TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ
Tình hình nghiên cứu
1.1.1 Tình hình nghiên cứu nước ngoài
Trên toàn cầu, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân, đặc biệt trong bối cảnh thị trường đầu tư đã phát triển lâu dài Các quốc gia đang phát triển như UAE, Ấn Độ, Sri Lanka và Pakistan có nhiều điểm tương đồng về mức độ phát triển thị trường và hiểu biết tài chính của nhà đầu tư, do đó, chúng rất phù hợp để tham khảo cho nghiên cứu này.
Xét về các yếu tố tác động đến quyết định đầu tƣ, nghiên cứu (Hussein
Nghiên cứu năm 2006 đã chỉ ra rằng các yếu tố tác động đến quyết định đầu tư bao gồm thua lỗ từ các khoản đầu tư khác, khuyến nghị từ gia đình, bạn bè, thông tin trực tuyến, ý kiến của cổ đông lớn, khả năng vay mượn, khuyến nghị của môi giới chứng khoán, nhu cầu đa dạng hóa, giá cổ phiếu hấp dẫn, kỳ vọng về cổ tức, phát biểu của quan chức, nắm giữ của cổ đông nhà nước và danh tiếng công ty Những yếu tố này phản ánh tâm lý và văn hóa xã hội đặc thù của UAE, có sự khác biệt so với Việt Nam Đồng thời, nghiên cứu của Awais, Laber và Rasheed (2016) cho thấy nhà đầu tư có hiểu biết tài chính và kinh nghiệm cao thường lựa chọn các khoản đầu tư rủi ro cao với lợi nhuận kỳ vọng lớn hơn, cho thấy tầm quan trọng của hiểu biết tài chính và kinh nghiệm đầu tư.
Bảy yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư đã được xác định, từ đó giúp giải quyết một phần nhỏ trong vấn đề lớn hơn Nghiên cứu của Jain và Mandot cũng đề cập đến những khía cạnh này, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu rõ các yếu tố này trong quá trình ra quyết định đầu tư.
Nghiên cứu năm 2010 đã phân tích tác động của các yếu tố như giới tính, tình trạng hôn nhân, tuổi tác, nơi ở, thu nhập, nghề nghiệp và nền tảng giáo dục đến quyết định đầu tư, nhưng vẫn cần những nghiên cứu sâu hơn để hiểu rõ hơn về vấn đề này Nghiên cứu của Kengatharan (2014) đã xem xét nhiều khía cạnh tâm lý ảnh hưởng đến hành vi và quyết định của nhà đầu tư, cung cấp cái nhìn toàn diện về tài chính hành vi và các yếu tố tác động đến quyết định đầu tư trên thị trường chứng khoán Những yếu tố này bao gồm đặc tính thiên lệch trong tâm lý, kỳ vọng, biến động giá và xu hướng kỹ thuật của cổ phiếu, cũng như ảnh hưởng của quyết định từ các nhà đầu tư khác (đám đông) Nghiên cứu này có giá trị cao trong việc áp dụng cho thị trường chứng khoán Việt Nam do sự tương đồng về mức độ phát triển giữa hai thị trường tài chính.
Sơ đồ 1.1 Yếu tố tâm lý tác động đến hành vi và quyết định của nhà đầu tƣ
1.1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước Ở phạm vi trong nước, chủ đề các yếu tố tác động tới quyết định đầu tư cũng đã đƣợc quan tâm ở một mức độ nhất định, có thể kể tới một số nghiên cứu tiêu biểu như: Nghiên cứu (Chu Nguyễn Mộng Ngọc, Vương Văn Thuận
Nghiên cứu năm 2015 của Ngô Đức Chiến đã phân tích tác động của hành vi đầu tư và các yếu tố chi phối quyết định đầu tư của 249 nhà đầu tư cá nhân thông qua khảo sát Kết quả cho thấy ba yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến quyết định đầu tư là phân tích kỹ thuật, phân tích cơ bản và tâm lý thị trường Ngoài ra, các nhân tố chính khác bao gồm tỉ suất sinh lợi, sự ngại rủi ro, quy mô doanh nghiệp, thời gian công việc, theo dõi thị trường và kinh nghiệm đầu tư cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết định của nhà đầu tư.
Nghiên cứu của Nguyễn Quang Khải (2016) chỉ ra rằng các yếu tố như quy mô đầu tư, mức độ hiểu biết của nhà đầu tư, biến động thị trường và chi phí quản trị danh mục là những yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn giữa quản trị danh mục đầu tư chủ động và bị động Mặc dù nghiên cứu đã xem xét nhiều khía cạnh từ thị trường, doanh nghiệp và nhà đầu tư, nhưng vẫn còn thiếu sót trong việc phân tích các yếu tố chủ quan liên quan đến tài chính hành vi của nhà đầu tư Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về những yếu tố quyết định sự lựa chọn danh mục đầu tư của nhà đầu tư, từ đó đóng góp ý tưởng quan trọng cho lĩnh vực nghiên cứu này.
Nghiên cứu của Đặng Văn Dân (2016) đã chỉ ra những đặc điểm nổi bật của tài chính hành vi trong đầu tư chứng khoán, trong đó có lý thuyết kỳ vọng, giúp hiểu rõ hơn về cách mà tâm lý nhà đầu tư ảnh hưởng đến quyết định đầu tư và biến động thị trường.
9 sự ghét rủi ro, Sự tự tin thái quá, tính bảo thủ, phụ thuộc kinh nghiệm và tâm lý bầy đàn
Nhƣ vậy, xét trên từng yếu tố:
Nghiên cứu của Jain và Mandot (2010) đã sử dụng phương pháp Kiểm định Chi-Square để phân tích yếu tố giới tính, cho thấy có rất ít bằng chứng cho rằng giới tính ảnh hưởng mạnh mẽ đến mức độ chấp nhận rủi ro của nhà đầu tư Kết quả này chỉ ra rằng giới tính có tác động hạn chế đến quyết định đầu tư.
Nghiên cứu của Jain và Mandot (2010) chỉ ra rằng tình trạng hôn nhân ảnh hưởng đến hành vi chấp nhận rủi ro, trong đó những cá nhân đã lập gia đình có xu hướng ít chấp nhận rủi ro hơn so với những người độc thân Bên cạnh đó, yếu tố tuổi tác cũng được đánh giá trong nghiên cứu này, cho thấy sự khác biệt trong cách tiếp cận rủi ro giữa các nhóm tuổi khác nhau.
Nghiên cứu năm 2010 chỉ ra rằng, đối với những người trên 25 tuổi, có một mối quan hệ tỉ lệ nghịch giữa tuổi tác và mức độ chấp nhận rủi ro trong đầu tư; nghĩa là, khi tuổi tác tăng lên, mức độ chấp nhận rủi ro của họ giảm xuống.
Nghiên cứu của Jain và Mandot (2010) chỉ ra rằng, yếu tố "Thu nhập" có ảnh hưởng lớn đến hành vi đầu tư, khi thu nhập cao hơn, nhà đầu tư thường có xu hướng chấp nhận rủi ro lớn hơn.
Nghiên cứu của Jain và Mandot (2010) tập trung vào yếu tố "Tình trạng cư trú" tại các thành phố Ấn Độ, trong khi đề tài của chúng tôi mở rộng khái niệm này để bao gồm các hình thức cư trú như nhà riêng, nhà thuê và sống cùng người thân, phù hợp với đặc tính văn hóa Việt Nam.
Trong nghiên cứu của Jain và Mandot (2010), yếu tố "Tình trạng việc làm" được xem là có mối liên hệ với mức độ chấp nhận rủi ro của nhà đầu tư Đề tài nghiên cứu hiện tại tập trung vào việc đánh giá các trạng thái nghề nghiệp như "làm việc toàn thời gian", "làm việc bán thời gian" và "thất nghiệp".
Yếu tố “Trình độ học vấn” cũng đƣợc thể hiện trong nghiên cứu của (Jain, Mandot 2010) với mức độ tương quan âm, diễn biến ngược chiều
Kinh nghiệm đầu tư là yếu tố quan trọng trong quyết định đầu tư, theo nghiên cứu của Awais, Laber và Rasheed (2016), cho thấy việc không đưa ra quyết định đúng có thể dẫn đến tổn thất nghiêm trọng do rủi ro liên quan đến đầu tư Rủi ro này có thể tạo ra lợi nhuận lớn hoặc thua lỗ, trong khi chấp nhận ít rủi ro thường dẫn đến lợi nhuận thấp hoặc trung bình Thông tin về các biến khác và kinh nghiệm đầu tư ảnh hưởng lớn đến nhận thức rủi ro và quyết định đầu tư Do đó, kiến thức về tài chính và kinh nghiệm đầu tư được xem là các yếu tố quan trọng tác động đến khả năng chấp nhận rủi ro và quyết định đầu tư Ngoài ra, kiến thức và hiểu biết về các tài sản đầu tư cũng được nhấn mạnh trong các nghiên cứu (Awais, Laber, Rasheed 2016; Jain, Mandot 2010; Nguyễn Quang Khải 2016), cho thấy có mối tương quan dương với việc quản trị danh mục năng động.
Tổng quan lý luận về một số vấn đề trong đầu tƣ
1.2.1 Lý luận chung về đầu tư Đầu tƣ là hình thức bỏ vốn trong hiện tại để kỳ vọng vào một dòng tiền lớn hơn trong tương lai Ở trong phạm vi đề tài nghiên cứu này, tác giả đề cập đến khái niệm đầu tƣ tổng hợp, bao gồm: đầu tƣ chứng khoán, bất động sản, vàng, tiền ảo… Thông thường, khoản đầu tư mang lại cho các nhà đầu tư hai cấu phần lợi nhuận chính: lãi vốn và dòng tiền phát sinh từ khoản đầu tƣ Ví dụ: Nhà đầu tƣ cổ phiếu sẽ nhận đƣợc lãi vốn trên sự tăng giá của cổ phiếu và cổ tức bằng tiền mặt của doanh nghiệp; Nhà đầu tƣ bất động sản cũng sẽ nhận đƣợc lãi vốn trên sự tăng giá của bất động sản và tiền thuê định kỳ trong suốt quá trình nắm giữ tài sản; Nhà đầu tư trái phiếu hưởng trái tức và chênh lệch giá mua bán trái phiếu Tuy vậy một số loại tài sản đầu tƣ chỉ có lợi nhuận/lỗ từ lãi/lỗ vốn, đến từ sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán đã trừ đi các khoản thuế phí liên quan, nhƣ: vàng, tiền ảo; Một số loại tài sản đầu tƣ chỉ có lãi suất mà không có lãi vốn nhƣ: Tiền gửi ngân hàng Đầu tư là hành động phân bổ nguồn lực, thường là tiền, với kỳ vọng tạo ra thu nhập hoặc lợi nhuận Bạn có thể đầu tƣ vào các nỗ lực, chẳng hạn nhƣ sử dụng tiền để bắt đầu kinh doanh hoặc tài sản, chẳng hạn nhƣ mua bất động sản với hy vọng bán lại sau đó với giá cao hơn
Kỳ vọng về lợi nhuận từ thu nhập hoặc tăng giá là nền tảng của đầu tư Có nhiều loại tài sản để đầu tư và kiếm lợi nhuận Rủi ro và lợi nhuận luôn đi đôi với nhau; rủi ro thấp thường dẫn đến lợi nhuận kỳ vọng thấp, trong khi lợi nhuận cao thường liên quan đến rủi ro cao hơn Các khoản đầu tư có rủi ro thấp bao gồm chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu chính phủ và tiền gửi ngân hàng.
Trong khi cổ phiếu và cổ phiếu được xem là những khoản đầu tư rủi ro hơn, hàng hóa và các công cụ phái sinh thường được coi là những lựa chọn đầu tư có mức độ rủi ro cao nhất Ngoài ra, bất động sản cũng là một lĩnh vực đầu tư hấp dẫn, và những người đam mê nghệ thuật có thể xem xét đầu tư vào mỹ thuật và đồ cổ.
Rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng có thể khác nhau trong cùng một loại tài sản
Một cổ phiếu blue-chip trên thị trường chứng khoán HOSE thường có mức độ rủi ro thấp hơn nhiều so với một cổ phiếu DNVVN giao dịch trên UPCOM hoặc OTC Điều này cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong việc đánh giá rủi ro giữa các loại cổ phiếu tùy thuộc vào sàn giao dịch mà chúng tham gia.
Lợi nhuận từ tài sản phụ thuộc vào loại tài sản cụ thể, chẳng hạn như cổ phiếu trả cổ tức hàng năm hoặc hai lần mỗi năm, trái phiếu trả lãi hàng năm, và bất động sản mang lại thu nhập cho thuê hàng tháng hoặc hàng quý Mỗi loại thu nhập từ đầu tư sẽ bị đánh thuế ở mức độ khác nhau, tùy thuộc vào loại tài sản đó.
Tổng lợi nhuận từ một khoản đầu tư không chỉ bao gồm thu nhập thường xuyên như cổ tức hoặc lãi suất, mà còn bao gồm sự tăng giá trị vốn Vì vậy, việc xem xét cả tổng thu nhập và tăng giá là rất quan trọng để đánh giá hiệu quả đầu tư.
Những loại tài sản đầu tƣ phổ biến nhất có thể kể tới bao gồm:
Cổ phiếu là tài sản cho phép người mua trở thành chủ sở hữu một phần của công ty Những người sở hữu cổ phiếu được gọi là cổ đông, và họ có cơ hội tham gia vào sự tăng trưởng và thành công của công ty thông qua việc tăng giá cổ phiếu cũng như nhận cổ tức từ lợi nhuận.
Trái phiếu là công cụ tài chính đại diện cho nghĩa vụ nợ của các tổ chức như chính phủ, thành phố và doanh nghiệp Khi bạn mua trái phiếu, bạn trở thành chủ sở hữu một phần nợ của thực thể đó, đồng thời có quyền nhận lãi suất định kỳ và được hoàn trả mệnh giá trái phiếu khi đến hạn.
Quỹ là các công cụ đầu tư do các nhà quản lý điều hành, cho phép nhà đầu tư tham gia vào nhiều loại tài sản như cổ phiếu, trái phiếu và hàng hóa Hai loại quỹ phổ biến nhất là quỹ tương hỗ, không giao dịch trên sàn và có giá trị vào cuối ngày, và quỹ ETF, giao dịch như chứng khoán với giá trị thay đổi liên tục Cả hai loại quỹ này có thể theo dõi thụ động chỉ số hoặc được quản lý tích cực Ở Việt Nam, ủy thác đầu tư chứng khoán phổ biến hơn so với chứng chỉ tín thác đầu tư bất động sản (REITs), loại hình này đầu tư vào bất động sản và trả phân phối định kỳ cho nhà đầu tư REITs có tính thanh khoản cao vì chúng giao dịch trên sàn chứng khoán Công cụ phái sinh, như quyền chọn, cung cấp quyền mua hoặc bán tài sản với mức giá cố định nhưng không bắt buộc, và thường đi kèm với rủi ro cao do sử dụng đòn bẩy Trên thị trường hiện nay, có nhiều phong cách đầu tư khác nhau đang được áp dụng.
Phong cách đầu tư chủ động so với thụ động thể hiện sự khác biệt rõ rệt trong cách tiếp cận thị trường Đầu tư tích cực nhằm "đánh bại chỉ số" thông qua việc quản lý danh mục đầu tư một cách chủ động, trong khi đầu tư thụ động ủng hộ việc mua quỹ chỉ số, thừa nhận rằng việc vượt qua thị trường một cách nhất quán là rất khó khăn Dù cả hai phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế riêng, việc lựa chọn giữa chúng phụ thuộc vào mục tiêu và chiến lược đầu tư của từng nhà đầu tư.
Mặc dù có 15 lý do để ủng hộ quản lý quỹ chủ động, thực tế cho thấy rất ít nhà quản lý quỹ có khả năng vượt trội hơn chỉ số đủ để biện minh cho chi phí cao hơn so với quản lý thụ động.
Phong cách đầu tư tăng trưởng tập trung vào các công ty có tiềm năng tăng trưởng cao, thường đi kèm với tỷ lệ định giá P/E cao hơn so với các công ty giá trị Ngược lại, các công ty giá trị có tỷ lệ P/E thấp hơn nhưng lại cung cấp tỷ lệ cổ tức cao hơn đáng kể, do thường không thu hút được sự ủng hộ từ các nhà đầu tư trong một khoảng thời gian nhất định.
Câu hỏi về "làm thế nào để đầu tư" phụ thuộc vào việc bạn muốn tự quản lý tài chính hay tìm kiếm sự hỗ trợ từ các chuyên gia Nhiều nhà đầu tư ưa thích tự quản lý và chọn các công ty môi giới với phí thấp để giao dịch dễ dàng Ngược lại, những nhà đầu tư muốn quản lý chuyên nghiệp thường hợp tác với các nhà quản lý tài sản, những người tính phí dựa trên tỷ lệ phần trăm tài sản quản lý Mặc dù chi phí cho quản lý chuyên nghiệp cao hơn, nhưng nhiều nhà đầu tư sẵn sàng chi trả để nhận được sự thuận tiện trong nghiên cứu, quyết định đầu tư và giao dịch từ các chuyên gia.
Việc mua một chứng khoán đƣợc đánh giá là đầu tƣ hay đầu cơ phụ thuộc vào ba yếu tố:
- Số lượng rủi ro được thực hiện - Đầu tư thường liên quan đến mức độ rủi ro thấp hơn so với đầu cơ
Đầu tư thường yêu cầu thời gian nắm giữ dài hơn, thường được đo bằng năm, trong khi đầu cơ liên quan đến thời gian nắm giữ ngắn hơn, thường chỉ kéo dài từ ngày đến tháng.
Lợi nhuận từ đầu tư có thể đến từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó tăng giá không phải lúc nào cũng là yếu tố quan trọng nhất; cổ tức và thưởng cổ phiếu thường đóng vai trò chính Ngược lại, trong đầu cơ, sự tăng giá thường là nguồn lợi nhuận chủ yếu mà nhà đầu tư hướng tới.