Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Di chúc tự viết tay, hay còn gọi là di chúc thủ tự, là loại di chúc được lập bởi chính người lập di chúc bằng tay Theo Bộ luật dân sự năm 2015, di chúc tự viết tay phải đáp ứng các điều kiện về hình thức để có giá trị pháp lý.
Di chúc hợp pháp phải được viết tay, nghĩa là người lập di chúc cần phải biết chữ và có khả năng viết Do đó, di chúc được đánh máy không có giá trị pháp lý, ngay cả khi người lập di chúc biết đánh chữ và tự tay đánh máy nội dung của di chúc.
Theo Điều 627, di chúc phải được lập thành văn bản, và nếu không thể thực hiện bằng văn bản, có thể sử dụng hình thức di chúc miệng.
- Thứ ba, người lập di chúc phải minh mẫn sáng suốt vào thời điểm lập di chúc Theo khoản 1 và khoản 4 Điều 630 về Di chúc hợp pháp quy định:
Di chúc hợp pháp cần đáp ứng các điều kiện sau: người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt và không bị lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép trong quá trình lập di chúc Nội dung di chúc không được vi phạm các quy định pháp luật và không trái với đạo đức xã hội, đồng thời hình thức của di chúc cũng phải tuân thủ quy định của pháp luật.
Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực sẽ chỉ được coi là hợp pháp nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định tại khoản 1 của Điều này.
- Thứ tư, nội dung của di chúc phải đảm bảo các nội dung cơ bản quy định tại Điều 631 về Nội dung của di chúc:
Di chúc cần bao gồm các thông tin quan trọng như ngày, tháng, năm lập di chúc; họ, tên và địa chỉ của người lập di chúc; họ, tên của người, cơ quan, tổ chức thụ hưởng di sản; cùng với mô tả di sản để lại và địa điểm lưu giữ di sản đó.
1Đỗ Văn Đại (2018), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật TPHCM, Nxb Hồng Đức, Chương VI, tr.467.
Trong cuốn sách "Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án" của Đỗ Văn Đại (2019), xuất bản lần thứ tư bởi Nxb Hồng Đức và Hội Luật gia Việt Nam, tác giả đã phân tích và bình luận về các bản án số 52-55 trong Tập 1, trang 453 Cuốn sách cung cấp cái nhìn sâu sắc về các vấn đề pháp lý liên quan đến luật thừa kế tại Việt Nam, giúp độc giả hiểu rõ hơn về thực tiễn áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này.
2 Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có các nội dung khác.
Di chúc không được viết tắt hoặc sử dụng ký hiệu; nếu di chúc có nhiều trang, mỗi trang cần phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Trong trường hợp di chúc có tẩy xóa hoặc sửa chữa, người viết di chúc hoặc người làm chứng cần ký tên bên cạnh các phần đã tẩy xóa hoặc sửa đổi để xác nhận sự thay đổi.
Theo Điều 633, để di chúc có giá trị pháp lý, người lập di chúc phải tự tay viết và ký tên vào bản di chúc Việc tự viết di chúc là điều kiện cần thiết để đảm bảo tính hợp pháp của tài liệu này.
Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 của Bộ luật này.
Di chúc không chỉ yêu cầu nội dung phải do người để lại di sản tự viết tay, mà chữ ký cũng phải do chính người đó thực hiện Yêu cầu này giúp xác nhận danh tính của người viết di chúc và khẳng định rõ ràng ý chí của họ.
Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
Theo Điều 632 BLDS 2015, những người làm chứng cho di chúc của ông Này, bao gồm cha, em gái và em trai ông, không đủ tư cách làm chứng hợp pháp, vì họ là người thừa kế Do đó, nếu di chúc yêu cầu có người làm chứng, thì những người này không thể được công nhận là chứng nhân hợp lệ.
Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1 Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2 Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
Bài viết "Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án" của Đỗ Văn Đại (2019) cung cấp cái nhìn sâu sắc về các bản án liên quan đến luật thừa kế, được xuất bản lần thứ tư bởi Nxb Hồng Đức và Hội Luật gia Việt Nam Tài liệu này, đặc biệt tập trung vào Bản án số 52-55, nằm trong Tập 1, trang 453-454, mang lại những phân tích và bình luận quan trọng, giúp độc giả hiểu rõ hơn về quy định và thực tiễn áp dụng luật thừa kế tại Việt Nam.
Đỗ Văn Đại (2019) trong tác phẩm "Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án" (tái bản lần thứ tư, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam) đã phân tích các bản án số 52-55 ở Tập 1, trang 455, cung cấp cái nhìn sâu sắc về luật thừa kế và những tình huống pháp lý liên quan.
3 Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Và khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 về những người thừa kế theo pháp luật quy định:
Theo quy định pháp luật, những người thừa kế được phân chia thành ba hàng: Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm vợ, chồng, cha mẹ, và con cái của người chết; Hàng thừa kế thứ hai gồm ông bà, anh chị em ruột và cháu ruột nếu người chết là ông bà; Hàng thừa kế thứ ba là cụ nội, cụ ngoại, cùng với các bác, chú, cậu, cô, dì và cháu ruột nếu người chết là bác, chú, cậu, cô, dì, cũng như chắt ruột nếu người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Theo Bản án số 83/2009/DSPT, những người làm chứng di chúc cho ông Này gồm cha, em gái và em trai ông, nhưng họ không đủ điều kiện làm chứng theo khoản 1 Điều 632 BLDS 2015 vì là những người thừa kế theo pháp luật Cụ thể, cha ông Này thuộc hàng thừa kế thứ nhất, trong khi em trai và em gái thuộc hàng thừa kế thứ hai, theo quy định tại khoản 1 Điều 651 BLDS 2015.
Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?
Di chúc của ông Này không là di chúc do ông Này tự viết tay.
Theo Điều 633 BLDS 2015, người lập di chúc phải tự viết tay và ký tên vào bản di chúc Mặc dù ông Này đã tự tay viết di chúc khi hoàn toàn minh mẫn, không bị lừa dối hay cưỡng ép, nhưng bản án không rõ ràng về việc ông có ký tên hay không Nếu di chúc có chữ ký, cần phải giám định để xác định đó có phải là chữ ký của ông Này hay không Tuy nhiên, bản án không đề cập đến việc giám định chữ ký, do đó chưa đủ cơ sở để khẳng định di chúc của ông Này là hợp pháp.
Hướng giải quyết của Tòa án đối với di chúc do ông Này tự viết tay cần được xem xét kỹ lưỡng Việc công nhận tính hợp pháp của di chúc này phụ thuộc vào các quy định pháp luật về hình thức và nội dung của di chúc Tòa án phải đảm bảo rằng di chúc phản ánh đúng ý chí của người lập di chúc và không vi phạm các quy định hiện hành Sự rõ ràng và minh bạch trong nội dung di chúc cũng là yếu tố quan trọng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
Khi di chúc đó là di chúc do ông Này tự viết tay thì hướng giải quyết trên của Tòa án là chưa thỏa đáng Vì:
Tòa án đã xác nhận rằng di chúc được viết bởi ông Này khi ông hoàn toàn minh mẫn và không bị lừa dối hay cưỡng ép Tuy nhiên, bản án không nêu rõ ông có ký tên hay điểm chỉ vào di chúc hay không, cũng như liệu nội dung của di chúc có tuân thủ quy định tại Điều 631 Bộ luật Dân sự 2015 hay không.
Mặc dù Tòa án đã công nhận di chúc là hợp pháp, vẫn tồn tại một số sai sót trong quá trình xử lý, đặc biệt liên quan đến người làm chứng và yêu cầu công chứng, chứng thực Đối với di chúc tự viết tay, giá trị pháp lý không nhất thiết phải có người làm chứng hay công chứng, chứng thực, mà chỉ cần đáp ứng các điều kiện hình thức nhất định.
+ Người lập di chúc phải có năng lực lập di chúc và phải minh mẫn, sáng suốt vào thời điểm lập di chúc.
+ Di chúc phải do chính người để lại di sản tự mình viết bằng chữ viết và tự mình ký tên, điểm chỉ vào tờ di chúc
Theo chuyên gia về thừa kế của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, di chúc do người lập tự tay viết và ký là hợp pháp mà không cần có người làm chứng, công chứng hay chứng thực.
Di chúc do người để lại di sản tự viết và có người làm chứng sẽ tăng tính thuyết phục, tuy nhiên, người làm chứng phải tuân theo Điều 632 BLDS 2015 Theo Bản án số 83/2009/DSPT, những người làm chứng cho di chúc của ông Này là cha, em gái và em trai ông, nhưng họ không đủ điều kiện làm chứng vì đều là những người thừa kế theo pháp luật của ông Cụ thể, cha ông thuộc hàng thừa kế thứ nhất, trong khi em trai và em gái thuộc hàng thừa kế thứ hai, theo khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 Do đó, những người này không thể làm chứng cho di chúc của ông Này.
Theo Đỗ Văn Đại (2019) trong tác phẩm "Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án", việc Tòa án chấp nhận người làm chứng liên quan đến di sản của ông Này là không hợp lý Điều này đặt ra vấn đề về tính hợp pháp của người làm chứng trong các vụ án thừa kế, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ quy định pháp luật trong quá trình xét xử.
Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
Di chúc của cụ Hựu đã được lập như sau:
Vào ngày 25 tháng 11 năm 1998, di chúc được cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, trong đó cụ Hựu đã điểm chỉ, còn ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý, mẹ của ông Vũ, đã ký tên làm chứng.
- Ngày 04/01/1999 bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (làTrưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.
Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời? 6 1.7 Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Cụ Hựu không biết chữ Trong phần Xét thấy của Quyết định số 874 cho câu trả lời: “Ông Quang xác định cụ Hựu là người không biết chữ”.
1.7 Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện sau để có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật:
Để di chúc có hiệu lực, cần lập di chúc bằng văn bản và thực hiện theo thủ tục công chứng, chứng thực Ngoài ra, di chúc phải có người làm chứng trong quá trình lập, công chứng, chứng thực Theo khoản 3 Điều 630 BLDS 2015, di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc người không biết chữ phải được lập thành văn bản bởi người làm chứng và có công chứng hoặc chứng thực.
Theo Điều 634 BLDS 2015, người lập di chúc cần phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước sự chứng kiến của những người làm chứng Những người này sẽ xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc và cũng phải ký vào bản di chúc để đảm bảo tính hợp pháp.
Nếu người lập di chúc không tự viết, họ có thể đánh máy hoặc nhờ người khác soạn thảo, nhưng cần có ít nhất hai người làm chứng Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt các chứng nhân, và những người này sẽ xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của họ bằng cách ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này.
Theo quy định tại Điều 632 BLDS 2015, người làm chứng cho việc lập di chúc phải là người làm chứng hợp pháp Đối với việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã, cần tuân theo thủ tục được quy định tại Điều 636 BLDS 2015.
Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:
Người lập di chúc cần tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền sẽ ghi chép lại nội dung này Sau khi xác nhận rằng bản di chúc đã được ghi chép chính xác và phản ánh đúng ý chí của mình, người lập di chúc sẽ ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc Cuối cùng, công chứng viên hoặc người có thẩm quyền cũng sẽ ký vào bản di chúc.
Trong trường hợp người lập di chúc không thể đọc, nghe, ký hoặc điểm chỉ, họ cần nhờ một người làm chứng Người làm chứng này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền sẽ chứng nhận bản di chúc trước sự có mặt của người lập di chúc và người làm chứng.
Các điều kiện nào nêu trên đã được áp dụng đối với di chúc của ông Hựu? .7 1.9 Các điều kiện nào nêu trên đã không được áp dụng đối với di chúc của ông Hựu?
Các điều kiện đã được áp dụng đối với di chúc của cụ Hựu:
- Thứ nhất, di chúc đã lập thành văn bản: “Di chúc do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết”.
Người lập di chúc cần phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước sự chứng kiến của những người làm chứng Cụ thể, di chúc được đọc bởi cụ Hựu và ông Vũ thực hiện việc viết lại, trong đó cụ Hựu đã điểm chỉ.
Vào thứ ba, các nhân chứng đã xác nhận chữ ký và điểm chỉ của người lập di chúc, đồng thời ký vào bản di chúc Cụ thể, ông Vũ và mẹ ông, cụ Đỗ Thị Quý, đã ký tên làm chứng cho tính xác thực của di chúc.
1.9 Các điều kiện nào nêu trên đã không được áp dụng đối với di chúc của cụ Hựu?
Di chúc của cụ Hựu không được áp dụng theo thủ tục công chứng và chứng thực đúng quy định, như được nêu rõ trong khoản 1 Điều 658 Bộ luật Dân sự 2005 Thẩm phán Chu Xuân Minh đã chỉ ra rằng, nếu người lập di chúc tự mình đi công chứng, thì di chúc đó sẽ hợp pháp, ngay cả khi không phải do chính tay họ viết Tuy nhiên, trong trường hợp này, di chúc không do cụ Hựu tự mang đi công chứng mà do bà Lựu thực hiện, dẫn đến việc không đáp ứng được các điều kiện về công chứng và chứng thực.
Vào ngày 04/01/1999, bà Lựu đã mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng, Trưởng thôn, và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm để xác nhận Tuy nhiên, ông Thưởng không chứng kiến cụ Hựu lập di chúc, và việc xác nhận của Ủy ban nhân dân xã chỉ là xác nhận chữ ký của ông Thưởng mà không xác nhận nội dung di chúc Do đó, di chúc của cụ Hựu không được lập theo thủ tục công chứng và chứng thực theo quy định.
Di chúc không thể được công chứng hoặc chứng thực nếu được lập sẵn và nhờ người khác thực hiện, vì người lập di chúc phải trực tiếp thể hiện ý chí của mình Sau khi công chứng viên hoặc viên chức có thẩm quyền chấp nhận, người lập di chúc cần ký tên trực tiếp trên từng trang của di chúc trước mặt họ Việc di chúc có chữ ký sẵn của người lập không đảm bảo an toàn pháp lý, có thể dẫn đến việc bị ép buộc hoặc ký khi không minh mẫn.
Đỗ Văn Đại (2019) đã trình bày trong tác phẩm "Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án" (Nxb Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, xuất bản lần thứ tư) các nội dung quan trọng liên quan đến bản án số 60-61, Tập 1, trang 503, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về hệ thống pháp luật thừa kế tại Việt Nam.
Đỗ Văn Đại (2019) trong tác phẩm "Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án" (xuất bản lần thứ tư, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam) đã phân tích Bản án số 60-61 trong Tập 1, trang 505, cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định và thực tiễn liên quan đến luật thừa kế tại Việt Nam.
Trong Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đỗ Văn Đại (2018), có đề cập đến vấn đề quan trọng liên quan đến tính hợp pháp của di chúc Cụ thể, việc giả mạo hoặc đánh tráo nội dung di chúc, từ việc thay đổi từng trang cho đến việc thay thế toàn bộ tờ di chúc, có thể xảy ra và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người thừa kế.
Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không? Vì sao?
Di chúc nêu trên không đáp ứng yêu cầu về hình thức theo quy định của pháp luật Mặc dù di chúc đã được lập thành văn bản và có người làm chứng, nhưng do cụ Hựu không biết chữ, di chúc chưa được công chứng hoặc chứng thực, dẫn đến việc không thỏa mãn các điều kiện theo Điều 636 Bộ luật Dân sự 2015.
Người lập di chúc cần tuyên bố nội dung di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã Công chứng viên sẽ ghi chép lại nội dung này, và sau khi người lập di chúc xác nhận rằng bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình, họ sẽ ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc Cuối cùng, công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực sẽ ký vào bản di chúc.
Nếu người lập di chúc không thể đọc, nghe, ký hoặc điểm chỉ, họ cần nhờ một người làm chứng Người làm chứng này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền sẽ chứng nhận bản di chúc trước mặt cả người lập di chúc và người làm chứng.
Cụ Hựu đã yêu cầu ông Vũ viết di chúc, và bà Lựu mang di chúc đến nhà ông Hoàng Văn Thưởng, Trưởng thôn, cùng với Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm để xác nhận Tuy nhiên, ông Thưởng không có mặt khi cụ Hựu lập di chúc, và việc xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm chỉ diễn ra sau hơn một tháng kể từ khi di chúc được lập Họ chỉ xác nhận chữ ký của ông Thưởng mà không xác nhận nội dung di chúc Do đó, di chúc của cụ Hựu không tuân thủ các thủ tục công chứng và chứng thực theo quy định.
Theo Quyết định, trường hợp của cụ Hựu không thuộc khoản 2 Điều 636 BLDS 2015 Cần phân biệt giữa di chúc viết hộ và di chúc do người không thể tự lập vì khiếm khuyết hoặc mù chữ.
Cần lưu ý rằng quy định về việc lập di chúc không áp dụng cho mọi cá nhân không thể tự viết di chúc, bao gồm cả người bị khiếm khuyết thể chất và người mù chữ Nếu người để lại di sản không thể tự viết di chúc, pháp luật yêu cầu họ phải lập di chúc bằng văn bản theo thủ tục công chứng, chứng thực, và cần có người làm chứng để di chúc có hiệu lực.
Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức
Theo Điều 630 BLDS 2015, di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc người không biết chữ cần phải có người làm chứng lập thành văn bản và được công chứng hoặc chứng thực.
Các quy định về di chúc của người không biết chữ trong Bộ luật Dân sự yêu cầu nhiều điều kiện hình thức hơn so với di chúc thông thường Điều này nhằm đảm bảo quyền lợi và tính xác thực của di chúc, khi mà người lập di chúc không biết chữ Việc yêu cầu đọc cho người làm chứng lập thành văn bản, cũng như công chứng hoặc chứng thực, giúp ngăn chặn tình trạng lợi dụng sự yếu thế của người mù chữ có tài sản để lập di chúc trái với ý chí của họ.
Mặc dù các điều luật về di chúc được quy định chặt chẽ, nhưng vẫn có khả năng di chúc không phản ánh đúng ý nguyện của người lập Quá trình tạo ra bản di chúc cuối cùng thường tốn thời gian và nhân lực, và các bên liên quan có thể không nắm rõ hết mong muốn của người lập, dẫn đến sai sót Do đó, các nhà làm luật nên xem xét áp dụng hình thức mới như băng ghi hình cho những người không biết chữ Việc ghi lại trực tiếp tâm tư và nguyện vọng của người lập di chúc sẽ giúp đảm bảo tính xác thực và tiết kiệm thời gian trong quá trình lập di chúc.
9Đô Văn Đại (2018), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật TPHCM,Nxb Hồng Đức, Chương VI, tr.470.
TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: Cụ Lê Thanh Quý
Bị đơn: ông Nguyễn Hữu Dũng và ông Nguyễn Hữu Lộc.
Cụ Quý và cụ Hương kết hôn năm 1955, có 12 con và sở hữu bất động sản tại 302 Nguyễn Thượng Hiền, quận Phú Nhuận, với diện tích 699m2 Sau khi cụ Hương qua đời vào ngày 06/04/2009, di chúc của cụ đã chia tài sản cho 5 người con Cụ Quý hiện khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung, đề nghị được hưởng giá trị căn nhà và 2/3 suất thừa kế theo di sản của cụ Hương Ông Lộc và ông Dũng không phản đối yêu cầu của cụ Quý nhưng đề nghị được giữ lại căn nhà mà họ đang quản lý Tòa giám đốc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án sơ thẩm và giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân TP HCM để xét xử lại theo quy định pháp luật.
Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27/9/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
Nguyên đơn: ông Trần Văn Y
Bị đơn: phòng công chứng M
Cụ D và cụ C sống chung mà không đăng ký kết hôn Vào năm 1959, cụ D đã mua đất ở xứ M của ông Đ, sau đó thực hiện việc đổi hợp tác xã N để lấy thêm ruộng ở đồng.
Vào khoảng năm 1960-1970, cụ D và cụ N đã sinh ra ông D1 Ngày 16/12/2009, cụ C lập di chúc để lại một phần tài sản, cụ thể là bất động sản tại thừa đất số 38, cho ông D1 Tiếp theo, vào ngày 15/01/2011, cụ D cũng lập di chúc tại Phòng công chứng M, xác định để lại phần tài sản của mình tại thừa đất nêu trên cho ông D1 Sau khi hai cụ qua đời, các di chúc này trở thành căn cứ pháp lý cho việc phân chia tài sản.
Phòng công chứng M đã công bố Di chúc liên quan đến di sản của hai cụ, cụ thể là thửa đất số 38 Ông Y khẳng định rằng ông đã mua thửa đất số 38 từ cụ C vào năm 1987.
Năm 1998, hai bên đã lập Giấy bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất cùng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Tuy nhiên, việc Phòng công chứng M công chứng di chúc của cụ D và Văn bản công bố di chúc của hai cụ đã ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của gia đình ông Do đó, ông đã khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố các văn bản công chứng này vô hiệu Tòa giám đốc thẩm đã quyết định hủy bản án phúc thẩm và sơ thẩm, đồng thời giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân TP Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
2.1 Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho câu trả lời?
Cụ Hương đã quyết định về tài sản nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu, hiện nay là 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận Quyết định số 359 đã nêu rõ trong phần Xét thấy về vấn đề này.
Theo hồ sơ vụ án, nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Dậu (hiện là 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận) đã được Ủy ban nhân dân quận Phú Nhuận cấp giấy chứng nhận cho cụ Nguyễn Văn Hương vào năm 1994.
Vào ngày 16 tháng 1 năm 2009, cụ Hương đã lập di chúc để lại toàn bộ nhà đất cho các con của cụ, bao gồm Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng và Quảng Thị Kiều, vợ của ông Nguyễn Hữu Trí.
Đoạn trong phần xét thấy của Quyết định số 359 chỉ ra rằng tài sản mà cụ Hương định đoạt trong di chúc thực chất là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý Cụ thể, quyết định nêu rõ: “Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý Việc cụ Hương lập di chúc cho toàn bộ nhà đất cho 5 người con trong khi không có sự đồng ý của cụ Quý là không đúng.”
10 Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, tr.7.
11 Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, tr.7.
Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số 359
Tòa án đã công nhận hiệu lực đối với 1/2 tài sản nhà đất của cụ Hương cho 5 người con, sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo quy định pháp luật, như được nêu trong phần Xét thấy của Quyết định số 359.
Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương, quyết định rằng di chúc có hiệu lực một phần đối với tài sản của cụ Hương, cụ thể là 1/2 nhà đất Tài sản này sẽ được chia đều cho năm người con: Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, và Quảng Trị Kiều (vợ ông Nguyễn Hữu Trí), sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo quy định của pháp luật.
Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm
Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý.
Di chúc của cụ Hương được lập hợp pháp về hình thức nhưng nội dung chỉ định di sản là tài sản chung với cụ Quý Tòa án quyết định công nhận 1/2 tài sản nhà đất của cụ Hương, chia cho 5 người con theo di chúc sau khi đã chi cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật, điều này hoàn toàn hợp lý Việc cụ Quý được hưởng tài sản nhà đất trong phần tài sản chung là đúng pháp luật.
Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý? Nếu cơ sở pháp lý khi trả lời
Nếu cụ Quý qua đời trước, di chúc của cụ Hương sẽ trở thành một phần tài sản hợp pháp trong khối tài sản chung của họ (1/2 nhà đất) Nếu cụ Quý để lại di chúc nhưng không chia tài sản cho cụ Hương, thì di chúc của cụ Hương vẫn có giá trị pháp lý, đồng thời cụ Hương còn được nhận thêm 2/3 suất thừa kế theo pháp luật, vì cụ Hương là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, theo quy định tại Điều 669 BLDS 2005.
12 Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, tr.7-8.
Nếu cụ Quý để lại di chúc chia di sản cho cụ Hương, thì phần di chúc của cụ Hương sẽ có giá trị pháp lý và được cộng thêm phần di sản mà cụ Hương nhận được, theo quy định tại Điều 631 Bộ luật Dân sự 2005.
Nếu cụ Quý không để lại di chúc, di sản của cụ sẽ được phân chia theo pháp luật cho những người thừa kế thứ nhất, bao gồm 12 người con và cụ Hương Trong trường hợp này, di chúc hợp pháp của cụ Hương sẽ được tính thêm 1/13 di sản mà cụ Quý để lại, theo quy định tại Điều 675 và 676 Bộ luật Dân sự 2005.
Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?
Theo quy định hiện hành, không có điều luật nào xác định giá trị di chúc nếu tài sản được định đoạt chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu tháng 4/2009 Trong thực tiễn xét xử, Tòa án thường xác định di sản từ thời điểm lập di chúc Do đó, trong trường hợp di chúc của cụ Hương được công chứng vào ngày 16/01/2009, nhưng tài sản chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu tháng 4/2009, thì di chúc này sẽ không có giá trị pháp lý.
Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết?
cụ D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết?
Theo nhận định của Tòa án, cụ C qua đời vào ngày 07/09/2010 và cụ D vào ngày 21/01/2011 Quyền sử dụng đất của hai cụ đã bị thu hồi trước khi họ qua đời, cụ thể là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21/07/2010 của Ủy ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên.
Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm?
Di sản của cụ C và cụ D liên quan đến quyền sử dụng đất, và đây là vấn đề quan trọng cần được làm rõ Tòa giám đốc thẩm đã đưa ra quyết định số 58, trong đó xác định di sản này một cách cụ thể Quan điểm của anh/chị về hướng xác định này của Tòa giám đốc thẩm là gì? Việc làm rõ quyền sử dụng đất trong di sản sẽ giúp đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
C và cụ D là quyền sử dụng đất: “Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13.”
13 Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27/9/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, tr.4.
Hướng xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý vì: thửa đất số 38,
Tờ bản đồ số 13 thuộc sở hữu của vợ chồng cụ C, nhưng đã bị Nhà nước thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21/7/2010 trong quá trình giải phóng mặt bằng Tuy nhiên, giá trị quyền sử dụng đất của người bị thu hồi vẫn được Nhà nước bảo đảm theo Luật Đất đai Do đó, Tòa án xác định di sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất là hoàn toàn hợp lý.
Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ
Ở Quyết định số 58, đoạn cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của cụ
C và cụ D là quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi: “Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ
Quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V Tuy nhiên, giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai Do đó, hai cụ có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản này cho ông D1, huyện C tỉnh Phú Thọ.
Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị H
Bị đơn Anh Hoàng Tuyết H và bà H kết hôn vào năm 1960, có bốn người con gồm anh H, anh H1, anh H2 và anh H3 Vợ chồng bà sở hữu một khối tài sản chung, bao gồm quyền sử dụng thửa đất số.
Vào ngày 10/08/2015, ông X và bà H đã lập di chúc chung, giao toàn bộ tài sản 967,4 m² cho con trai là anh H1 Sau khi ông X qua đời, các anh H, H2 và H3 không công nhận tính hợp pháp của di chúc và yêu cầu chia di sản Tuy nhiên, tòa án đã quyết định công nhận di chúc chung của ông X và bà H là hợp pháp, đồng thời không chấp nhận yêu cầu chia di sản của anh H và anh H2.
Đoạn nào của bản án số 14 cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ chồng?
Bộ luật Dân sự năm 2005 công nhận di chúc chung của vợ chồng nhưng không định nghĩa rõ ràng về khái niệm này Để được xem là di chúc chung, cần có sự thống nhất ý chí giữa cả hai vợ chồng Tòa án cũng đã có nhận định rõ ràng về vấn đề này trong Bản án số 14.
Ông X và bà H đã lập di chúc chung, thể hiện ý chí thống nhất về tài sản chung của họ sau khi qua đời Tòa án công nhận đây là di chúc chung của vợ chồng, khẳng định sự đồng thuận của cả hai trong việc quản lý tài sản.
14 Hoàng Thế Liên (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, Sđd, t.III, tr.78
15 Đỗ Văn Đại (2019), Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Vào ngày 21/8/2017, Bản án số 94-96, tập 2, trang 44 đã được xuất bản lần thứ tư Ông X đã qua đời vào tháng 01/2016 và để lại một bản di chúc chung của vợ chồng, được viết vào ngày 10/8/2015.
Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý theo Bộ luật Dân sự 2015 Di chúc hợp pháp phải được lập thành văn bản, và theo Điều 630 BLDS 2015, di chúc không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp nếu đáp ứng các điều kiện tại khoản 1 của điều này Điều kiện bao gồm việc người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép; nội dung di chúc không vi phạm luật pháp và không trái đạo đức xã hội; đồng thời hình thức di chúc cũng phải tuân thủ quy định của pháp luật.
Tòa án đã khẳng định rằng ông X có tinh thần tỉnh táo và minh mẫn trước khi qua đời, không cần điều trị y tế Sự thừa nhận này chứng minh ông X viết di chúc trong trạng thái khỏe mạnh, không bị ép buộc Nội dung di chúc hoàn toàn hợp pháp và không vi phạm đạo đức xã hội, phù hợp với quy định tại Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Theo Bộ luật Dân sự 2015, Tòa án đã công nhận di chúc chung của vợ chồng là hợp pháp Trong vụ việc này, Tòa án xác định rằng con đẻ của ông X và bà H không công nhận di chúc là hợp pháp Tuy nhiên, bà H đã khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận di chúc chung của vợ chồng bà Yêu cầu khởi kiện của bà H phù hợp với quy định tại chương XXII của Bộ luật Dân sự năm 2015 về thừa kế theo di chúc.
16 Tham khảo trong Đỗ Văn Đại (2019), Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb Hồng Đức-
Hội Luật gia Việt Nam (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 94-96, Tập 2, tr.72-73. phần Xét yêu cầu của anh H, anh H2 là chính đáng Tuy nhiên tài sản
Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015
ông X, bà H đã được định đoạt bằng di chúc chung của vợ chồng nên yêu cầu của các anh không được xem xét”.
3.3 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
Trước việc Bộ luật Dân sự 2015 không quy định về di chúc chung của vợ chồng, nhiều cặp đôi vẫn mong muốn duy trì truyền thống lập di chúc chung để quản lý tài sản chung Điều này đặt ra câu hỏi về cách thức xử lý các trường hợp này một cách hợp pháp và hiệu quả.
Năm 2015, mặc dù không duy trì các quy định về di chúc chung của vợ chồng đã có trước đó, nhưng luật không cấm việc lập di chúc chung giữa vợ chồng.
Theo quy định mới của Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể tại khoản 2 Điều 14, Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự chỉ vì chưa có điều luật cụ thể để áp dụng Trong trường hợp có tranh chấp về di chúc chung của vợ chồng liên quan đến tài sản chung, Tòa án vẫn phải tiến hành giải quyết nội dung tranh chấp Điều này khẳng định rằng việc Tòa án thụ lý các vụ việc như vậy hoàn toàn phù hợp với quy định của BLDS 2015.
Khoản 2 Điều 14 BLDS 2015 yêu cầu Tòa án giải quyết dựa trên Điều 5 và Điều 6 của bộ luật này Theo Điều 6, trong trường hợp phát sinh quan hệ dân sự mà không có thỏa thuận giữa các bên, không có quy định pháp luật hoặc tập quán áp dụng, thì sẽ áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự Đồng thời, khoản 2 Điều 3 BLDS 2015 nêu rõ rằng cá nhân và pháp nhân có quyền xác lập và thực hiện quyền dân sự của mình dựa trên sự tự do, tự nguyện cam kết và thỏa thuận, miễn là các cam kết này không vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội, đồng thời phải được tôn trọng bởi các chủ thể khác.
Việc lập di chúc chung của vợ chồng là một hành động tự do và tự nguyện, thể hiện cam kết và thỏa thuận giữa các bên mà không vi phạm các quy định pháp luật Do đó, bản di chúc được Tòa án huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai chấp nhận là hoàn toàn hợp pháp.
Nguyên đơn: Anh Phan Văn Được
Bị đơn: Anh Phan Văn Tân, Chị Phan Thị Hương Ông Phan Văn Mười (chết năm 1972) và bà Nguyễn Thị Lùng (chết năm
Vợ chồng bà Lùng (2005) có bảy người con: Thảo, Tân, Xuân, Nhành, Hoa, Được và Hương Di sản để lại là một căn nhà cấp 4 với diện tích khoảng 100m² tại Kim Sơn, thị trấn Long Thành Ngày 8/7/2004, bà Lùng lập di chúc để lại nhà đất cho bảy người con, đồng thời chỉ định anh Được quản lý và sử dụng cho việc thờ cúng Anh Tân và chị Hương yêu cầu giữ nguyên trạng căn nhà và đất như tài sản chung của cả bảy người Tòa án đã chấp nhận yêu cầu của anh Được, giao cho anh quyền sở hữu và sử dụng 57,25m² Anh Được có trách nhiệm thanh toán cho anh Tân và chị Hương mỗi người 37,424,000đ để hoàn tất di sản thừa kế.
4.1 Trong điều kiện nào di chúc dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? 17 Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Quyền định đoạt tài sản vào việc thờ cúng bị giới hạn nhằm đảm bảo nghĩa vụ tài sản của người quá cố được thực hiện Cụ thể, theo khoản 2 Điều 645 BLDS 2015, nếu toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản, thì không được dành một phần di sản cho việc thờ cúng Dù người lập di chúc có ý chí dành một phần di sản cho việc thờ cúng, nhưng ý chí đó không được pháp luật công nhận.
17 Tham khảo trong Đỗ Văn Đại (2019), Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb Hồng Đức-
Hội Luật gia Việt Nam (xuất bản lần thứ tư) đã nêu rõ trong Bản án số 84-87, Tập 1, tr.693-698 rằng quyền định đoạt di sản không áp dụng cho toàn bộ tài sản Cụ thể, nếu người lập di chúc để lại toàn bộ di sản cho việc thờ cúng, thì chỉ có một phần được dành cho mục đích này, phần còn lại sẽ được chia theo quy định của pháp luật.
Theo khoản 1 Điều 630 BLDS 2015, di chúc chỉ có hiệu lực khi người lập di chúc qua đời, do đó, trong thời gian người lập di chúc còn sống, chưa có di sản để sử dụng cho việc thờ cúng và họ có quyền thay đổi quyết định của mình.
4.2 Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc thờ cúng?
Bản án chỉ rõ rằng trong di chúc ngày 8/7/2004, bà Lùng đã để lại nhà đất cho 7 người con để thờ cúng cha mẹ Anh Được hiện đang quản lý di sản, và 5/7 anh chị em của anh đã đồng ý chia di sản, giao cho anh Được quyền sở hữu, điều này tạo cơ sở pháp lý để chấp nhận yêu cầu của anh Được.
Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?
Trong vụ việc này, không đề cập đến nghĩa vụ thanh toán tài sản của bà Lùng, do đó có thể hiểu rằng nghĩa vụ đó không tồn tại hoặc đã được hoàn tất.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 645 Bộ luật Dân sự 2015, quyền định đoạt tài sản liên quan đến việc thờ cúng bị hạn chế nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ tài sản của người quá cố.
Bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con cùng thừa hưởng nhằm mục đích thờ cúng cha mẹ Theo quy định pháp luật, trong trường hợp người lập di chúc để lại toàn bộ di sản cho việc thờ cúng, chỉ một phần di sản sẽ được dành cho mục đích này, phần còn lại sẽ được chia theo quy định của pháp luật.
Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ
18 Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb Tư pháp 2016, tr.994.
Ngày 08 tháng 7 năm 2004, mẹ của anh đã lập di chúc để lại tài sản cho 07 anh chị em Hiện tại, anh đang quản lý nhà đất, và vào năm 2005, các anh chị em đã họp lại để chia di sản của mẹ, tuy nhiên, anh Tân và chị Hương không đồng ý với việc chia này.
Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Tòa án đã chấp nhận việc chia di sản theo di chúc cho mục đích thờ cúng Cụ thể, các thừa kế thứ nhất gồm anh Thảo, anh Tân, anh Xuân, chị Nhành, chị Hoa, anh Được và chị Hương sẽ nhận di sản bằng nhau, mỗi người được hưởng giá trị 37.423.857 đồng từ tổng di sản 261.967.000 đồng Anh Được sẽ sở hữu di sản nhà đất và có trách nhiệm thanh toán cho các thừa kế còn lại số tiền tương ứng.
Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu
Suy nghĩ về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS
Điều 645 Bộ luật Dân sự chỉ quy định về việc người lập di chúc để lại một phần di sản cho mục đích thờ cúng, trong khi trường hợp sử dụng toàn bộ di sản cho việc thờ cúng lại không được đề cập.
Theo Điều 645 Bộ luật Dân sự, di sản thờ cúng chỉ được quy định về mặt định lượng mà chưa xác định rõ tính chất của tài sản được sử dụng cho việc thờ cúng.
Suy nghĩ về giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu
Theo Điều 645 Bộ luật Dân sự 2015, di sản dùng cho việc thờ cúng không được chia thừa kế và phải được giao cho một người quản lý Tuy nhiên, thực tế cho thấy Tòa án đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Được và tiến hành chia thừa kế, điều này là chưa hợp lý.
Cách xét xử của Tòa án chưa phù hợp với Khoản 1 Điều 645 BLDS 2015, khi mà nhà đất bà Lùng để lại lẽ ra phải được đồng sở hữu bởi 7 người con để thực hiện việc thờ cúng cha mẹ Việc nhiều con cái đồng ý chia di sản trái với ý chí của người lập di chúc, do đó không thể lấy lý do này để tiến hành chia di sản dùng cho mục đích thờ cúng.