Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận văn phân tích tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, làm rõ những nội dung cơ bản của nó Từ đó, bài viết rút ra ý nghĩa quan trọng của tư tưởng này đối với việc giáo dục thế hệ trẻ ở Việt Nam hiện nay Truyền thống nhân nghĩa không chỉ là một giá trị nhân văn mà còn là bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Việt Nam, cần được gìn giữ và phát huy.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi
- Khái quát, phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi
Hiện nay, giáo dục đạo đức truyền thống của thế hệ trẻ Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức, khi mà các giá trị văn hóa và đạo đức đang dần bị mai một Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng giáo dục đạo đức cho thanh niên, nhấn mạnh sự cần thiết của lòng nhân ái, công bằng và trách nhiệm xã hội Việc áp dụng các giá trị này vào giáo dục hiện đại không chỉ giúp trẻ em phát triển nhân cách mà còn góp phần xây dựng một xã hội văn minh, đoàn kết Do đó, việc khôi phục và phát huy tư tưởng nhân nghĩa trong giáo dục đạo đức là rất cần thiết để nâng cao nhận thức và trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với cộng đồng và đất nước.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn bao gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh Ngoài ra, luận văn còn dựa trên đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và những công trình nghiên cứu, đánh giá của các tác giả trước đây về Nguyễn Trãi.
Phương pháp nghiên cứu trong luận văn bao gồm các phương pháp biện chứng duy vật như lịch sử và cụ thể, phân tích và tổng hợp, cũng như đối chiếu và so sánh Ngoài ra, các phương pháp xã hội học như thống kê và điều tra cũng được áp dụng để đảm bảo tính chính xác và sâu sắc trong nghiên cứu.
Đóng góp của luận văn
Đề tài này nhằm làm rõ cơ sở lý luận về sự hình thành tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, đồng thời phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng nhân nghĩa của ông Tư tưởng nhân nghĩa không chỉ phản ánh triết lý sống cao đẹp mà còn thể hiện những giá trị nhân văn sâu sắc trong bối cảnh lịch sử của dân tộc.
Bài viết này phân tích thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống trong thế hệ trẻ Việt Nam, làm nổi bật ý nghĩa tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi Đồng thời, bài viết cũng đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ hiện nay.
Đề tài này mở ra những hướng nghiên cứu mới về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, đồng thời cung cấp tài liệu tham khảo hữu ích cho việc giảng dạy môn Lịch sử tư tưởng Triết học Việt Nam tại các trường Cao đẳng và Đại học Ngoài ra, nó còn là nguồn gợi ý quý báu cho công tác giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay.
Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 2 chương (5 tiết)
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG NHÂN NGHĨA CỦA NGUYỄN TRÃI
Cơ sở hình thành, phát triển tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi
1.1.1 Đ i ề u ki ệ n kinh t ế , xã h ộ i n ướ c Đạ i Vi ệ t cu ố i th ế k ỷ XIV- đầ u th ế k ỷ XV
Tư tưởng triết học, đặc biệt là tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, được hình thành và phát triển dưới ảnh hưởng của hai yếu tố chính trong xã hội phong kiến Việt Nam thế kỷ XIV-XV: sự chuyển giao quyền lực từ nhà Trần sang nhà Hồ và cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược Bên cạnh đó, nhu cầu thực tiễn về việc củng cố và phát triển nhà nước phong kiến tập quyền cũng đóng vai trò quan trọng trong việc định hình tư tưởng này.
Sau ba lần chiến thắng quân Nguyên - Mông, nhà Trần rơi vào khủng hoảng kinh tế và xã hội nghiêm trọng, với sự suy thoái của nền kinh tế nông nghiệp và sự sa đọa của tầng lớp quý tộc Dưới triều đại Trần Dụ Tông (1336-1369), những năm tháng cai trị của ông bị chi phối bởi sự xa hoa, ăn chơi và các sở thích kỳ quặc như nuôi chim lạ và đánh bạc Việc xây dựng các công trình xa xỉ, như hồ Lạc Thanh với các loài hải sản và thú lạ, đã khiến người dân bất mãn Tình trạng đói kém, thiên tai thường xuyên xảy ra đã đẩy người dân vào cảnh khốn cùng, dẫn đến sự nổi dậy của nông dân và nô tỳ chống lại chế độ phong kiến, làm lung lay nghiêm trọng nền tảng của triều đại Trần.
Trong bối cảnh hỗn loạn, Hồ Quý Ly, một đại thần từng phục vụ nhiều vua Trần, đã dần nắm quyền và năm 1400, ông ép vua Trần Thiệu Đế nhường ngôi, lập nên nhà Hồ với quốc hiệu Đại Ngu Dưới sự khủng hoảng kinh tế và chính trị, Hồ Quý Ly đã nỗ lực cải cách, đưa ra chính sách hạn chế điền thổ, giảm số lượng gia nô và hạn chế quyền lực của tầng lớp quý tộc phong kiến, đồng thời phát hành tiền giấy để thúc đẩy lưu thông hàng hóa Mặc dù những cải cách này đã cải thiện phần nào tình hình xã hội, nhưng chúng chưa thực sự đi vào lòng dân và nhiều vấn đề như khủng hoảng kinh tế nông nghiệp vẫn tồn tại Thực tế, Hồ Quý Ly chỉ mới thu hẹp quyền lợi của tầng lớp quý tộc mà chưa xóa bỏ tận gốc quyền lợi của họ, cho thấy các giải pháp của ông chỉ mới chạm đến bề nổi của vấn đề.
Với âm mưu xâm lược Đại Việt, nhà Minh đã tăng cường chuẩn bị cho kế hoạch này sau khi Hồ Quý Ly soán ngôi nhà Trần Ngày 19-11-
Năm 1406, nhà Minh phát động cuộc xâm lược Việt Nam, và sau gần một tuần chống cự của quân dân nhà Hồ, đất nước lại rơi vào tay phong kiến phương Bắc Cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại không phải vì thiếu lòng yêu nước hay tinh thần chiến đấu của nhân dân, mà do nhà Hồ không giữ được lòng dân và thiếu sự ủng hộ từ quần chúng, dẫn đến việc không thu hút được sự tham gia của nhân dân vào cuộc kháng chiến Nguyễn Trãi sau này đã nhận xét về tình hình này.
Họ Hồ đã lợi dụng trí tuệ để chiếm đoạt quyền lực và áp bức nhân dân Các lệnh ban hành khiến người dân phẫn nộ, trong khi chính sách di dân gây ra nhiều khó khăn Thuế má nặng nề, lao dịch khổ sở, pháp luật nghiêm khắc và hình phạt tàn nhẫn chỉ phục vụ cho lợi ích cá nhân, không màng đến khổ đau của dân chúng Họ ưu ái những kẻ gần gũi, bất chấp công lý, và những người trung thực bị bịt miệng trong khi kẻ xấu được tin dùng.
Sự thất bại của nhà Hồ trong cuộc kháng chiến chống quân Minh không chỉ do mất lòng dân, mà còn là hệ quả của khủng hoảng kinh tế và chính trị từ cuối thời Trần Theo Nguyễn Trãi, nguyên nhân chính bao gồm việc chính trị không thu phục được lòng dân, quân sự thiên về phòng ngự mà thiếu sức mạnh toàn dân, và không đề cao nhân nghĩa Thực tế này cho thấy rằng, trong quan hệ xã hội và cách thức đối nội, đối ngoại, việc thiếu nhân nghĩa và lòng người sẽ dẫn đến những thất bại trong mọi nỗ lực Điều này phản ánh tư tưởng dân vi bản, dân vi quý, nhấn mạnh tầm quan trọng của lòng dân trong việc xây dựng đất nước.
Sau khi Nhà Hồ sụp đổ, quân Minh đã thiết lập chế độ thống trị tàn bạo tại Việt Nam, theo chỉ thị của vua Minh Thành Tổ Trong suốt 20 năm cai trị, quân xâm lược thi hành nhiều chính sách dã man nhằm đồng hóa đất nước ta, xóa bỏ hoàn toàn những giá trị văn hóa, tinh thần và vật chất của dân tộc Họ không ngừng thực hiện các âm mưu, thủ đoạn để tiêu diệt mọi nguồn sống của người dân, biến Việt Nam thành một quận huyện thuộc ngoại vi Trung Quốc.
Nhà Minh đã gây ra những thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế nước ta, bóp nghẹt mọi nguồn sống và phương tiện sinh tồn của dân Họ không ngừng khai thác tài nguyên thiên nhiên, thu vét của cải để phục vụ cho Thiên Triều, khiến cho tướng giặc ngày càng kiêu ngạo và tình hình trở nên nghiêm trọng Chính sách hà khắc với những hình phạt nặng nề đã khiến người dân sống trong khổ cực, bị cấm đoán trong ăn uống và chịu đựng thuế má nặng nề Họ không từ bỏ bất kỳ nguồn tài nguyên nào, từ ngọc trai, vàng, cho đến gỗ quý, để thỏa mãn dục vọng vô hạn Người dân bị coi là phản bội, dễ dàng bị lừa dối và đưa đi nơi khác Hơn nữa, việc xây dựng nhiều thành trì và chia quân đóng giữ nhằm đàn áp tinh thần yêu nước của nhân dân đã khiến cho những người có tài không thể hành động Đồng thời, họ còn khéo léo mời gọi những nhân tài giả để lừa dối và kiểm soát triều đình.
Sau hơn một năm xâm lược và cướp bóc, Trương Phụ đã báo cáo với vua Minh về số chiến lợi phẩm khổng lồ mà ông thu được, bao gồm 235.000 con voi, 13 triệu thạch thóc, 8.670 chiếc thuyền và 2.539.800 đồ quân khí Những con số này thể hiện sự tàn phá và thiệt hại nặng nề mà dân ta phải gánh chịu trong thời kỳ này.
Văn hóa Đại Việt đang bị đe dọa nghiêm trọng với chủ trương tiêu diệt mọi giá trị văn hóa, thể hiện qua việc "một mảnh giấy, một chữ viết đều thiêu hủy hết" Những đau thương này, dù không ai mong muốn, lại trở thành chất liệu phản ánh nỗi đau mất nước và giá trị của giang sơn đất tổ, từ đó khơi dậy tinh thần quyết tâm kháng chiến Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh điều này trong tác phẩm Cáo Bình Ngô, cho thấy lịch sử đã giao cho ông những trọng trách nặng nề mà chỉ những người vượt qua giới hạn bản thân mới có thể đảm nhiệm Đây là mối quan hệ sâu sắc giữa hoàn cảnh và con người, điều mà sau này Marx đã đề cập đến trong khái niệm về tính hiện thực của con người.
Để giành lại quyền sống và độc lập cho dân tộc, nhân dân ta không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đứng lên chống lại ách thống trị của nhà Minh Từ giữa năm 1407, nhiều cư dân Đại Việt đã cầm vũ khí khởi nghĩa, khởi đầu là những cuộc khởi nghĩa vũ trang lẻ tẻ Mặc dù một số quý tộc nhà Trần đã cố gắng tập hợp lực lượng kháng chiến, nhưng các cuộc khởi nghĩa này đều thất bại do thiếu tổ chức, liên minh và một triết lý thu hút lòng dân để đoàn kết toàn dân tộc chống lại kẻ thù Trong bối cảnh đó, nhu cầu đổi mới và tập hợp sức mạnh trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Trong bối cảnh lịch sử đó và với một người đau đớn với vận hạn của nước và
Nguyễn Trãi, với tâm huyết như người mong mưa giữa hạn hán, đã quyết tâm không đi theo lối mòn cũ mà tìm kiếm một minh chủ để cứu vớt dân tộc Ông trở thành người dũng cảm, tát cạn bùn lầy để đưa con thuyền dân tộc vượt qua khó khăn Dù là con đẻ của Nho học, nhưng khi tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã không đi theo con đường truyền thống mà thay vào đó, ông nhìn nhận nhân nghĩa qua thực trạng quê hương, kết nối với những nỗi đau và khát vọng của nhân dân, cùng với những yêu cầu cấp thiết của thời đại.
Các nhà tư tưởng không xuất hiện ngẫu nhiên mà là kết quả của bối cảnh lịch sử và văn hóa của thời đại và dân tộc họ Họ được nuôi dưỡng bởi những giá trị tinh túy và quý giá, mà tập trung chủ yếu trong tư tưởng triết học.
Trần Đình Hượu cho rằng tư tưởng nhân sinh của Nguyễn Trãi mang đậm ảnh hưởng của Nho giáo, nhưng là một phiên bản Nho giáo khoáng đạt và rộng rãi Điều này không chỉ tạo nên sự gần gũi mà còn làm phong phú hơn lối sống của dân tộc trước đó, thể hiện chiều sâu và sự cao cả trong tư tưởng của ông.
Xét về mặt học thuật, trong chừng mực nào đó, sự định hình của tư tưởng của
Nội dung nhân nghĩa trong tư tưởng của Nguyễn Trãi
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi được thể hiện rõ nét qua các tác phẩm tiêu biểu như Quân trung từ mệnh tập, Ức Trai thi tập, Bình Ngô đại cáo và Quốc âm thi tập Nhân nghĩa không chỉ là nền tảng của hệ thống tư tưởng của ông mà còn là yếu tố quan trọng giúp tư tưởng của Nguyễn Trãi đạt đến trình độ triết học Nhiều học giả cho rằng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi có vị thế tương đương với chính danh của Khổng Tử và vô vi của Lão Tử, vì đây là những phạm trù nền tảng Mặc dù không được trình bày một cách hệ thống, nhân nghĩa của Nguyễn Trãi vẫn có thể được quy về những nội dung cơ bản.
1.2.1 Nhân ngh ĩ a g ắ n ch ặ t v ớ i t ư t ưở ng vì dân, an dân và đề cao vai trò c ủ a nhân dân
Nhân nghĩa trong quan điểm của Nguyễn Trãi gắn liền với tư tưởng an dân, vì dân, thể hiện qua câu nói “việc nhân nghĩa cốt ở an dân” Ông nhấn mạnh việc sử dụng quân nhân nghĩa để cứu dân khổ, đánh kẻ có tội, với mục tiêu cao cả là bảo vệ và an dân Nhân nghĩa trong tư tưởng của ông không chỉ là yêu nước, thương dân mà còn là hành động đánh giặc để cứu nước Ông có quan điểm tiến bộ về dân, coi dân là đông đảo quần chúng lao động, là những người “dân đen”, “con đỏ”, những người cấy cày và đi ở, thể hiện sự trân trọng và tôn vinh vai trò của người dân trong xã hội.
“thôn cùng xóm vắng”, “khai mỏ vàng”, “xông pha lam chướng”, “phá núi đãi
Nguyễn Trãi luôn thể hiện sự cảm thông sâu sắc với nỗi khổ cực của nhân dân, điều này được thể hiện qua việc ông nhắc đến chữ "dân" hơn 150 lần trong các tác phẩm của mình Ông luôn day dứt về thân phận của những người lao động, nhận thấy rằng những kẻ có trách nhiệm chăm lo cho dân lại chỉ vì lợi ích cá nhân mà không quan tâm đến cuộc sống của họ Sự căm thù đối với sự thống trị hà khắc của giặc Minh càng thể hiện rõ trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo, nơi ông lên án tội ác của chúng và gọi chúng là những kẻ "dối trời".
“lừa người”, “bại nghĩa”, chúng đã bóc lột, tàn sát nhân dân ta hết sức tàn bạo:
Thui dân đen trên lò bạo ngược Hãm con đỏ dưới hố tai ương Dối trời lừa người kế gian đủ muôn nghìn khóe Đến nỗi:
Tát cạn nước Đông Hải không thể xóa sạch vết nhơ, và chặt hết trúc Nam Sơn cũng không đủ ghi lại tội ác Ông cảm thấy đau xót khi chứng kiến cảnh nhân dân phải sống trong chiến tranh loạn lạc, quằn quại và rên xiết dưới sự áp bức của kẻ thù.
Khai mỏ vàng, thì xông pha lam chướng, phá núi đãi vàng
Mò ngọc trai, thì mặc giao long, giòng dây quẳng biển Nhiễu dân đào hầm bẫy hươu đen
Hại vật, chăng lưới bắt chim trả [69, 78]
Từ những tội ác tày trời của giặc Minh, lòng yêu thương nhân dân của Nguyễn Trãi càng trở nên sâu sắc, dẫn đến thái độ căm thù giặc ngày càng mãnh liệt Ông càng chứng kiến sự tàn hại của giặc đối với dân, tình thương dành cho nhân dân và sự căm ghét giặc càng gia tăng Do đó, Nguyễn Trãi thể hiện một thái độ dứt khoát và kiên quyết đối với giặc Minh.
Nghĩ thế thù khôn đội trời chung Thề giặc nước khó cùng chung sống [66, 78]
Nguyễn Trãi xem "an dân" là mục tiêu cao cả của nhân nghĩa, trong khi "trừ bạo" là đối tượng và phương tiện để thực hiện nhân nghĩa Người có đức nhân nghĩa cần phải nỗ lực đấu tranh để đạt được sự bình yên cho dân tộc.
“hợp trời, thuận người”, cho nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy “ít địch nhiều”,
Lấy đại nghĩa để chiến thắng hung tàn và lấy chí nhân để thay thế cường bạo, nhân nghĩa là nền tảng cho cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam nhằm tồn tại và phát triển Nhân nghĩa được ví như phép lạ, giúp vạn vật từ bĩ cực trở lại thái hòa, như câu nói “Càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã mờ mà lại trong.”
Nguyễn Trãi khẳng định rằng dân là gốc rễ và nguồn quý báu, từ đó hình thành tư tưởng yêu nước Nhân nghĩa không chỉ là giá trị đạo đức mà còn chiếu sáng mọi khía cạnh trong thế giới quan và nhân sinh quan Yêu nước thực chất là vì dân, và vì dân, tổ quốc phải được đặt lên hàng đầu, vì tổ quốc chính là ngôi nhà chung của tất cả mọi người.
Giá trị chân chính của tinh thần ái quốc ở Nguyễn Trãi thể hiện qua sự chiến đấu mạnh mẽ và hành động kiên quyết nhằm bảo vệ lãnh thổ, văn hóa dân tộc và cuộc sống bình yên của nhân dân Từ lòng yêu nước và chí căm thù giặc, ông đã tìm kiếm phương cách cứu nước và chăm lo cho dân Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của công bằng, sự cần mẫn trong công việc, lòng trung thành với vua và hòa hợp với dân Ông kêu gọi loại bỏ tham ô, lười biếng và bè phái, coi công việc quốc gia là trách nhiệm cá nhân, và đặt lợi ích của dân lên hàng đầu Ông cũng chỉ ra rằng những vẻ đẹp xa hoa chỉ làm nảy sinh thói quen xấu và gây ra sự oán giận trong lòng người.
Nhân nghĩa trong tư tưởng của Nguyễn Trãi là sự kết tinh những giá trị chân thực, phản ánh ý nghĩa nhân sinh và là hơi thở của cuộc sống Việt Nam Đây là sản phẩm tinh thần quý giá nhất của đất Việt, con người Việt, và cuộc sống Việt Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xuất phát từ tâm hồn Việt, nơi Nho giáo chỉ đóng vai trò phụ Điểm nổi bật của nhân nghĩa chính là sự quan tâm đến dân, thể hiện tấm lòng và trách nhiệm của người lãnh đạo đối với nhân dân.
Nhân nghĩa là giá trị cốt lõi trong việc bảo vệ đất nước, vì vậy cần phải loại bỏ bạo lực và quân xâm lược Đấu tranh phải diễn ra theo cách hợp lý, phù hợp với thiên thời và nhân hòa, với chiến lược "yếu chống mạnh", "ít địch nhiều", và "đại nghĩa thắng hung tàn", nhằm thay thế cường bạo bằng chí nhân.
Nguyễn Trãi coi an dân là một yêu cầu cao và mục đích chiến lược cần đạt tới, vì nó là điều kiện để an xã hội và củng cố triều đại Trước ông, nhiều triết gia Trung Quốc như Mạnh Tử đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của dân Tư tưởng an dân đã trở thành đạo lý ở Việt Nam từ thời Lý – Trần, với các quan điểm như thân dân, khoan dân, và huệ dân, góp phần vào sự hưng thịnh của thời đại này Nguyễn Trãi kế thừa và mở rộng quan điểm an dân, nhấn mạnh việc chấm dứt hành động tàn ác đối với dân, tạo điều kiện cho cuộc sống yên bình và yêu cầu quan chức không được nhũng nhiễu dân Ông khẳng định rằng phục vụ dân là bản chất của quyền lực, và mọi của cải trong xã hội đều do nhân dân lao động tạo ra, vì vậy cần biết ơn những người lao động Tư tưởng nhân nghĩa của ông không chỉ thể hiện tình yêu thương đối với nhân dân mà còn đề cao vai trò và sức mạnh của họ trong vận mệnh dân tộc.
“Thường nghĩ quy mô lớn lao, lộng lẫy đều là sức lao khổ của quân dân” [69, 196]
Khi đảm nhận vị trí quan trong triều đình và nhận lộc từ vua, Nguyễn Trãi luôn nghĩ đến nhân dân, những người lao động vất vả Ông nhấn mạnh rằng, dù ở trong sự an nhàn, vẫn phải nhớ đến những khó khăn của những người cày cấy, thể hiện lòng tri ân và trách nhiệm với họ.
Nguyễn Trãi thể hiện quan điểm tiến bộ khi nhấn mạnh rằng bổng lộc không phải là ơn trời hay vua ban, mà là thành quả của những người lao động Ông kêu gọi sự tri ân đối với những người cày cấy, thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc về những vất vả của nhân dân.
“lệnh cho bách quan không được làm những việc xưng tụng công đức viển vông cùng bày đặt linh đình những lễ nghi yến hạ” [69, 79]
Cao hơn, vượt lên chính giới hạn của giai tầng, Nguyễn Trãi khẳng định rằng nhân dân là lực lượng chủ chốt trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn chủ quyền đất nước.
Dựng gậy làm cờ, dân chúng bốn phương tụ họp Hòa rượu cùng uống, binh sĩ một dạ cha con [69, 203]