứu thị trường còn hạn chế khiến doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn trong việc điều chỉnh chính sách cạnh tranh và hoạt động điều hành tại các thị trường đầu tư Hiện tại, chưa có cơ quan nào được giao nhiệm vụ thông tin về môi trường đầu tư và cơ hội đầu tư ở nước ngoài Một số nước đã thành lập cơ quan hỗ trợ xúc tiến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài như JETRO của Nhật Bản và KOTRA của Hàn Quốc, giúp doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội đầu tư Trong khi đó, tại Việt Nam, việc xúc tiến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vẫn chưa được chú trọng, chủ yếu tập trung vào thu hút đầu tư nước ngoài vào trong nước.