CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1 Quan hệ hợp đồng trong nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, WTO
1.1 Kinh tế thị trường và mối quan hệ trong nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường đại diện cho sự phát triển cao của kinh tế hàng hóa, nơi mà các yếu tố sản xuất đều được điều tiết qua thị trường Kinh tế hàng hóa là một hình thức tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó sản phẩm được sản xuất chủ yếu để trao đổi và bán Mục tiêu của sản xuất trong kinh tế hàng hóa không phải để đáp ứng nhu cầu trực tiếp của người sản xuất, mà là để phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng và xã hội Mặc dù kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường có nguồn gốc và bản chất chung, nhưng chúng khác nhau về mức độ phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật kinh tế về sản xuất và lưu thông hàng hóa được phản ánh qua cơ chế thị trường, nơi người sản xuất và người tiêu dùng tương tác lẫn nhau Thị trường là điểm gặp gỡ của người mua và người bán, yêu cầu người sản xuất phải đáp ứng nhu cầu của thị trường thay vì chỉ sản xuất theo khả năng của mình Cơ chế thị trường hoạt động dựa trên các quy luật như giá trị, cung cầu và cạnh tranh, đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết sản xuất và tiêu dùng "Bàn tay vô hình" của thị trường giúp cơ cấu sản xuất và hàng hóa phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng về số lượng và chất lượng, đồng thời thiết lập mối quan hệ có lợi giữa người bán và người mua Thị trường cũng cung cấp thông tin cần thiết cho doanh nghiệp, tạo ra yếu tố cạnh tranh, thúc đẩy phát triển sản xuất, giảm chi phí, hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Một trong những đặc điểm chính của nền kinh tế thị trường là sự tự do trong việc trao đổi hàng hóa giữa người mua và người bán Người bán thường mong muốn bán với giá cao trong khi người mua lại tìm kiếm giá thấp Do đó, cần có sự thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa hai bên, được thể hiện qua hợp đồng Hợp đồng chính là sự thỏa thuận tự nguyện, bình đẳng giữa các bên tham gia, tuân thủ nguyên tắc không trái pháp luật.
Nền kinh tế thị trường dựa trên hệ thống các quan hệ hợp đồng, và sự thiếu hụt hợp đồng sẽ dẫn đến sự ngừng trệ trong hoạt động của nền kinh tế.
1.2 Vai trò của hợp đồng trong nền kinh tế thị trường
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp trước đây, hợp đồng kinh tế được xem là công cụ quản lý chính trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, với chỉ tiêu kế hoạch là cơ sở ký kết Khi chỉ tiêu kế hoạch thay đổi, hợp đồng cũng phải điều chỉnh theo, và vi phạm hợp đồng đồng nghĩa với vi phạm kế hoạch Do đó, hợp đồng kinh tế chỉ mang tính hình thức, phản ánh sự trao đổi sản phẩm và việc cấp phát vật tư của Nhà nước cho các đơn vị kinh tế, cũng như giao nộp sản phẩm của các đơn vị cho Nhà nước Hệ quả là hợp đồng kinh tế đã "mất đi giá trị đích thực" của nó như một hình thức pháp lý chính trong quan hệ kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, hợp đồng kinh tế được hình thành dựa trên sự thỏa thuận tự do, tự nguyện và bình đẳng giữa các bên tham gia Vai trò của Nhà nước là sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng, nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể và đảm bảo lợi ích chung của xã hội.
Hợp đồng là công cụ thiết yếu giúp các chủ thể kinh doanh xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất Để thực hiện kế hoạch này, người sản xuất cần mua nguyên vật liệu và ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm Hợp đồng không chỉ cụ thể hóa kế hoạch sản xuất mà còn chi tiết hóa các yếu tố như giá cả và thời gian giao hàng Do đó, nhu cầu sản xuất kinh doanh được quyết định và thỏa thuận giữa người kinh doanh và khách hàng nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh và tối đa hóa lợi nhuận.
Thông qua việc ký kết hợp đồng, nhà sản xuất có thể hiểu rõ nhu cầu thị trường đối với sản phẩm của mình Điều này giúp họ đánh giá tính khả thi của kế hoạch sản xuất kinh doanh và xem xét sự phù hợp với nhu cầu thị trường Qua quá trình này, các doanh nghiệp chủ động tính toán chênh lệch giữa chi phí và hiệu quả kinh tế của các phương án kinh doanh.
Nhà nước thông qua hợp đồng kinh tế điều tiết các quan hệ kinh tế xã hội, nhằm hướng dẫn sự phát triển trong khuôn khổ pháp luật.
Hợp đồng được ký kết hợp pháp là cơ sở pháp lý quan trọng bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia Nó cũng đóng vai trò then chốt trong việc giải quyết tranh chấp qua các cơ quan tài phán.
2 Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa
2.1 Pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam
2.1.2 Pháp luật về hợp đồng trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung
Sau khi hòa bình lập lại năm 1954, miền Bắc Việt Nam bắt đầu công cuộc cải tạo Xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và chịu nhiều ảnh hưởng từ chiến tranh Để thúc đẩy phát triển kinh tế, vào năm 1956, Nhà nước ban hành điều lệ tạm thời số 735/TTg về chế độ hợp đồng đăng ký kinh doanh, quy định quan hệ giữa các bên trong việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước Văn bản này, được công bố trên công báo số 10 ngày 5/5/1956, nhằm phục vụ cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và củng cố nền tảng kinh tế vững chắc, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội.
Vào ngày 4/1/1960, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 004/TTg, quy định về Điều lệ tạm thời cho hợp đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và cơ quan Nhà nước Điều lệ này giới thiệu một loại hợp đồng mới, được ký kết dựa trên kế hoạch Nhà nước, nhằm thực hiện các nguyên tắc của chế độ hạch toán kinh tế Trong giai đoạn này, các cơ quan và xí nghiệp không chỉ thực hiện hợp đồng vì lợi ích riêng mà còn để phục vụ cho kế hoạch Nhà nước, thể hiện rõ ràng đặc điểm quan trọng nhất của hợp đồng kinh tế theo Điều lệ tạm thời Đây là một phần thiết yếu trong sự phát triển kinh tế theo kế hoạch tập trung cao.
Ngày 10/3/1975, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 54/CP, thiết lập Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế, đánh dấu bản điều lệ chính thức đầu tiên về hợp đồng tại Việt Nam, có hiệu lực đến năm 1989 Để triển khai các Nghị định này, Nhà nước đã phát hành nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện hợp đồng kinh tế, bao gồm Quyết định số 113-TTg ngày 11/9/1965 và Chỉ thị 17-TTg ngày 20/01/1967 của Thủ tướng Chính phủ.
Từ việc nghiên cứu pháp luật về hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung chúng ta thấy có nhận xét sau đây :
Pháp luật hợp đồng đóng vai trò là công cụ pháp lý quan trọng trong việc thực hiện kế hoạch Nhà nước Nhà nước, với tư cách là pháp lệnh, thiết lập kỷ luật đối với các đơn vị kinh tế thông qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế.
Hợp đồng kinh tế là hình thức pháp lý phản ánh mối quan hệ tổ chức và kế hoạch, trong đó yếu tố tài sản đóng vai trò thứ yếu Nội dung chính mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng đã được quy định trong chỉ tiêu kế hoạch nhà nước, do đó, ý chí của các bên chỉ là sự cụ thể hóa ý chí của nhà nước.
Ba là,chủ thể của hợp đồng kinh tế chỉ là các đơn vị tổ chức được giao chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước.
2.1.2 Pháp luật về hợp đồng trong nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, WTO
CHẾ ĐỘ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Các văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa:
Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005, cả hai đều được Quốc hội thông qua vào ngày 14/6/2005, chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2006, cùng với các văn bản pháp luật liên quan.
1 Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là quá trình thương lượng giữa các bên theo nguyên tắc và trình tự nhất định nhằm đạt được sự thỏa thuận Qua đó, hợp đồng xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa.
Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa phải bảo đảm theo những nguyên tắc được quy định tại điều 389 Bộ luật Dân sự 2005 đó là:
-Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội;
-Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
Cùng các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại được quy định từ Điều 10 đến Điều 15 của mục 2 chương 1 Luật Thương mại 2005 Đó là:
-Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương mại (Điều 10)
-Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại (Điều 11)
-Nguyên tắc áp dụng thói quen, tập quán trong hoạt động thương mại (Điều 12 và 13) -Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng (Điều 14)
-Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại
Điều 15 quy định các nguyên tắc điều chỉnh chế độ giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, trong đó nhấn mạnh một số nguyên tắc quan trọng cần được làm rõ.
1.1 Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã hội
Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng cho phép cá nhân và tổ chức tự quyết định về việc ký kết hợp đồng, bao gồm đối tượng, nội dung và hình thức Hợp đồng cần phản ánh ý muốn và lợi ích của các bên tham gia Tuy nhiên, sự tự do này phải tuân thủ pháp luật và đạo đức xã hội; nếu vi phạm quyền và nghĩa vụ dẫn đến tranh chấp, pháp luật sẽ can thiệp Các chủ thể cần chú ý không làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người khác và lợi ích chung của xã hội.
1.2 Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng
Theo nguyên tắc hợp đồng, các bên tham gia phải tự nguyện xác lập quan hệ hợp đồng với nội dung rõ ràng, đảm bảo sự tương xứng về quyền và nghĩa vụ, nhằm bảo vệ lợi ích của cả hai bên Trong nền kinh tế thị trường, mọi cá nhân và tổ chức, bất kể thành phần kinh tế hay cấp quản lý, đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng khi ký kết hợp đồng Sau khi hợp đồng được xác lập, các bên phải thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình để được hưởng quyền lợi, và nếu có vi phạm, sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý.
Bình đẳng trong hợp đồng được hiểu là bình đẳng pháp lý, không phải bình đẳng kinh tế Việc giao kết hợp đồng dựa trên sự tự nguyện, nhưng nếu các bên thiếu thiện chí và hợp tác trong việc thực hiện nghĩa vụ, hợp đồng sẽ không mang lại lợi ích tối đa Do đó, sự trung thực và ngay thẳng trong giao kết hợp đồng là yếu tố quan trọng để xây dựng mối quan hệ đối tác lâu dài, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại và mua bán hàng hóa.
1.3 Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu.
Theo quy định của pháp luật, các thông điệp dữ liệu được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu giữ bằng phương tiện điện tử sẽ có giá trị pháp lý tương đương với văn bản, nếu chúng đáp ứng các điều kiện và tiêu chuẩn kỹ thuật cần thiết trong hoạt động thương mại.
2 Chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo Luật Thương mại 2005, các bên tham gia hợp đồng phải là thương nhân hoặc tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động thương mại.
Hoạt động thương mại là những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm việc mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động khác với cùng mục tiêu sinh lợi.
Có thể phân chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa thành các loại sau:
2.1 Chủ thể là thương nhân Để xác định một thỏa thuận có phải là hợp đồng mua bán hàng hóa hay không thì việc trước tiên là phải xác định một bên trong quan hệ đồng đó có phải là thương nhân hay không, sau đó mới xem xét đến đối tượng của hợp đồng Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.
Luật Thương mại 2005 công nhận thương nhân thực tế mà không yêu cầu đăng ký kinh doanh là điều kiện bắt buộc, cho phép những người chưa đăng ký vẫn phải chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình Mặc dù quy định này giải quyết vấn đề về việc xác định thương nhân không đăng ký, nhưng vẫn còn thiếu rõ ràng khi không giới hạn trách nhiệm trong phạm vi hoạt động thương mại Do đó, tổ chức hoặc cá nhân chưa đăng ký kinh doanh nhưng thực hiện hành vi không nhằm mục đích sinh lợi vẫn có thể phải chịu trách nhiệm như một thương nhân.
2.1.1 Thương nhân là cá nhân. Để được công nhận là thương nhân thì một cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật và hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên như một nghề nghiệp Cá nhân cũng có thể trở thành thương nhân ngay cả khi hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên như một nghề mà chưa đăng ký kinh doanh
Trong lĩnh vực thương mại, thương nhân phải chịu trách nhiệm toàn diện về các hành vi thương mại của mình Do đó, một số đối tượng nhất định không được công nhận là thương nhân.
- Người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
- Người đang bị truy cứu trách nhiệm hính sự, người đang phải chấp hành hình phạt tù;
Người bị tòa án tước quyền hành nghề do các tội danh như buôn lậu, đầu cơ, buôn bán hàng cấm, sản xuất hàng giả, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và các vi phạm pháp luật khác sẽ không được phép hành nghề.
2.1.2 Thương nhân là tổ chức
Trong hoạt động thương mại, thương nhân chủ yếu là tổ chức đứng ra ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa Thương nhân được xác định là tổ chức kinh tế hợp pháp, hoạt động độc lập và thường xuyên, có đăng ký kinh doanh Để được công nhận là thương nhân, tổ chức kinh tế cần có tư cách pháp nhân, điều này được quy định tại Điều 84 Bộ luật Dân sự 2005, bao gồm các điều kiện cụ thể mà tổ chức phải đáp ứng.
- Được thành lập hợp pháp;
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
- Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1 Nguyêh tắc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo Điều 412 Bộ luật Dân sự 2005, các bên phải tuân thủ một số nguyên tắc trong quá trình thực hiện hợp đồng đó là:
1.1 Thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng Điều đó có nghĩa là các bên phải thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, đúng số lượng và chất lượng, đúng chủng loại, đúng thời hạn, đúng phương thức đã xây dựng trong hợp đồng hoặc do pháp luật đã quy định Nếu không thực hiện đúng, vi phạm nghĩa vụ đã được ghi nhận trong nội dung của hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng Mà cụ thể là thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh từ hợp đồng.
Luật Thương mại 2005 quy định chi tiết về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa, kế thừa từ Luật Thương mại 1997 Luật này cũng tham khảo Công ước Viên 1980 cùng với các tập quán và thông lệ quốc tế, nhằm xây dựng quy định hợp đồng mua bán hàng hóa phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam.
Quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa được quy định tại Mục 2 Mhương 2 của Luật Thương mại 2005 như sau:
1.1.1 Quyền và nghĩa vụ của bên bán
Bên bán có trách nhiệm giao hàng hóa đúng theo quy định trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói và bảo quản Theo Điều 35 Luật Thương mại, hàng hóa phải được giao đúng thời điểm đã thỏa thuận Nếu bên bán giao hàng trước thời hạn, bên mua có quyền quyết định nhận hoặc không nhận hàng, trừ khi có thỏa thuận khác giữa hai bên (Điều 38).
Theo Điều 42 Luật Thương mại 2005, bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa cho bên mua Việc giao chứng từ phải được thực hiện đúng thời hạn, địa điểm và hình thức đã thỏa thuận giữa hai bên.
Bên bán có nghĩa vụ kiểm tra hàng hóa trước khi giao, và phải chịu trách nhiệm về những khuyết điểm mà bên mua hoặc đại diện của họ đã kiểm tra nếu các khiếm khuyết này không thể phát hiện trong quá trình kiểm tra thông thường Nếu bên bán biết hoặc lẽ ra phải biết về những khiếm khuyết này nhưng không thông báo cho bên mua, họ vẫn phải chịu trách nhiệm theo Khoản 5 Điều 44 Luật Thương mại 2005.
Bên bán có trách nhiệm bảo đảm quyền sở hữu cho bên mua đối với hàng hóa Điều này bao gồm việc đảm bảo rằng quyền sở hữu của bên mua không bị tranh chấp bởi bên thứ ba, hàng hóa phải hợp pháp và việc chuyển giao hàng hóa cũng phải tuân thủ quy định pháp luật.
Bên bán không được phép bán hàng hóa vi phạm quyền sở hữu trí tuệ theo Điều 46 của Luật Thương mại 2005 Nếu hàng hóa có bảo hành, bên bán phải chịu trách nhiệm bảo hành theo thỏa thuận về nội dung và thời hạn bảo hành, đồng thời phải chịu các chi phí liên quan, trừ khi có thỏa thuận khác (Điều 49 Luật Thương mại 2005).
1.1.2 Quyền và nghĩa vụ của bên mua Điều 50 và 55 Luật Thương mại 2005 quy định bên mua có nghĩa vụ:
- Thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận
- Tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện việc thanh toán theo trình tự, thủ tục đã thỏa thuận và theo quy định của pháp luật
Bên mua phải thanh toán cho bên bán khi hàng hóa được giao hoặc khi nhận chứng từ liên quan Trong trường hợp hàng hóa bị mất mát hoặc hư hỏng sau khi rủi ro đã chuyển từ bên bán sang bên mua, bên mua vẫn có trách nhiệm thanh toán, trừ khi sự mất mát hoặc hư hỏng đó do lỗi của bên bán.
Nếu bên mua không thông báo kịp thời cho bên bán về khiếu nại của bên thứ ba đối với hàng hóa đã nhận, họ sẽ mất quyền sở hữu hàng hóa và quyền sở hữu trí tuệ liên quan Điều này chỉ không áp dụng nếu bên bán đã biết hoặc phải biết về khiếu nại đó, theo quy định tại Điều 45 và 46 Khoản 1 của Luật Thương mại 2005.
Bên mua có quyền tạm ngừng thanh toán trong một số trường hợp nhất định Cụ thể, nếu bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối, họ có thể ngừng thanh toán Ngoài ra, nếu hàng hóa đang trong tình trạng tranh chấp, bên mua cũng có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi tranh chấp được giải quyết Cuối cùng, nếu bên bán giao hàng hóa không đúng với hợp đồng, bên mua có thể ngừng thanh toán cho đến khi bên bán khắc phục sự không phù hợp này.
1.2 Thực hiện hợp đồng một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác, có lợi nhất cho các bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau
Nguyên tắc hợp tác trong hợp đồng yêu cầu các bên phải thông báo kịp thời về tình trạng và đặc tính của đối tượng hợp đồng, bao gồm cả khó khăn trong quá trình thực hiện Nếu một bên che giấu khuyết tật, gây thiệt hại cho bên kia, họ phải bồi thường Các bên cần thường xuyên cập nhật tiến độ thực hiện hợp đồng, thể hiện sự hỗ trợ và quan tâm đến lợi ích chung Điều này giúp xây dựng lòng tin và tạo mối quan hệ đối tác lâu dài Hơn nữa, các bên không được ỷ lại vào khó khăn khách quan mà phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, đồng thời tìm cách giảm thiểu thiệt hại có thể xảy ra trong quá trình hợp tác.
1.3 Thực hiện hợp đồng không được xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích của người khác
Khi ký kết và thực hiện hợp đồng, các bên cần hướng tới lợi ích công cộng và lợi ích xã hội, bên cạnh lợi ích cá nhân Điều này không chỉ giúp duy trì trật tự pháp luật mà còn đảm bảo nghĩa vụ công dân đối với nhà nước Nhờ đó, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên sẽ được bảo vệ mà không xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của người khác.
2 Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa Để ràng buộc và tăng cường trách nhiệm trong việc thực hiện các nghĩa vụ của hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ được pháp luật quy định Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được điều 318 Bộ luật Dân sự quy định bao gồm: Cầm cố tài sản, Thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp. Trong hợp đồng mua bán hàng hoá các bên có thể thoả thuận để áp dụng các biện pháp để bảo đảm thực hiện hợp đồng như: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ và bảo lãnh.
Cầm cố tài sản là việc một bên chuyển giao tài sản của mình cho bên kia nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, theo quy định tại Điều 326 Bộ luật Dân sự 2005 Để đảm bảo tính hợp pháp, cầm cố tài sản cần được lập thành văn bản, có thể là văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính Văn bản này phải nêu rõ đối tượng cầm cố, giá trị tài sản, thời hạn cầm cố và phương thức xử lý tài sản trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ.
Tài sản cầm cố có thể bị khấu trừ phần nghĩa vụ chưa thực hiện và được giao cho bên nhận cầm cố để bảo đảm quyền lợi Các bên trong quan hệ cầm cố có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác, nhưng cần thỏa mãn yêu cầu về năng lực chủ thể.
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ DO VI PHẠM HỢP ĐỒNGMUA BÁN HÀNG HÓA
1 Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc của trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo Điều 302, khoản 1 của Bộ luật Dân sự 2005, nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, họ sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.
Khi hợp đồng đã được ký kết, các bên phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết Nếu một bên vi phạm hợp đồng, họ sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý tương ứng với hành vi vi phạm đó Vi phạm hợp đồng có thể bao gồm việc không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ Hậu quả của hành vi vi phạm sẽ dẫn đến việc bên vi phạm phải gánh chịu những hệ lụy pháp lý được quy định.
Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng là một hình thức chế tài nhằm bảo vệ quyền lợi của bên bị vi phạm, đảm bảo bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi vi phạm Điều này không chỉ giúp duy trì sự ổn định trong các quan hệ pháp luật mà còn có vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa và giáo dục pháp luật cho các bên liên quan.
1.2 Đặc điểm của trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa
Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa là loại trách nhiệm phát sinh khi có hành vi vi phạm pháp luật, áp dụng cho chủ thể có hành vi đó Đây là biện pháp cưỡng chế của nhà nước nhằm xử lý các hành vi vi phạm, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện Hệ quả của trách nhiệm này luôn mang tính bất lợi cho bên vi phạm pháp luật.
Trách nhiệm pháp lý trong vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa có những đặc điểm riêng biệt, chủ yếu liên quan đến tài sản Các bên tham gia hợp đồng đều tự nguyện vì lợi ích của mình, do đó, khi một bên vi phạm nghĩa vụ, điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích vật chất của bên còn lại Vì vậy, bên vi phạm phải có trách nhiệm bù đắp những lợi ích vật chất cho bên bị vi phạm.
1.3 Nguyên tắc của trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa
- Bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với bên có quyền;
Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng, bên đó sẽ không phải chịu trách nhiệm, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc quy định khác của pháp luật.
- Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền.
2 Các hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo Điều 292 Luật Thương mại 2005 có các loại chế tài trong thương mại sau:
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng;
- Tạm ngừng thực hiện hợp đồng;
- Các biện pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
2.1 Buộc thực hiện đúng hợp đồng ( Đ iều 297 Luật Thương mại 2005)
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng cam kết, bên có quyền có thể yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ (ví dụ: giao hàng đúng đối tượng và số lượng như đã ghi trong hợp đồng) Nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện, họ phải thanh toán theo giá trị thị trường của hàng hóa Ngoài ra, nếu việc không thực hiện nghĩa vụ gây thiệt hại cho bên có quyền, bên có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại sau khi đã thanh toán giá trị hàng hóa.
2.2 Phạt vi phạm ( Đ iều 300 Luật Thương mại 2005).
Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm thanh toán một khoản tiền phạt theo thỏa thuận trong hợp đồng, trừ những trường hợp miễn trách nhiệm được quy định.
- Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận;
- Xảy ra sự kiện bất khả kháng (như phải thi hành khẩn cấp theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền);
- Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
Hành vi vi phạm của một bên có thể xảy ra khi thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, mà các bên không thể dự đoán tại thời điểm ký kết hợp đồng, theo quy định tại Điều 294 của Luật Thương mại 2005.
Phạt vi phạm là một chế tài phổ biến được áp dụng cho mọi hành vi vi phạm hợp đồng, không phân biệt điều khoản nào bị vi phạm Việc thực hiện chế tài này không phụ thuộc vào việc hành vi vi phạm có gây thiệt hại hay không.
Mức phạt vi phạm hợp đồng được các bên tự thỏa thuận, nhưng tổng mức phạt không vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp thương nhân cung cấp dịch vụ giám định có kết quả sai.
Theo Điều 422 Bộ luật Dân sự 2005, phạt vi phạm trong hợp đồng được định nghĩa là sự thỏa thuận giữa các bên, trong đó bên vi phạm nghĩa vụ sẽ phải trả một khoản tiền cho bên bị vi phạm.
Như vậy quy định về chế tài phạt vi phạm giữa Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại
Năm 2005, có sự khác biệt rõ rệt về mức phạt vi phạm giữa Luật Thương mại và Bộ luật Dân sự Theo Luật Thương mại 2005, các bên có thể thỏa thuận mức phạt nhưng không vượt quá 8% giá trị nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm Ngược lại, Bộ luật Dân sự 2005 không quy định mức tối đa cho mức phạt vi phạm này.
2.3 Bồi thường thiệt hại Đ điều 302 Luật Thương mại 2005)
Là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm tổn thất thực tế và trực tiếp mà bên bị vi phạm phải gánh chịu do hành vi vi phạm gây ra, cùng với khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm lẽ ra sẽ nhận được nếu không xảy ra vi phạm.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh trong quan hệ hợp đồng trên cơ sở các điều kiện sau đây:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng;
- Có thiệt hại thực tế xảy ra;
- Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại (Điều 303 Luật Thương mại 2005).
Bên bị vi phạm có nghĩa vụ chứng minh tổn thất cũng như có nghĩa vụ hạn chế tổn thất xảy ra (Điều 304 Luật Thương mại 2005).
Theo Bộ luật Dân sự 2005, tại Điều 307 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, bao gồm cả bồi thường thiệt hại vật chất và bồi thường tổn thất tinh thần.
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Trong kinh doanh, các nhà kinh doanh luôn nỗ lực để tránh vi phạm hợp đồng, nhưng tranh chấp trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa là điều khó tránh khỏi Khi tranh chấp xảy ra, các bên cần tìm cách giải quyết những bất đồng này Giải quyết tranh chấp là quá trình điều chỉnh các xung đột dựa trên các căn cứ và phương thức mà các bên lựa chọn, và các phương thức này phải được pháp luật thừa nhận Theo Điều 317 Luật Thương mại 2005, các hình thức giải quyết tranh chấp trong thương mại bao gồm: thương lượng giữa các bên, hòa giải do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được thỏa thuận làm trung gian, và giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án.
1 Thương lượng giữa các bên
Trong hầu hết các trường hợp tranh chấp, các bên thường chủ động liên hệ và gặp gỡ để thương lượng, nhằm tìm ra giải pháp giải quyết bất đồng Mục tiêu chính của họ là duy trì mối quan hệ kinh doanh tốt đẹp và bền vững.
Giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng giữa các bên đang trở nên phổ biến, đặc biệt ở các nước châu Á như Trung Quốc và Việt Nam Điều này có thể xuất phát từ quan niệm "dĩ hòa vi quý," một giá trị văn hóa sâu sắc trong tâm thức người châu Á.
Thương lượng có thể diễn ra độc lập hoặc song song với quá trình tố tụng tại Tòa án hoặc Trọng tài Trong trường hợp thương lượng độc lập, các bên có nghĩa vụ thực hiện thương lượng theo điều khoản giải quyết tranh chấp, và điều này cần được tuân thủ nghiêm ngặt như các điều khoản khác trong hợp đồng.
Kết quả thương lượng được xem như một thỏa thuận mới liên quan đến tranh chấp, và các bên liên quan có trách nhiệm thực hiện thỏa thuận đó một cách tự nguyện theo quy định pháp luật về nghĩa vụ thực hiện hợp đồng.
Trong quá trình tố tụng Trọng tài hoặc tố tụng tư pháp, nếu các bên đạt được thỏa thuận, trọng tài viên hoặc thẩm phán có thể ban hành văn bản công nhận kết quả thương lượng Văn bản này sẽ có giá trị tương đương với quyết định của Trọng tài hoặc Tòa án.
2 Hòa giải giữa các bên
Hòa giải, theo từ điển luật học Anh-Mỹ của Black, được định nghĩa là một quá trình giải quyết tranh chấp mang tính chất riêng tư Trong quá trình này, hòa giải viên đóng vai trò là người thứ ba trung gian, hỗ trợ các bên tranh chấp đạt được một thỏa thuận.
Một số mục tiêu cơ bản cần đạt được qua hòa giải:
Hòa giải là phương pháp hiệu quả để giải quyết tranh chấp một cách thân thiện, giúp duy trì và phát triển quan hệ kinh doanh lâu dài, đồng thời mang lại lợi ích chung cho cả hai bên.
Bằng hòa giải, các bên có thể tập trung vào các vấn đề cốt lõi của tranh chấp, giảm thiểu thời gian và chi phí cho các thủ tục hình thức Phương pháp này cũng khuyến khích sự tham gia và quan sát trực tiếp của các doanh nhân trong quá trình và kết quả giải quyết tranh chấp.
Các nhà kinh doanh rất quan tâm đến khả năng kiểm soát việc sử dụng tài liệu và chứng cứ liên quan trong giải quyết tranh chấp, đồng thời bảo vệ bí mật kinh doanh Tuy nhiên, điều này trở nên khó khăn khi tiến hành tố tụng tại Tòa án theo nguyên tắc công khai và các quy tắc thu thập chứng cứ trong tố tụng tư pháp.
Một số nguyên tắc hòa giải tranh chấp trong kinh doanh, thương mại:
Hòa giải cần dựa trên tự do ý chí của các bên tranh chấp, bao gồm lựa chọn phương pháp, quy trình và hòa giải viên Các bên có quyền tự do thỏa thuận, đề xuất giải pháp, cũng như chấp nhận ý kiến của hòa giải viên Ngoài ra, họ cũng có quyền quyết định chấm dứt hòa giải nếu muốn chuyển sang các phương pháp giải quyết tranh chấp khác.
- Hòa giải chủ yếu theo nguyên tắc "khách quan, công bằng, hợp lý";
- Hòa giải sẽ lập tức chấm dứt nếu hai bên không đạt được thỏa thuận hoặc nếu một trong hai bên không muốn tiếp tục hòa giải.
Hiệu lực của kết quả hòa giải bị ảnh hưởng bởi tính tự nguyện của quá trình này, dẫn đến những hạn chế trong hiệu lực của thỏa thuận hòa giải Khác với thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận hòa giải không mang tính bắt buộc, vì vậy không có tòa án nào ra lệnh đình chỉ vụ kiện chỉ vì một bên không thực hiện thỏa thuận hòa giải.
Thỏa thuận giải quyết bằng hòa giải không có tính bắt buộc thi hành như các phán quyết của Tòa án hoặc Trọng tài, mà chỉ có hiệu lực tương tự như một điều khoản hợp đồng giữa các bên Để tối ưu hóa lợi ích của hòa giải và mở rộng cơ hội sử dụng phương pháp này, có thể kết hợp hòa giải với các hình thức giải quyết tranh chấp khác, chẳng hạn như thương lượng kết hợp với Trọng tài hoặc hòa giải kết hợp với tố tụng tư pháp.
3 Giải quyết tranh chấp theo thủ tục Trọng tài
Theo từ điển luật học Black, trọng tài là một quá trình giải quyết tranh chấp mà các bên liên quan tự nguyện lựa chọn Trong quá trình này, một bên thứ ba trung lập, gọi là trọng tài viên, sẽ lắng nghe các bên trình bày và đưa ra quyết định có tính bắt buộc đối với họ.
Trọng tài là một phương pháp giải quyết tranh chấp hiệu quả, trong đó các bên tranh chấp sẽ ủy quyền cho một hoặc nhiều trọng tài viên độc lập để xem xét và đưa ra phán quyết cuối cùng Phương thức này thường được lựa chọn khi các bên không thể đạt được thỏa thuận và muốn tránh việc đưa vụ việc ra tòa án.