PHẦN MỞ ĐẦU Lịch sử Việt Nam hơn 70 năm qua với sự lựa chọn con đường giải phóng dân tộc đi vào quý đạo cách mạng vô sản, đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám, thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc nhằm giải phóng và thống nhất Tổ quốc Việt Nam, đặc biệt là thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước là thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam. Cách mạng Việt Nam, vừa thể hiện, vừa góp phần thúc đẩy trào lưu chính của thời đại ngày nay – thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Khúc quanh hiện nay của lịch sử cách mạng thế giới, dù có làm cho sự quá độ từ CNTB lên CNXH trên toàn thế giới bị kéo dài thêm, song không thể đảo ngược được xu thế ấy của thời đại. Con đường của thời đại, con đường mà nhân loại đi tới chính là con đường thắng lợi của hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nhận thức đúng và làm rõ nội dung, tính chất của thời đại ngày nay là cơ sở quan trọng để chúng ta hoạch định đúng đắn đường lối và sách lược của chúng ta và “ chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của một thời đại, chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này hoặc nước nọ” như Lênin đã từng khẳng định.
Tư tưởng của Mác - ăng ghen về thời kỳ quá độ lên CNXH trong tác phẩm “ Phê phán cương lĩnh GÔ - TA”
Tính tất yếu của TKQĐ lên CNXH
Thời kỳ cải tạo xã hội tư bản chủ nghĩa thành xã hội xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất yếu, khác với các hình thái kinh tế - xã hội khác, vì CNXH không hình thành từ lòng CNTB CNTB chỉ tạo ra các điều kiện vật chất cho việc chuyển đổi sang CNXH Công cuộc xây dựng xã hội XHCN bắt đầu sau khi giai cấp tư sản bị loại bỏ khỏi chính quyền và thiết lập chuyên chính vô sản Ngay cả sau khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản không thể ngay lập tức áp dụng CNXH Lênin nhấn mạnh rằng để đạt được mục tiêu này, cần một thời kỳ dài từ CNTB lên CNXH, vì cải cách sản xuất là một nhiệm vụ khó khăn và cần thời gian để thực hiện những thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực, đồng thời phải trải qua cuộc đấu tranh lâu dài để vượt qua thói quen quản lý của tiểu tư sản và tư sản Mác đã chỉ ra rằng thời kỳ chuyên chính vô sản là cần thiết trong quá trình này.
Trích (V I Lênin toàn tập, tiếng việt, tập 38, NXB Tiến bộ, NXB Tiến bộ Matxcơva, tr 464).
Do sự khác biệt giữa chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa (TBCN) và sở hữu xã hội chủ nghĩa (XHCN), quan hệ sản xuất XHCN không thể hình thành trong xã hội cũ Vì vậy, giai cấp công nhân cần tiến hành cách mạng chính trị để thiết lập Nhà nước XHCN Tuy nhiên, việc giành chính quyền chưa đủ để đạt được CNXH hoàn chỉnh Để xây dựng CNXH toàn diện về chính trị, kinh tế và văn hóa, giai cấp công nhân phải phát triển từ các tiền đề vật chất hiện có và sử dụng Nhà nước XHCN để cải tạo nền kinh tế cũ, tiến tới xây dựng xã hội mới XHCN.
Lênin nhấn mạnh tính tất yếu của thời kỳ quá độ, trong đó không thể thiếu những đặc điểm của hai hệ thống kinh tế - xã hội đối lập: Tư bản chủ nghĩa (TBCN) và Xã hội chủ nghĩa (XHCN) Ông cho rằng, thời kỳ này là cuộc đấu tranh giữa TBCN đang suy tàn và CNCS đang hình thành, tức là giữa một hệ thống đã bị đánh bại nhưng chưa hoàn toàn tiêu diệt, và một hệ thống còn non yếu nhưng đang phát triển.
Thời kỳ lịch sử này là giai đoạn cần thiết để Nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới, XHCN Trong bối cảnh này, đấu tranh giai cấp diễn ra mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, với các hình thức và phương pháp mới Cuộc đấu tranh kết hợp cải tạo và xây dựng, chính trị và kinh tế, hòa bình và bạo lực, giáo dục và hành chính, thuyết phục và cưỡng bách, nhằm thiết lập một tổ chức xã hội mới vượt trội hơn so với xã hội tư sản.
Theo Mác-Ăngghen, để nhận thức tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội (CNXH) và chủ nghĩa cộng sản (CNCS), cần chỉ rõ nguyên nhân của cách mạng Các ông khẳng định rằng, nếu không có khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản (CNTB), thì giai cấp cách mạng và quần chúng sẽ không sẵn sàng hành động chống lại CNTB Trong bối cảnh lực lượng sản xuất của xã hội tư sản phát triển mạnh mẽ, một cuộc cách mạng thực sự chỉ có thể xảy ra khi có sự mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất hiện đại và các hình thức sản xuất tư sản Cuộc cách mạng chỉ có thể diễn ra sau một cuộc khủng hoảng, và việc cách mạng sẽ dẫn đến những tất yếu không thể tránh khỏi giống như khủng hoảng xảy ra.
Trích (C Mác và Ph Angghen toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội
Mác và Ăng-ghen đã khẳng định tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội (CNXH) bằng cách nhấn mạnh sự cần thiết của cả điều kiện khách quan và sự trưởng thành của nhân tố chủ quan trong cách mạng vô sản Họ cảnh báo về những ảo tưởng chủ quan có thể dẫn đến thất bại và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì sự phát triển nhất quán của phong trào, đồng thời bảo vệ tính cách mạng triệt để trong các mục tiêu lý tưởng của CNXH.
Giá trị bền vững trong lý luận của Mác và Ăngghen về chủ nghĩa xã hội (CNXH) nằm ở tính khoa học và cách mạng của nó, khác biệt hoàn toàn với những mộng tưởng hay cải lương Để giai cấp vô sản và quần chúng lao động đạt được thành công, cần phải phá hủy thế giới cũ - chủ nghĩa tư bản (TBCN) và xây dựng thế giới mới - CNXH CNXH không chỉ là một tuyên bố cách mạng liên tục mà còn là chuyên chính giai cấp của giai cấp vô sản, coi đây là giai đoạn quá độ cần thiết để xóa bỏ sự khác biệt giai cấp, các quan hệ sản xuất và xã hội tương ứng, từ đó cải biến những tư tưởng phát sinh từ các quan hệ sản xuất đó.
Trích (C Mác và Ph Angghen toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội
Mác và Ăngghen đã mang đến cho CNXH những chứng cứ khoa học vững chắc, đánh dấu sự chuyển mình từ lý thuyết không tưởng sang CNXH khoa học Lý luận này không chỉ mở ra con đường giải phóng cho giai cấp vô sản mà còn cho toàn bộ nhân loại, dẫn dắt đến CNXH và CNCS như một tất yếu lịch sử Sự phủ định biện chứng đối với CNTB diễn ra thông qua cách mạng, trong một quá trình lịch sử kéo dài.
Phương thức sản xuất CSCN
Giai đoạn thấp
Giai đoạn này là giai đoạn chuyển tiếp từ chủ nghĩa tư bản sang xã hội cộng sản, chưa phát triển hoàn toàn trên cơ sở riêng của nó Theo Mác, xã hội cộng sản ở đây không phải là một hình thái đã hoàn thiện, mà là một xã hội vừa mới thoát ra từ xã hội tư bản Do đó, mọi khía cạnh kinh tế, đạo đức, trí tuệ và xã hội vẫn còn mang dấu vết của xã hội cũ, xã hội đã tạo ra nó.
Trích (C Mác và Ph Angghen trong tác phẩm “ Phê phán cương lĩnh Gô-Ta”, NXB ST, Hà Nội 1958, tr 31).
Giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản chưa đạt được sự công bằng và bình đẳng về của cải, vẫn còn tồn tại sự chênh lệch và bất công Tuy nhiên, tình trạng bóc lột giữa người với người đã được xóa bỏ, vì không ai có thể chiếm hữu tư liệu sản xuất, công xưởng, máy móc hay đất đai làm của riêng Điều này bác bỏ quan điểm mơ hồ và tiểu tư sản của Lat-Xan về bình đẳng và công bằng nói chung.
Mác đã chỉ ra rằng tiến trình phát triển của xã hội Cộng sản bắt đầu bằng việc xóa bỏ "điều bất công" trong sở hữu tư liệu sản xuất Tuy nhiên, việc này không thể giải quyết ngay lập tức sự bất công trong phân phối hàng hóa tiêu dùng, mà cần phải dựa trên lao động thay vì nhu cầu.
C Mác tính rất sát không những đến sự bất bình đẳng không thể trách được giữa người ta với nhau, mà còn tính cả đến điểm sau này là chỉ riêng bạn thân việc biến tư liệu sản xuất thành sở hữu chung của toan thể xã hội, ( CNXH theo nghĩa thông thường) thì cũng không xoá bỏ được những khuyết điểm của sự phân phối và sự bất bình đẳng của pháp quyền tư sản, pháp quyền này vẫn tiếp tục thống trị, vì sản phẩm được phân phối theo lao động Mác nói “… Nhưng những khuyết điểm ấy không thể nào tránh khỏi được trong giai đoạn đầu của XHCS , là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản mà ra, sau một thời kỳ sinh để lâu dài và đau lớn Quyền lợi không bao giờ có thể cao hơn trình độ văn minh của xã hội thích ứng với tình trạng của kinh tế ấy” …
Trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản, pháp quyền tư sản không hoàn toàn bị xoá bỏ mà chỉ bị hạn chế trong phạm vi liên quan đến tư liệu sản xuất Pháp quyền tư sản công nhận tư liệu sản xuất là sở hữu riêng của cá nhân, trong khi chủ nghĩa xã hội chuyển đổi tư liệu sản xuất thành tài sản chung Do đó, pháp quyền tư sản chỉ bị xoá bỏ trong phạm vi này.
Trong giai đoạn này, nguyên tắc phân phối theo lao động được nhấn mạnh, với Mác cho rằng sự phân phối phải dựa trên việc trao đổi ngang giá Ông chỉ ra rằng, do điều kiện khác nhau, không ai có thể cung cấp gì ngoài lao động của mình, và ngoài vật phẩm tiêu dùng cá nhân, không có gì khác có thể trở thành tài sản Nguyên tắc phân phối giữa những người sản xuất vẫn tuân theo quy tắc trao đổi hàng hoá ngang giá, với cùng một lượng lao động được trao đổi giữa các hình thức khác nhau.
Trích (C Mác và Ph Angghen trong tác phẩm “ Phê phán cương lĩnh Gô-Ta”, NXB ST, Hà Nội 1958, tr 32-33).
Giai đoạn cao của XHCS
C Mác nói: “ Trong giai đoạn cao của XHCS, khi mà cá nhân không còn phụ thuộc một cách nô lệ vào sự phân công nữa, và sự đối lập giữa lao động tri óc với lao động chân tay cũng theo đó mà không còn nữa, khi mà lao đông sẽ không phải chỉ là một phương tiện để sống nữa, mà tự nó sẽ biến thành nhu cầu bậc nhất cho đời sống, khi mà lực lượng sản xuất cũng đã tăng lên cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân và tất cả những nguồn tài phú công cộng đều tuôn ra dồi dào, thì chỉ khi đó người ta nói có thể hoàn toàn vượt khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Trích (C Mác và Ph Angghen trong tác phẩm “ Phê phán cương lĩnh Gô-Ta”, NXB ST, Hà Nội 1958, tr 34-35).
Sự khác biệt giữa giai đoạn đầu và giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản (CNCS) là rất lớn, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị Về mặt khoa học, sự phân biệt giữa chủ nghĩa xã hội (CNXH) và CNCS là rõ ràng; CNXH được coi là giai đoạn đầu của CNCS theo quan điểm của C Mác Khi tư liệu sản xuất trở thành sở hữu chung, thuật ngữ "CNCS" có thể được sử dụng, nhưng cần nhớ rằng đó chưa phải là CNCS hoàn toàn Giá trị lớn trong lý thuyết của Mác nằm ở việc ông áp dụng triệt để phép biện chứng duy vật và xem CNCS là sự phát triển từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) Mác không dựa vào những định nghĩa trừu tượng hay các cuộc tranh luận vô ích về thuật ngữ, mà tập trung phân tích các trình độ chín muồi về kinh tế của CNCS.
Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, nền kinh tế chưa hoàn toàn phát triển và vẫn còn ảnh hưởng từ các tập tục của chủ nghĩa tư bản Điều này dẫn đến việc duy trì "quan điểm chật hẹp của pháp quyền tư sản" trong chế độ cộng sản Đặc biệt, trong lĩnh vực phân phối hàng hóa tiêu dùng, pháp quyền tư bản yêu cầu phải có một nhà nước kiểu tư sản để đảm bảo việc tuân thủ các tiêu chuẩn quyền lợi, nếu không, quyền lợi sẽ trở nên vô nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội (CNXH) là giai đoạn đầu tiên của xã hội mới, phát sinh từ chủ nghĩa tư bản (CNTB), trong khi chủ nghĩa cộng sản (CNCS) là hình thức xã hội cao hơn, chỉ có thể phát triển sau khi CNXH được củng cố hoàn toàn CNXH yêu cầu lao động không phụ thuộc vào sự hỗ trợ của nhà nước tư bản, với sự giám sát chặt chẽ từ đội tiên phong tổ chức, đảm bảo rằng mọi người thực hiện nghĩa vụ xã hội mà không cần cơ quan cưỡng bức Sự quy định về mức độ lao động là cần thiết do những tàn tích và thói quen của xã hội tư bản như lao động riêng lẻ và thiếu niềm tin vào kinh tế tập thể vẫn còn tồn tại CNCS mà chúng ta đề cập đến là chế độ trong đó lao động không lấy thù lao vì lợi ích chung trở thành một hiện tượng phổ biến.
Trích (Lênin , toàn tập, tập 30, tr 356).
nhận thức và vận dụng tư tưởng về thời kỳ quá độ vào thực tiễn ở việt nam trong thời gian qua
Đại hội VI của Đảng và Hội nghị Trung ương 6 (khóa VI) đã mang lại những bước đột phá quan trọng cho nền kinh tế hàng hóa tại Việt Nam Tuy nhiên, vẫn còn nhiều yếu tố bất cập và chưa hoàn chỉnh cần được khắc phục Sau hơn bốn năm thực hiện vừa học vừa làm trong lĩnh vực kinh tế hàng hóa, tình hình kinh tế vẫn đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện.
1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH, Đảng tiếp tục bổ sung tư duy khoa học về kinh tế hàng hoá.
Hiện nay, nhiệm vụ phát triển kinh tế hàng hoá đã được làm rõ hơn, đó là “Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” Kinh tế hàng hoá tồn tại trên nhiều phương thức sản xuất khác nhau với vai trò khác nhau, và kinh tế hàng hoá mà chúng ta xây dựng là theo định hướng XHCN Điều này cho thấy tính phổ biến của kinh tế hàng hoá gắn liền với đặc thù của chế độ ta trong giai đoạn quá độ lên CNXH.
Kinh tế hàng hoá đóng vai trò trung tâm trong phương hướng xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ Trong các định hướng chính sách quan trọng hướng tới CNXH, việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN được ưu tiên hàng đầu, thể hiện tầm quan trọng và tính bao trùm của nó.
Nội dung kinh tế hàng hoá được trình bày một cách toàn diện, bao gồm cơ cấu ngành kinh tế, sở hữu và cơ cấu thành phần kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế, cũng như vai trò của khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo trong phát triển kinh tế Các quan điểm quan trọng được nêu ra như: “Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau”, “Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân”, và “thực hiện nhiều hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”.
Nội dung của cơ chế quản lý nền kinh tế hàng hóa đã được trình bày một cách rõ ràng và chi tiết hơn, không chỉ giới hạn ở hai yếu tố chính là kế hoạch và cơ chế thị trường Trong đó, vai trò của kế hoạch được nhấn mạnh, cho thấy tầm quan trọng của việc kết hợp giữa kế hoạch và thị trường trong quản lý kinh tế.
Vào thứ năm, một trong những nhiệm vụ quan trọng được đề ra là “xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng hoá tiêu dùng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn và sức lao động.” Đây là vấn đề đã được thảo luận lần đầu tại Hội nghị Trung ương 6, khoá VI.
Trong 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước theo hướng CNXH, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế hàng hoá và các chính sách liên quan Đại hội VIII của Đảng vào tháng 6/1996 đã khẳng định rằng đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, mặc dù vẫn còn một số vấn đề chưa ổn định Tại Đại hội VIII, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH đã được phát triển thêm nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Sở hữu toàn dân và tập thể sẽ được bổ sung và triển khai mạnh mẽ thông qua quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, bắt đầu từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII vào tháng 1 năm 1994 Doanh nghiệp nhà nước sẽ không chỉ có 100% vốn nhà nước mà còn có nhiều doanh nghiệp nắm giữ tỷ lệ cổ phần chi phối Hợp tác xã sẽ được tổ chức dựa trên việc đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động của xã viên, với việc phân phối lợi nhuận theo kết quả lao động và tỷ lệ cổ phần.
Phân phối được thực hiện qua nhiều hình thức, chủ yếu dựa vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế Đồng thời, việc phân phối cũng xem xét mức đóng góp của các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh, thông qua các chương trình phúc lợi xã hội.
Tăng trưởng kinh tế cần gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng giai đoạn phát triển Công bằng xã hội không chỉ thể hiện ở việc phân phối hợp lý tư liệu sản xuất mà còn ở việc phân phối kết quả sản xuất Đại hội nhấn mạnh rằng để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, đồng thời nhận thức rằng vẫn tồn tại tình trạng bóc lột và phân hóa giàu nghèo trong xã hội Do đó, cần bảo vệ lợi ích của người lao động, khuyến khích làm giàu hợp pháp và chú trọng vào công tác xóa đói giảm nghèo.
Kế hoạch quản lý kinh tế đóng vai trò định hướng quan trọng trong bối cảnh vĩ mô, giúp các đơn vị kinh tế xác định lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh Thị trường trực tiếp hướng dẫn các quyết định này, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững.
Tại Đại hội IX của Đảng vào tháng 4-2001, một bước đột phá mới trong tư duy lý luận về kinh tế thị trường của Việt Nam đã được xác định, khi lần đầu tiên khái niệm “nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” được nêu ra Khái niệm này thực chất phản ánh nội dung trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhấn mạnh việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khái niệm "kinh tế thị trường" và "kinh tế hàng hoá" có bản chất tương đồng nhưng khác nhau về cấp độ Trong những năm đầu chuyển đổi từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường, nhận thức về nền kinh tế mới còn nhiều hạn chế và tranh luận trong giới lý luận diễn ra sôi nổi Sau hơn 15 năm đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường đã dần rõ ràng hơn, tuy nhiên, việc học hỏi từ sách vở và kinh nghiệm nước ngoài không đủ để có cái nhìn sâu sắc nếu không thực hiện công tác thực tiễn Đến Đại hội IX, chúng ta đã tích lũy nhiều hơn về lý luận và kinh nghiệm, thiết kế được khung thể chế kinh tế thị trường và vận hành nó, mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế Thời điểm này, Đảng đã tuyên bố chính sách phát triển hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, xác định mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong quá trình hướng tới CNXH.
Văn kiện Đại hội IX khẳng định rằng các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Điều này xác nhận vị trí pháp lý và vai trò thiết yếu của các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế Việt Nam Như vậy, sự tồn tại của các thành phần này không chỉ được "cho phép" mà là một quy luật khách quan cần thiết.
Kinh tế nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo, tập trung vào việc phát triển doanh nghiệp nhà nước với 100% vốn hoặc cổ phần chi phối trong các ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng Mục tiêu là xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh từ các tổng công ty nhà nước, đồng thời khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế khác Ngoài ra, nhà nước sẽ giao, bán, khoán hoặc cho thuê các doanh nghiệp nhỏ không cần nắm giữ, đồng thời thực hiện sát nhập, giải thể hoặc cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả.