1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

BUỔI THẢO LUẬN THỨ tư bảo vệ QUYỀN sở hữu bộ môn những quy định chung về luật dân sự

30 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 30
Dung lượng 36,54 KB

Cấu trúc

  • 1.1. Trâu là động sản hay bất động sản? Vì sao? (5)
  • 1.2. Trâu có là tải sản phải đăng ký quyền sở hữu không? Vì sao? (5)
  • 1.3. Đoạn nào của Quyết định cho thấy trâu có tranh chấp thuộc quyền sở hữu của ông Tài? (6)
  • 1.4. Thế nào là chiếm hữu tài sản và ai đang chiếm hữu trâu trong hoàn cảnh có (6)
  • 1.5. Việc chiếm hữu như trong hoàn cảnh của ông Dòn có căn cứ pháp luật không? Vì sao? (6)
  • 1.6. Thế nào chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời (7)
  • 1.7. Người như hoàn cảnh của ông Dòn có là người chiếm hữu ngay tình không? Vì sao? (7)
  • 1.8. Thế nào là hợp đồng có đền bù và không có đền bù theo quy định của đòi tài sản trong BLDS? (7)
  • 1.9. Ông Dòn có được con trâu thông qua giao dịch có đền bù hay không có đền bù? Vì sao? (8)
  • 1.10. Trâu có tranh chấp có phải bị lấy cắp, bị mất hay bị chiếm hữu ngoài ý chí của ông Tài không? (9)
  • 1.11. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài được đòi trâu từ ông Dòn không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời? (9)
  • 1.12. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao (9)
  • 1.13. Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì pháp luật hiện hành có quy định nào bảo vệ ông Tài không? (9)
  • 1.14. Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì Tòa án đã theo hướng ông Tài được quyền yêu cầu ai trả giá trị con trâu? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời? (10)
  • 2.1. Đoạn nào của Quyết định cho thấy quyền sử dụng đất tranh chấp thuộc sử dụng hợp pháp của các con cụ Ba và đang được ông Vĩnh chiếm hữu? (11)
  • 2.2. Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án xác định ông Vĩnh chiếm hữu (12)
  • 2.3. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ông Vĩnh là người ngay tình (12)
  • 2.4. Trên cơ sở các quy định hiện hành, ông Vĩnh có phải hoàn trả quyền sử dụng đất tranh chấp cho các con cụ Ba không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời (12)
  • 2.5. Tòa án tối cao đã có hướng giải quyết bảo vệ các con cụ Ba như thế nào và hướng giải quyết này đã được quy định trong văn bản chưa? Vì sao? (13)
  • 2.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết bảo vệ các con của cụ Ba nêu trên (13)
  • 3.1. Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy ông Tận đã lấn sang đất thuộc quyền sử dụng của ông Trường, bà Thoa và phần lấn cụ thể là bao nhiêu? (15)
  • 3.2. Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất (không gian, mặt đất, lòng đất) thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên? (17)
  • 3.3. BLDS có quy định nào điều chỉnh việc lấn chiếm đất, lòng đất và không gian thuộc quyền sử dụng của người khác không? (17)
  • 3.4. Ở nước ngoài, việc lấn chiếm như trên được xử lý như thế nào? (18)
  • 3.7. Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy Tòa án không buộc ông Tận tháo dỡ nhà đã được xây dựng trên đất lấn chiếm (52,2m 2 )? (20)
  • 3.8. Ông Trường, bà Thoa có biết và phản đối ông Tận xây dựng nhà trên không? (20)
  • 3.9. Nếu ông Trường, bà Thoa biết và phản đối ông Tận xây dựng nhà trên thì ông Tận có phải tháo dỡ nhà để trả lại đất cho ông Trường, bà Thoa không? Vì sao? 15 3.10. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến phần đất ông Tận lấn chiếm và xây nhà trên (21)
  • 3.11. Theo Tòa án, phần đất ông Tận xây dựng không phải hoàn trả cho ông Trường, bà Thoa được xử lý như thế nào? Đoạn nào của Quyết định số 23 cho câu trả lời? (21)
  • 3.12. Đã có quyết định nào của Hội đồng thẩm phán theo hướng giải quyết như Quyết định số 23 liên quan đến đất bị lấn chiếm và xây dựng nhà không? Nêu rõ Quyết định mà anh/chị biết (22)
  • 3.13. Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán (23)
  • 3.14. Đối với phần chiếm không gian 10,71 m 2 và căn nhà phụ có diện tích 18,57 (23)
  • 3.15. Theo anh/chị thì nên xử lý phần lấn chiếm không gian 10,71 m 2 và căn nhà phụ trên như thế nào? (24)
  • 3.16. Suy nghĩ của anh/chị về xử lý việc lấn chiếm quyền sử dụng đất và không (24)
  • 3.17. Hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 23 có còn phù hợp với BLDS 2015 không? Vì sao? (25)

Nội dung

Trâu là động sản hay bất động sản? Vì sao?

- Vì Theo Điều 174 Bộ luật dân sự năm 2005 (BLDS 2005) và Điều 107 Bộ luật dân sự năm 2015 (BLDS 2015) có quy định:

Bất động sản bao gồm nhiều thành phần quan trọng, trong đó có đất đai, nhà và các công trình xây dựng gắn liền với đất Ngoài ra, còn có các tài sản khác liên quan đến đất đai và công trình, cũng như những tài sản khác theo quy định của pháp luật.

2 Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.

Như vậy, căn cứ theo khoản 1 Điều 107 BLDS 2015 nêu trên thì trâu không thuộc bất động sản Do đó, theo khoản 2 Điều 107 BLDS 2015 trâu là động sản.

Trâu có là tải sản phải đăng ký quyền sở hữu không? Vì sao?

- Trâu không là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu.

Theo Điều 167 BLDS 2005 và Khoản 2 Điều 106 BLDS 2015, quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản động sản không yêu cầu phải đăng ký, trừ khi pháp luật có quy định cụ thể về việc đăng ký tài sản.

Như vậy, vì trâu là động sản nên quyền sở hữu đối với trâu không phải đăng ký.

Đoạn nào của Quyết định cho thấy trâu có tranh chấp thuộc quyền sở hữu của ông Tài?

hữu của ông Tài? Đoạn trong Quyết định cho thấy trâu có tranh chấp thuộc quyền sở hữu của ông Tài:

Dựa trên lời khai của ông Triệu Tiến Tài cùng với các nhân chứng như anh Phúc, anh Chu, và anh Bảo, cùng với kết quả giám định từ các biên bản ngày 16/8/2004, 17/8/2004 và 20/8/2004, có đủ căn cứ xác định rằng con trâu cái màu đen 4 năm 9 tháng tuổi và con nghé đực khoảng 3 tháng tuổi thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Triệu Tiến Tài.

Thế nào là chiếm hữu tài sản và ai đang chiếm hữu trâu trong hoàn cảnh có

- Theo Điều 179 BLDS 2015 về khái niệm chiếm hữu:

1 Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản.

2 Chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu.

Việc chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu không thể là căn cứ xác lập quyền sở hữu, trừ trường hợp quy định tại các điều 228, 229,

230, 231, 232, 233 và 236 của Bộ luật này.

Trong vụ án này, ông Dòn là người đang chiếm hữu trâu trong bối cảnh có tranh chấp, thể hiện việc ông nắm giữ và chi phối tài sản một cách trực tiếp.

Việc chiếm hữu như trong hoàn cảnh của ông Dòn có căn cứ pháp luật không? Vì sao?

- Việc chiếm hữu như trong hoàn cảnh của ông Dòn không có căn cứ pháp luật.

- Vì theo Điều 183 BLDS 2005 quy định:

Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong các trường hợp sau đây:

1 Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;

2 Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản;

3 Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật;

Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, bao gồm tài sản không xác định được chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bỏ quên, chôn giấu hoặc chìm đắm, cần tuân thủ các điều kiện pháp luật quy định.

5 Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định;

6 Các trường hợp khác do pháp luật quy định.

Như vậy, việc chiếm hữu của ông Dòn không rơi vào trường hợp nào như điều

183 BLDS 2005 quy định Do đó, việc chiếm hữu của ông Dòn không có căn cứ pháp luật.

Thế nào chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời

cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo Điều 180 Bộ luật Dân sự 2015, chiếm hữu ngay tình được định nghĩa là hành vi chiếm hữu tài sản mà người chiếm hữu có lý do để tin rằng mình có quyền sở hữu đối với tài sản đó.

Người như hoàn cảnh của ông Dòn có là người chiếm hữu ngay tình không? Vì sao?

- Ông Dòn là người chiếm hữu ngay tình.

Ông Dòn có quyền chiếm hữu tài sản dựa trên Khoản 3 Điều 183 Bộ luật Dân sự 2005, quy định rằng "Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật" Điều này tạo cơ sở cho ông Dòn tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu Do đó, ông Dòn được xem là người chiếm hữu ngay tình theo Điều 180 Bộ luật Dân sự 2015.

Thế nào là hợp đồng có đền bù và không có đền bù theo quy định của đòi tài sản trong BLDS?

Theo Điều 257 BLDS 2005 quy định về Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình:

Chủ sở hữu có quyền lấy lại động sản không đăng ký từ người chiếm hữu ngay tình nếu người đó có được tài sản qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền Nếu hợp đồng có đền bù, chủ sở hữu vẫn có quyền đòi lại động sản trong trường hợp tài sản bị mất, bị đánh cắp hoặc bị chiếm hữu trái phép.

Hợp đồng có đền bù là loại hợp đồng trong đó mỗi bên nhận được một lợi ích tương tự sau khi thực hiện nghĩa vụ cho bên kia Lợi ích này không nhất thiết phải ngang bằng về tính chất hay chủng loại Trong trường hợp hợp đồng có đền bù, chủ sở hữu có quyền yêu cầu trả lại động sản nếu nó bị lấy cắp, mất mát hoặc bị chiếm hữu trái phép.

Ví dụ: Hợp đồng thuê nhà - trong đó một bên nhận được lợi ích vật chất là tiền thuê nhà và một bên sẽ có chỗ ở.

Hợp đồng không có đền bù là những thỏa thuận mà một bên nhận lợi ích mà không cần phải trao đổi lợi ích nào cho bên kia Trong trường hợp này, chủ sở hữu có quyền yêu cầu lại động sản không cần đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình, nếu tài sản đó đã được nhận qua giao dịch với người không có quyền định đoạt.

Ví dụ: Hợp đồng cho tặng.

Ông Dòn có được con trâu thông qua giao dịch có đền bù hay không có đền bù? Vì sao?

có đền bù? Vì sao?

- Ông Dòn có được con trâu thông qua giao dịch có đền bù.

Ông Dòn có được con trâu nhờ giao dịch với ông Thi, trong đó ông Thi đã đổi con trâu cái sổi cho ông Dòn Giao dịch này thể hiện sự trao đổi lợi ích giữa hai bên, với mỗi bên nhận được lợi ích tương ứng sau khi thực hiện nghĩa vụ của mình Do đó, đây là một hợp đồng có đền bù rõ ràng.

Trâu có tranh chấp có phải bị lấy cắp, bị mất hay bị chiếm hữu ngoài ý chí của ông Tài không?

- Trâu có tranh chấp là bị chiếm hữu ngoài ý chí của ông Tài.

- Vì Tòa án đã xác minh và khẳng định ông Thơ là người chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật.

Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài được đòi trâu từ ông Dòn không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?

- Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn.

- Đoạn của Quyết định cho câu trả lời:

Tòa án cấp phúc thẩm xác nhận rằng con trâu mẹ và con nghé con thuộc sở hữu của ông Tài, nhưng đồng thời cho rằng con trâu cái hiện đang do ông Nguyễn Văn Dòn quản lý Do đó, ông Tài cần khởi kiện ông Dòn Tòa án quyết định buộc ông Thơ phải hoàn trả trị giá con nghé là 900.000đ, đồng thời bác yêu cầu của ông Tài về việc đòi lại con trâu mẹ từ ông Thơ do không đúng pháp luật.

Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao

án nhân dân tối cao.

Theo quan điểm của tôi, quyết định của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là hợp lý và tuân thủ quy định pháp luật Quyết định này bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu, ông Tài, cũng như quyền lợi của người chiếm hữu ngay tình, ông Dòn, trong vụ tranh chấp liên quan đến con trâu.

Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì pháp luật hiện hành có quy định nào bảo vệ ông Tài không?

- Theo Khoản 1 Điều 166 BLDS 2015 quy định về quyền đòi lại tài sản:

Chủ sở hữu tài sản có quyền yêu cầu người chiếm hữu, sử dụng hoặc hưởng lợi từ tài sản trả lại tài sản nếu việc chiếm hữu, sử dụng hoặc hưởng lợi đó không có căn cứ pháp luật.

Ông Tài có quyền yêu cầu lấy lại tài sản do ông Dòn đang chiếm hữu, tuy nhiên, việc chiếm hữu của ông Dòn lại không có cơ sở pháp lý.

1 Đã phân tích trong câu 1.5

Ông Dòn, với tư cách là người chiếm hữu ngay tình, có quyền đòi lại trâu, một loại động sản không cần đăng ký quyền sở hữu, theo Điều 167 Bộ luật Dân sự 2015 Điều này quy định quyền lợi của người chiếm hữu ngay tình trong việc lấy lại tài sản động sản không đăng ký.

Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không cần đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình nếu người này nhận được động sản qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền Nếu hợp đồng có đền bù, chủ sở hữu vẫn có quyền lấy lại động sản trong trường hợp bị mất, bị lấy cắp, hoặc bị chiếm hữu trái phép.

Theo quyết định của Tòa án, ông Tài được công nhận là chủ sở hữu hợp pháp của con trâu, trong khi ông Dòn là người chiếm hữu ngay tình con trâu này.

Giao dịch giữa ông Dòn và ông Thi để nhận con trâu là một giao dịch có đền bù Do con trâu bị chiếm hữu trái phép, ông Tài, với tư cách là chủ sở hữu, có quyền yêu cầu lấy lại động sản (con trâu) theo quy định tại Điều 167.

Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì Tòa án đã theo hướng ông Tài được quyền yêu cầu ai trả giá trị con trâu? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?

- Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì Tòa án đã theo hướng ông Tài được quyền yêu cầu ông Thơ trả giá trị con trâu.

- Đoạn của Quyết định cho câu trả lời:

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành điều tra và thu thập đầy đủ chứng cứ liên quan đến con trâu tranh chấp giữa ông Tài và ông Thơ Kết quả, Tòa án xác định ông Thơ chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật và buộc ông phải hoàn lại giá trị con trâu và con nghé cho ông Tài, quyết định này hoàn toàn có căn cứ pháp luật.

1.15 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

Tòa án nhân dân tối cao đã đưa ra giải quyết hợp lý khi nhận thấy Bản án dân sự phúc thẩm không đảm bảo quyền lợi cho ông Tài và ông Dòn Việc bác yêu cầu ông Tài đòi ông Thơ trả lại con trâu mẹ vì cho rằng ông Dòn đang chiếm giữ con trâu là sai Do đó, Tòa án đã hủy bản án phúc thẩm và giao hồ sơ cho tòa phúc thẩm để xét xử lại, nhằm đảm bảo việc hoàn trả giá trị con trâu phù hợp với giá cả và quyền lợi của cả hai bên.

VẤN ĐỀ 2: ĐÒI BẤT ĐỘNG SẢN TỪ NGƯỜI THỨ BA Tóm tắt Quyết định số 94/2013/DS-GĐT ngày 25/7/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Trong vụ tranh chấp quyền sở hữu tài sản, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Nhân và ông Nguyễn Xuân Lai, bị đơn là ông La Văn Vĩnh Vào năm 1973, cụ Cậy đã bán nhà số 2 Nguyễn Thái Học cho cụ Ba, cha của nguyên đơn Từ năm 1976-1977, nhà này được sử dụng làm trường mẫu giáo và nơi họp tại khu vực 6, phường Lê Hồng Phong, thị xã Quy Nhơn Sau khi vợ chồng cụ Ba qua đời và các con ly tán, vào năm 1986, đại diện khối trưởng khu 6 đã bán nhà cho bà Thu Năm 1995, bà Thu chuyển nhượng nhà cho ông Vĩnh với hợp đồng mua bán có công chứng Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định ông Vĩnh là người mua tài sản tranh chấp ngay tình, trong khi các con cụ Ba có quyền sử dụng hợp pháp đối với đất đang tranh chấp Do đó, hội đồng đã quyết định hủy các bản án dân sự phúc thẩm và sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án để xét xử sơ thẩm lại.

Đoạn nào của Quyết định cho thấy quyền sử dụng đất tranh chấp thuộc sử dụng hợp pháp của các con cụ Ba và đang được ông Vĩnh chiếm hữu?

Đoạn của Quyết định cho thấy quyền sử dụng đất tranh chấp thuộc sử dụng hợp pháp của các con cụ Ba và đang được ông Vĩnh chiếm hữu:

Khi cụ Ba qua đời, tài sản của cụ được thừa kế cho các con Tuy nhiên, nhà của cụ Ba đã bị ông Vĩnh phá hủy, và các con của cụ không thể chứng minh được khiếu nại về việc này Hiện tại, chỉ còn lại đất tranh chấp, thuộc quyền sử dụng hợp pháp của các con cụ Ba.

Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ông Vĩnh là người ngay tình

2.3 Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ông Vĩnh là người ngay tình.

Tòa án xác định ông Vĩnh là người ngay tình khi mua nhà đất từ vợ chồng bà Thu là hoàn toàn hợp lý và tuân thủ quy định pháp luật Khi giao dịch, nhà đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, chứng tỏ ông Vĩnh đã mua tài sản này hợp pháp Hơn nữa, ông Vĩnh cũng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, khẳng định ông là người mua bán tài sản tranh chấp một cách ngay tình Theo Điều 189 BLDS 2005, người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người không biết và không thể biết rằng việc chiếm hữu tài sản đó là trái pháp luật.

Trên cơ sở các quy định hiện hành, ông Vĩnh có phải hoàn trả quyền sử dụng đất tranh chấp cho các con cụ Ba không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời

- Trên cơ sở các quy định hiện hành, ông Vĩnh không phải hoàn trả quyền sử dụng đất tranh chấp cho các con cụ Ba.

Theo Điều 168 của Bộ luật Dân sự 2015, quyền đòi lại động sản chỉ được thực hiện khi chủ sở hữu đã đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình Tuy nhiên, có một số trường hợp ngoại lệ được quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật này.

Cụ thể, khoản 2 Điều 133 BLDS 2015 quy định:

Trong trường hợp giao dịch dân sự bị vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nếu tài sản này được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình dựa vào việc đăng ký đó, thì giao dịch giữa người thứ ba và bên chuyển nhượng sẽ không bị coi là vô hiệu.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 133 BLDS 2015, ông Vĩnh được xác định là người chiếm hữu ngay tình đối với bất động sản mà ông nhận từ bà Thu, người được cơ quan nhà nước công nhận là chủ sở hữu Do đó, các con cụ Ba không có quyền yêu cầu ông Vĩnh trả lại quyền sử dụng đất, và ông Vĩnh không có nghĩa vụ hoàn trả quyền sử dụng đất cho họ.

Tòa án tối cao đã có hướng giải quyết bảo vệ các con cụ Ba như thế nào và hướng giải quyết này đã được quy định trong văn bản chưa? Vì sao?

Trong Quyết định số 94/2013/GĐ-DS ngày 25/7/2013, Tòa án đã không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn trong vụ án tranh chấp quyền sở hữu tài sản nhằm bảo vệ quyền lợi của các con cụ Ba Tòa án xác định ông Vĩnh là người mua tài sản tranh chấp một cách ngay tình và yêu cầu bồi thường thiệt hại do việc bán nhà trái pháp luật cho nguyên đơn.

Hướng giải quyết bồi thường thiệt hại cho các con cụ Ba vẫn chưa được quy định rõ ràng trong văn bản pháp luật Tòa án gặp khó khăn trong việc xác định chính xác ai là người có nghĩa vụ bồi thường, trong khi ông Vĩnh lại là người chiếm hữu ngay tình sau khi mua nhà số.

Tòa án cần xác minh xem ông Sơn hay ông Đạo là người đã bán căn nhà tại 2 Nguyễn Thái Học, đồng thời kiểm tra xem số tiền từ việc bán nhà có được sử dụng để xây dựng trường mẫu giáo hay không, và hiện ai đang quản lý cơ sở đó Điều này sẽ giúp xác định ai có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại Ngoài ra, cần làm việc với Ủy ban nhân dân thành phố Quy Nhơn để xem xét khả năng hỗ trợ cấp đất mới tương ứng với giá trị đất tranh chấp cho nguyên đơn, nhằm tránh việc tập thể phải bồi thường thiệt hại và giải quyết vụ án một cách hợp lý.

Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết bảo vệ các con của cụ Ba nêu trên

Hướng giải quyết của Tòa án trong việc bảo vệ quyền lợi của các con của cụ Ba là hợp tình và hợp lý, đảm bảo quyền lợi cho tất cả các bên liên quan.

- Vì vụ án có nhiều điểm chưa được làm rõ, như ai là người bán nhà số 2

Nguyễn Thái Học đã sử dụng số tiền từ việc bán nhà để xác định nghĩa vụ bồi thường, do đó Tòa án yêu cầu xem xét lại nhằm bảo vệ quyền lợi của các con cụ Ba và ông Vĩnh Đồng thời, Tòa án cũng đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố Quy Nhơn xem xét hỗ trợ cấp đất mới tương ứng với giá trị đất tranh chấp cho các con cụ Ba, nhằm tránh việc tập thể phải bồi thường thiệt hại, điều này hoàn toàn hợp tình và hợp lý.

LẤN CHIẾM TÀI SẢN LIỀN KỀ Tóm tắt Quyết định số 617/2011/DS-GDDT ngày 18/8/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

Ông Lương Ngọc Trụ và bà Đinh Thị Nguyên khởi kiện ông Ngô Văn Hòa yêu cầu trả lại 15,2 m² đất lấn chiếm và tháo dỡ công trình xây dựng Ông Hòa cho rằng ông có giấy phép xây dựng và không lấn chiếm đất của ông Trụ Tòa án nhân dân tối cao nhận định rằng ông Hòa đã xây 4 ô văng cửa sổ và một váng bê tông lấn sang đất của ông Trụ, do đó quyết định tháo dỡ là hợp lý Tuy nhiên, tòa không yêu cầu ông Hòa tháo dỡ ống nước đã chôn trên đất của ông Trụ, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của ông Trụ Tòa quyết định hủy cả Bản án dân sự phúc thẩm và sơ thẩm, giao hồ sơ để xét xử lại.

Tóm tắt Quyết định số 23/2006/DS-GĐT ngày 07/09/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Nguyên đơn trong vụ án là ông Diệp Vũ Trường, trong khi bị đơn là ông Nguyễn Văn Tận, liên quan đến tranh chấp quyền sử dụng đất Ông Tận đang tranh chấp 185 m² đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng từ năm 1994 Ông Trường đã lấn chiếm 132,8 m² đất trồng cây, 52,2 m² đất xây nhà chính, 18,57 m² đất xây nhà phụ và 10,71 m² không gian xây máng xối Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm chưa giải quyết phần máng xối và nhà phụ Tòa án tối cao đã hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, đồng thời giao lại hồ sơ vụ án cho Tòa án tỉnh Cà.

Mau xét xử sơ thẩm lại.

Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy ông Tận đã lấn sang đất thuộc quyền sử dụng của ông Trường, bà Thoa và phần lấn cụ thể là bao nhiêu?

Đoạn của Quyết định số 23 cho thấy ông Tận đã lấn sang đất thuộc quyền sử dụng của ông Trường, bà Thoa:

Tòa án cấp phúc thẩm đã quyết định buộc ông Tận phải trả lại 132,8 m² đất trồng cho ông Trường và bà Thoa, trong khi phần đất ông Tận đã xây dựng nhà (52,2 m²) sẽ được giao cho ông Tận tiếp tục sử dụng Tuy nhiên, ông Tận cần thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trường và bà Thoa, một quyết định được xem là hợp tình, hợp lý.

Căn nhà của ông Tận không chỉ có diện tích 52,2 m² mà còn có hai máng xối đúc bê tông chiếm khoảng 10,71 m² trên phần đất của ông Trường và bà Thoa Việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xem xét yêu cầu buộc ông Tận phải tháo dỡ hoặc thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trường và bà Thoa là một sự thiếu sót, không đảm bảo quyền lợi hợp pháp của họ.

Theo báo cáo của Cơ quan Thi hành án và khiếu nại của ông Trường, ngoài căn nhà 52,2 m² mà Tòa án giao cho ông Tận, còn có một căn nhà phụ 18,57 m² do ông Tận xây dựng trên đất mà Tòa án yêu cầu ông Tận trả lại cho ông Trường và bà Thoa Tuy nhiên, Tòa án vẫn chưa xem xét vấn đề này, gây khó khăn cho việc thi hành án.

Phần lấn cụ thể bao gồm:

- 52,2 m 2 đất đã xây dựng nhà

- 10,71 m 2 diện tích hai máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không

- 18,57 m 2 đất đã xây dựng căn nhà phụ

Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất (không gian, mặt đất, lòng đất) thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên?

Quyết định số 617 chỉ ra rằng gia đình ông Hòa đã xâm phạm vào khu đất thuộc quyền sở hữu của gia đình ông Trụ và bà Nguyên.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã xác định rằng gia đình ông Hòa đã xây dựng 4 ô văng cửa sổ và một máng bê tông chờm qua phần đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ và bà Nguyên Do đó, quyết định buộc gia đình ông Hòa phải tháo dỡ các công trình này là hoàn toàn có căn cứ.

Dưới lòng đất sát tường nhà ông Hòa có ống nước do gia đình ông chôn, nhưng cả Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều không yêu cầu gia đình ông Hòa tháo dỡ Điều này không đúng và không đảm bảo quyền lợi cho gia đình ông Trụ.

BLDS có quy định nào điều chỉnh việc lấn chiếm đất, lòng đất và không gian thuộc quyền sử dụng của người khác không?

BLDS 2005 quy định rõ về việc lấn chiếm đất, lòng đất, và không gian thuộc quyền sử dụng của người khác Cụ thể, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 265 nêu rõ nghĩa vụ tôn trọng ranh giới giữa các bất động sản.

Người sử dụng đất có quyền khai thác không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng trong khuôn viên đất của mình, phù hợp với quy hoạch xây dựng được cơ quan nhà nước phê duyệt, đồng thời không làm ảnh hưởng đến quyền sử dụng đất của người khác Họ chỉ được phép trồng cây và thực hiện các hoạt động khác trong khuôn viên đất đã được xác định; nếu có rễ hoặc cành cây vượt qua ranh giới, người sử dụng đất phải thực hiện việc cắt tỉa, trừ khi có thỏa thuận khác.

Trong trường hợp ranh giới được xác định bởi kênh, mương, hào, rãnh hoặc bờ ruộng, người sử dụng đất phải có trách nhiệm tôn trọng và duy trì ranh giới chung Họ không được phép lấn chiếm hoặc thay đổi mốc giới ngăn cách.

Trong BLDS 2015 cũng có quy định điều chỉnh việc lấn chiếm đất, lòng đất, không gian thuộc quyền sử dụng của người khác Cụ thể:

Khoản 2 Điều 175 về Ranh giới giữa các bất động sản quy định:

Người sử dụng đất có quyền sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới thửa đất của mình, nhưng phải tuân thủ quy định pháp luật và không được ảnh hưởng đến quyền sử dụng đất của người khác.

Người sử dụng đất chỉ được phép trồng cây và thực hiện các hoạt động khác trong khuôn viên đất của mình, theo ranh giới đã được xác định Nếu rễ hoặc cành cây vượt quá ranh giới này, cần phải xén rễ và cắt tỉa phần vượt quá, trừ khi có thỏa thuận khác.

Và Điều 176 về Mốc giới ngăn cách các bất động sản quy định:

1 Chủ sở hữu bất động sản chỉ được dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường ngăn trên phần đất thuộc quyền sử dụng của mình.

Các chủ sở hữu bất động sản liền kề có thể thống nhất với nhau để thiết lập cột mốc, hàng rào, cây xanh hoặc tường ngăn tại ranh giới, nhằm xác định rõ ràng mốc giới phân chia giữa các bất động sản Những vật mốc giới này sẽ trở thành tài sản chung của các chủ sở hữu liên quan.

Trong trường hợp mốc giới hạn ngăn cách được tạo ra bởi một bên trên ranh giới và được chủ sở hữu bất động sản liền kề đồng ý, mốc giới đó sẽ được coi là sở hữu chung Chi phí xây dựng sẽ do bên tạo ra mốc giới chịu, trừ khi có thỏa thuận khác Nếu chủ sở hữu bất động sản liền kề không đồng ý và có lý do chính đáng, thì bên đã dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây hoặc xây tường ngăn phải có trách nhiệm dỡ bỏ.

Chủ sở hữu bất động sản liền kề không được phép mở cửa sổ, lỗ thông khí hoặc đục tường trên mốc giới là tường nhà chung, trừ khi có sự đồng ý từ chủ sở hữu bất động sản liền kề.

Khi nhà xây dựng riêng biệt nhưng tường sát nhau, chủ sở hữu chỉ được phép đục tường và xây dựng đến giới hạn tường của mình Đối với cây nằm trên mốc giới chung, các bên có trách nhiệm bảo vệ và hoa lợi từ cây sẽ được chia đều, trừ khi có thỏa thuận khác.

Ở nước ngoài, việc lấn chiếm như trên được xử lý như thế nào?

Ở nước ngoài, việc xử lý lấn chiếm cũng khá phổ biến Và pháp luật sẽ không

Trong trường hợp lấn chiếm tài sản của người khác, ngay cả khi chỉ là một phần nhỏ, pháp luật Pháp yêu cầu phải tháo dỡ công trình vi phạm Cụ thể, khi ông Y lấn chiếm 6 cm đất của vợ chồng ông X, yêu cầu tháo dỡ đã bị Tòa phúc thẩm Orléans bác bỏ với lý do ông Y có thiện chí và mức độ lấn chiếm không đáng kể Tuy nhiên, Tòa giám đốc thẩm đã không đồng ý với quyết định này, khẳng định rằng không ai có thể bị buộc phải chuyển nhượng tài sản của mình trừ khi vì lợi ích cộng đồng, từ đó hủy án phúc thẩm.

Theo pháp luật Pháp, chủ sở hữu bất động sản có hành vi lấn chiếm, dù là cố ý hay vô tình, vào bất động sản liền kề phải thực hiện việc tháo dỡ hoặc cắt bỏ phần lấn chiếm Chủ sở hữu bất động sản bên cạnh có quyền yêu cầu tháo dỡ hoặc cắt bỏ phần tài sản bị lấn chiếm.

Quyết định số 617 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao chỉ rõ rằng gia đình ông Hòa phải tháo dỡ tài sản đã lấn chiếm không gian, mặt đất và lòng đất của gia đình ông Trụ và bà Nguyên.

Trong quá trình sửa chữa nhà, gia đình ông Hòa đã thực hiện việc làm 4 ô văng cửa sổ, một máng bê tông và chôn ống thoát nước bên ngoài tường nhà Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã xác định rằng các công trình này của gia đình ông Hòa đã vượt qua phần đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ.

2 Xem Đỗ Văn Đại - Lương Văn Lắm (2010), “Xử lý việc lấn chiếm tài sản người khác trong pháp luật ViệtNam”, Tạp chí khoa học pháp lý, Số 4 (59), tr.61.

Nguyên nên quyết định buộc gia đình ông Hòa phải tháo dỡ là có căn cứ.

Dưới lòng đất sát tường nhà ông Hòa có ống nước do gia đình ông chôn, tuy nhiên, cả Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều không yêu cầu gia đình ông Hòa tháo dỡ, điều này là không đúng và không bảo vệ quyền lợi của gia đình ông Trụ.

3.6 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

- Hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là hợp lý.

Ông Hòa đã lấn chiếm đất và không gian thuộc quyền sử dụng của ông Trụ và bà Nguyên, vì vậy Tòa án yêu cầu ông Hòa tháo dỡ là đúng theo Điều 265, 266 BLDS 2005 Mặc dù lòng đất sát tường nhà ông Hòa có ống nước do gia đình ông chôn, nhưng cả Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều không yêu cầu gia đình ông tháo dỡ, điều này không đảm bảo quyền lợi cho gia đình ông Trụ và bà Nguyên Do đó, yêu cầu xét xử lại vụ án của Tòa án nhân dân tối cao là hoàn toàn hợp lý theo quy định pháp luật.

Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy Tòa án không buộc ông Tận tháo dỡ nhà đã được xây dựng trên đất lấn chiếm (52,2m 2 )?

Đoạn của Quyết định số 23 cho thấy Tòa án không buộc ông Tận tháo dỡ nhà đã được xây dựng trên đất lấn chiếm (52,2 m 2 ):

Tòa án cấp phúc thẩm quyết định ông Tận phải trả lại 132,8 m² đất trồng cho ông Trường và bà Thoa, trong khi phần đất 52,2 m² mà ông Tận đã xây nhà được phép tiếp tục sử dụng, nhưng ông phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trường và bà Thoa Quyết định này được coi là hợp tình, hợp lý.

Ông Trường, bà Thoa có biết và phản đối ông Tận xây dựng nhà trên không?

- Ông Trường, bà Thoa không biết và phản đối ông Tận xây dựng nhà trên.

- Vì theo lời khai của ông Tận: “Lúc ông xây nhà thì gia đình ông Trường không có ý kiến”.

Nếu ông Trường, bà Thoa biết và phản đối ông Tận xây dựng nhà trên thì ông Tận có phải tháo dỡ nhà để trả lại đất cho ông Trường, bà Thoa không? Vì sao? 15 3.10 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến phần đất ông Tận lấn chiếm và xây nhà trên

Nếu ông Trường và bà Thoa có ý kiến phản đối việc ông Tận xây dựng nhà trên đất của họ, ông Tận sẽ phải tháo dỡ công trình và trả lại đất cho ông Trường, bà Thoa.

Theo Điều 259 Bộ luật Dân sự 2005, cá nhân có quyền yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt các hành vi cản trở trái pháp luật đối với quyền sở hữu và quyền chiếm hữu hợp pháp của mình.

Chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật Nếu không có sự chấm dứt tự nguyện, họ có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền can thiệp để buộc người vi phạm chấm dứt hành vi đó.

Ông Trường và bà Thoa sở hữu hợp pháp 185 m² đất, mà gia đình ông đã quản lý từ trước khi xảy ra việc sang nhượng giữa ông Tận và anh Kiệt Năm 1994, Ủy ban nhân dân huyện Cái Nước đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông Trường, vì vậy ông có quyền yêu cầu ông Tận không được xây dựng hoặc sử dụng mảnh đất này.

3.10 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến phần đất ông Tận lấn chiếm và xây nhà trên.

- Hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến phần đất ông Tận lấn chiếm và xây dựng trên là hợp lý.

Ông Tận đã lấn chiếm đất và xây dựng nhà trên phần đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trường, người đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Do đó, ông Tận cần phải trả lại phần đất lấn chiếm cho gia đình ông Trường và thanh toán giá trị của phần đất đã xây dựng nếu muốn tiếp tục sử dụng Điều này đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên, ông Trường và ông Tận.

Theo Tòa án, phần đất ông Tận xây dựng không phải hoàn trả cho ông Trường, bà Thoa được xử lý như thế nào? Đoạn nào của Quyết định số 23 cho câu trả lời?

số 23 cho câu trả lời?

Theo quyết định của Tòa án, phần đất mà ông Tận đã xây dựng không cần phải hoàn trả cho ông Trường Bà Thoa sẽ bị xử lý trong vụ việc này, trong khi phần đất 52,2 m² mà ông Tận lấn chiếm để xây dựng nhà sẽ được giao cho ông Tận sử dụng, nhưng ông phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trường.

Theo Quyết định số 23, phần đất của ông Tận, mặc dù có lấn chiếm, nhưng đã xây dựng nhà với diện tích 52,2 m2, sẽ được giao cho ông Tận sử dụng Tuy nhiên, ông Tận phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trường và bà Thoa, điều này được coi là hợp lý và hợp tình.

Đã có quyết định nào của Hội đồng thẩm phán theo hướng giải quyết như Quyết định số 23 liên quan đến đất bị lấn chiếm và xây dựng nhà không? Nêu rõ Quyết định mà anh/chị biết

Hội đồng thẩm phán đã ra quyết định theo hướng giải quyết tương tự như Quyết định số 23, liên quan đến vấn đề đất bị lấn chiếm và xây dựng nhà Quyết định này được ghi nhận trong Quyết định số 02/2006/DS-GĐT ngày 21/02/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, liên quan đến vụ án "Tranh chấp về bồi thường thiệt hại".

Quyết định số 02/2006/DS-GĐT ngày 21-2-2006 của Hội đồng thẩm phán (HĐTP) Tòa án nhân dân tối cao, trong phần Xét thấy:

Theo văn bản hợp đồng mua bán nhà ngày 30-12-1973 giữa ông Vui và bà Anh, căn nhà của bà Anh có chiều rộng mặt tiền là 7,4m Giấy phép xây dựng số 51/GP.SXD ngày 8-2-1996 của Sở Xây dựng tỉnh Đăk Lăk cũng xác nhận chiều rộng mặt tiền này Tuy nhiên, biên bản đo đạc của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk cho thấy bà Anh đã xây dựng mặt tiền rộng 7,63m, vượt quá giấy phép xây dựng và diện tích đất được quyền sử dụng là 23cm Đặc biệt, bà Anh đã xây kiềng móng đè lên 20cm móng của nhà ông Dũng.

Bà Anh đã lấn chiếm đất của ông Dũng, theo nguyên tắc bà phải tháo dỡ công trình Tuy nhiên, ông Dũng không phản đối khi bà xây dựng sát tường nhà mình từ tháng 2 đến tháng 6 năm 1996 Việc buộc bà Anh tháo dỡ công trình đã hoàn thiện sẽ gây thiệt hại lớn cho gia đình bà Do đó, HĐTP đồng ý với quan điểm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, quyết định không buộc bà Anh tháo dỡ mà chỉ yêu cầu bồi thường bằng tiền là hợp lý.

Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán

- Hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán trong Quyết định số 23 là hợp lý, đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự Vì:

Ông Tận mua đất từ anh Kiệt chỉ bằng giấy tay mà không có hợp đồng chính thức, dẫn đến việc không xác định rõ ranh giới Do đó, ông Tận không có căn cứ pháp lý cho quyền sử dụng đất và buộc phải trả lại cho ông Trường và bà Thoa diện tích 132,8 m².

+ Phần đất ông Tận xây dựng nhà (52,2 m 2 ) buộc ông Tận phải tháo dỡ lại không đảm bảo quyền lợi cho ông Tận.

Điểm hai máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không đất của ông Trường với diện tích 10,71 m² và nhà phụ 18,57 m² chưa được Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xem xét để buộc ông Tận tháo dỡ hoặc thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trường và bà Thoa, điều này không đảm bảo quyền lợi hợp pháp của họ.

Do đó, hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán trong Quyết định số 23 là hợp lý.

Đối với phần chiếm không gian 10,71 m 2 và căn nhà phụ có diện tích 18,57

Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm không yêu cầu tháo dỡ phần chiếm không gian 10,71 m² và căn nhà phụ có diện tích 18,57 m² trên đất lấn chiếm.

- Vì theo Quyết định số 23:

Căn nhà của ông Tận không chỉ có diện tích 52,2 m² mà còn có hai máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không 10,71 m² trên đất của ông Trường và bà Thoa Việc Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xem xét yêu cầu buộc ông Tận phải tháo dỡ hoặc thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trường và bà Thoa là thiếu sót, không đảm bảo quyền lợi hợp pháp của họ.

Theo báo cáo của Cơ quan Thi hành án và khiếu nại của ông Trường, ông Tận không chỉ được giao sử dụng căn nhà chính với diện tích 52,2 m² mà còn có thêm một căn nhà phụ.

Ông Tận đã xây dựng 18,57 m² trên diện tích đất mà Tòa án các cấp yêu cầu ông phải trả lại cho ông Trường và bà Thoa Tuy nhiên, việc Tòa án chưa xem xét và giải quyết vấn đề này đã gây khó khăn cho quá trình thi hành án.

Theo anh/chị thì nên xử lý phần lấn chiếm không gian 10,71 m 2 và căn nhà phụ trên như thế nào?

Nên xử lý phần lấn chiếm không gian 10,71 m 2 và căn nhà phụ sau:

Ông Tận được yêu cầu tháo dỡ hai máng xối đúc bê tông vì chúng đã lấn chiếm không gian đất của ông Trường và bà Thoa.

- Đối với căn nhà phụ, giao cho ông Tận sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trường và bà Thoa.

Ông Tận được yêu cầu tháo dỡ hai máng xối đúc bê tông đang lấn chiếm không gian đất của ông Trường và bà Thoa.

- Đối với căn nhà phụ, ông Trường muốn sử dụng thì phải trả lại chi phí xây dựng cho ông Tận.

Tuy nhiên, nếu hai bên có thỏa thuận khác thì nên tôn trọng thỏa thuận của 2 bên.

Suy nghĩ của anh/chị về xử lý việc lấn chiếm quyền sử dụng đất và không

Tòa án hiện nay chưa áp dụng một cách chính xác các quy định pháp luật trong việc giải quyết các vụ lấn chiếm quyền sử dụng đất và không gian tại Việt Nam.

Có quan điểm cho rằng:

Theo nguyên tắc, việc tháo dỡ công trình là cần thiết để khôi phục quyền sở hữu cho chủ sở hữu bị lấn chiếm Tuy nhiên, từ góc độ kinh tế, việc quy định ngoại lệ cho tháo dỡ công trình vi phạm có thể giúp tránh lãng phí và bảo vệ hiệu quả quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan Nếu chỉ tập trung vào việc bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản bị lấn chiếm, như hiện nay, sẽ không đủ để bảo vệ lợi ích hợp pháp của bên bị lấn chiếm.

Việc Tòa án hiện nay áp dụng ngoại lệ trong xử lý vụ việc đã xâm hại quyền sở hữu của người sử dụng đất, điều này đi ngược lại với các quy định pháp luật hiện hành.

Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi kinh tế phát sinh từ hành vi lấn chiếm trái phép, khi mà chủ thể lấn chiếm không có căn cứ pháp lý và không có quyền sử dụng đất, không gian.

Tòa án đã không xem xét mong muốn của chủ thể quyền sử dụng đất khi đưa ra quyết định xử lý, buộc người lấn chiếm trái pháp luật phải bồi thường giá trị quyền sử dụng đất cho phần đất bị xâm phạm Điều này dẫn đến việc chủ sở hữu thực sự không có quyền quyết định về tài sản của mình, vi phạm quyền định đoạt mà pháp luật lẽ ra phải bảo vệ.

Hướng xử lý việc chiếm hữu trái phép quyền sử dụng đất và không gian thuộc sở hữu của chủ thể khác cần được thực hiện một cách nghiêm túc, nhằm bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp và tuân thủ quy định của pháp luật.

Hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 23 có còn phù hợp với BLDS 2015 không? Vì sao?

Hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 23 còn phù hợp với BLDS 2015 Vì căn cứ cơ sở pháp lý tại Khoản 2 Điều 164 BLDS 2015 quy định:

Chủ sở hữu và các chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người vi phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với quyền sở hữu và các quyền khác, đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Ông Trường và bà Thoa có quyền yêu cầu Tòa án buộc ông Tận trả lại 132,8 m² đất đã lấn chiếm, thuộc quyền sở hữu của họ Đối với phần đất 52,2 m² mà ông Tận đã xây dựng nhà, ông Tận có thể tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trường và bà Thoa Ngoài ra, hai máng xối đúc bê tông cũng cần được xem xét trong quá trình giải quyết.

Trong bài viết của Đỗ Văn Đại và Lương Văn Lắm (2010) trên Tạp chí khoa học pháp lý, tác giả phân tích vấn đề lấn chiếm tài sản trong pháp luật Việt Nam Cụ thể, trường hợp ông Trường và bà Thoa đang gặp phải tình trạng lấn chiếm với diện tích đất 10,71 m² và căn nhà phụ 18,57 m² của ông Tận được xây dựng trên đất của họ.

Trường có quyền yêu cầu ông Tận tháo dỡ hoặc giao quyền sử dụng đất cho ông Tận, nhưng điều kiện là phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trường và bà Thoa.

Do đó, hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 23 còn phù hợp với BLDS 2015.

Ngày đăng: 07/03/2022, 18:49

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w