1. Tính cấp thiết của đề tài. Thể dục thể thao (TDTT) ngày càng trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống xã hội và có ý nghĩa xã hội to lớn trong việc bảo vệ, tăng cường sức khoẻ, thể lực và chất lượng cuộc sống của nhân dân, chất lượng nguồn nhân lực; góp phần xây dựng đời sống văn hoá tinh thần phong phú, xây dựng lối sống lành mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, nhằm thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Theo đó, hoạt động TDTT để rèn luyện thể lực, tăng cường sức khỏe, thể chất, cần được quan tâm, nghiên cứu, phát triển rộng rãi để trở thành nếp sống hàng ngày của mỗi người dân. Đảng và Nhà nước ta có nhiều chính sách phát triển TDTT, coi TDTT là một bộ phận thuộc chính sách xã hội, nhằm chăm lo bồi dưỡng sức khoẻ, phát triển thể lực cho nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, TDTT nước ta đã đạt được nhiều thành tích to lớn, góp phần tích cực trong việc nâng cao sức khỏe, thể lực và cải thiện đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Bơi lội là một trong những môn thể thao giúp con người phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Tập luyện bơi lội giúp người tập nâng cao sức khoẻ, rèn luyện ý chí và phòng ngừa được một số bệnh tật do bẩm sinh và di truyền gây ra. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách phát triển rộng khắp phong trào tập luyện TDTT theo gương Bác Hồ vĩ đại, cụ thể hóa bằng Quyết định 2160QĐTTg năm 2013 phê duyệt “Quy hoạch phát triển thể dục, thể thao Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” và Chỉ thị số 17 CTTTg ngày 1652016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường chỉ đạo, thực hiện công tác phòng, chống tại nạn thương tích và đuối nước cho học sinh, trẻ em. Đặc biệt là phong trào tập luyện môn bơi lội, đây là nội dung mà toàn Đảng, toàn dân ta thực sự quan tâm vì tình trạng đuối nước diễn ra ngày càng nhiều trên phạm vi cả nước. Trước tình hình đó, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Kế hoạch số 866KHBVHTTDL về việc “Tổ chức Lễ phát động toàn dân tập luyện môn Bơi phòng, chống đuối nước năm 2019”. Để triển khai tốt hoạt động này, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã giao Tổng cục Thể dục thể thao là đơn vị chủ trì thực hiện, phối hợp với Vụ Giáo dục Thể chất thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, Cục trẻ em thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội,... yêu cầu phát huy vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành, nhà trường, gia đình và toàn xã hội trong việc phát triển phong trào dạy bơi, học bơi và công tác phòng, chống đuối nước, từng bước giảm tai nạn đuối nước. Phát triển phong trào tập luyện bơi lội với mục đích để góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục thế hệ trẻ, đáp ứng nhu cầu rèn luyện thân thể, tuyển chọn VĐV trẻ nhằm bồi dưỡng đào tạo VĐV thành tích cao và phổ cập bơi cho người dân, hạn chế tối đa tai nạn đuối nước cho người dân trên địa bàn thành phố Hà Nội nói chung và trên địa bàn phường Ngọc Hà, quận Ba Đình nói riêng. Cho đến nay, hoạt động TDTT trên địa bàn phường Ngọc Hà ngày càng được quan tâm, đầu tư, phát triển. Nhận thức của người dân được nâng lên, người dân tự giác luyện tập TDTT để nâng cao sức khoẻ bằng những hình thức phù hợp như đi bộ buổi sáng, buổi chiều tối và tham gia tập luyện trong các câu lạc bộ TDTT ở phường như câu lạc bộ dưỡng sinh, cầu lông, bóng bàn, bóng chuyền... trong một gia đình có nhiều thế hệ tham gia tập luyện. Phong trào TDTT trong thanh thiếu niên vẫn tiếp tục được duy trì. Hàng năm, UBND phường đã phối hợp chặt chẽ với Trung tâm Thể dục thể thao quận Ba Đình cùng các tổ chức đoàn thanh niên, các cấp quản lý, tổ chức tốt các hoạt động TDTT trong kỳ nghỉ hè, mở các lớp phổ cập kỹ thuật thể thao tại các trung tâm dịch vụ thể thao trên địa bàn phường, tổ chức nhiều hoạt động thi đấu thể thao giành cho đối tượng thanh thiếu niên, học sinh. Hoạt động TDTT của người trung, cao tuổi ngày càng được quan tâm và cũng đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Đã có rất nhiều câu lạc bộ thể thao cho người cao tuổi được thành lập như cầu lông, bóng bàn, cờ tướng, thái cực trường sinh... Các câu lạc bộ TDTT này đã được UBND phường quan tâm chỉ đạo và tạo mọi điều kiện để duy trì hoạt động. Hàng năm UBND phường đã thành lập và cử các đội thể thao tham dự các giải thi đấu cấp quận, thành phố và đạt nhiều kết quả tốt. Hoạt động TDTT trong các trường học trên địa bàn phường đã thu được nhiều kết quả tích cực. Số trường thực hiện công tác giáo dục thể chất theo quy định có chất lượng đạt tỷ lệ 100%, số học sinh đạt tiêu chuẩn rèn luyện thể lực đạt 96%, số trường thực hiện TDTT ngoại khoá đạt 95%. Bên cạnh những kết quả đạt được, cũng phải thừa nhận rằng phong trào tập luyện TDTT của phường Ngọc Hà vẫn còn nhiều hạn chế nhất định, việc phổ biến và tổ chức hoạt động tập luyện và phát triển phong trào một số môn thể thao còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là môn bơi lội. Do đặc thù về điều kiện hạ tầng cơ sở vật chất, tài nguyên của phường cho phát triển môn bơi lội có những hạn chế nhất định (như kinh phí, quỹ đất đầu tư xây dựng bể bơi, cơ chế cho việc đầu tư phát triển hạ tầng...). Điều kiện kinh tế, đời sống của nhiều hộ gia đình có sự chênh lệch ngày càng cao đã ảnh hưởng đến phong trào tập luyện môn bơi lội. Các loại hình dịch vụ TDTT (phúc lợi xã hội và dịch vụ) có sự khác biệt rõ nét. Loại hình dịch vụ TDTT phúc lợi xã hội của phường được quan tâm, đầu tư phát triển, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ tập luyện TDTT tại các địa điểm công cộng đã được đầu tư xây dựng để phục vụ cho việc tập luyện của người dân (như sân cầu lông, các trang thiết bị dụng cụ tập luyện nâng cao sức khỏe...). Tuy vậy, cơ chế, chính sách đầu tư cho phát triển phong trào tập luyện môn bơi lội cho người dân trên địa bàn phường chưa có định hướng cụ thể, việc phổ cập dạy bơi, phòng chống đuối nước cho trẻ em trong các trường học trên địa bàn phường vẫn chưa thể thực hiện được do nhiều khó khăn khách quan, đặc biệt là về cơ sở vật chất và nguồn nhân lực. Công tác tổ chức, quản lý, quy hoạch đất đai cho công trình thể thao, bể bơi; tổ chức bộ máy TDTT ở cấp xã, phường chưa được kiện toàn, dẫn đến chưa có một cơ chế hoạt động cụ thể; nguồn nhân lực (HLV, giáo viên dạy bơi) hiện nay còn thiếu...; cơ chế, chính sách cho xã hội hóa liên quan đến lắp đặt hệ thống bể bơi để giúp cho việc phổ cập bơi nhưng gặp nhiều khó khăn dẫn tới triển khai không hiệu quả. Từ thực trạng trên cho thấy, vấn đề phát triển phong trào tập luyện môn bơi lội trên địa bàn phường Ngọc Hà là vấn đề quan trọng, góp phần nâng cao sức khỏe, phòng, chống tai nạn, thương tích và đuối nước cho học sinh, trẻ em theo tinh thần Chỉ thị 17 CTTTg của Thủ tướng Chính phủ. Ở các quốc gia phát triển cũng như ở nước ta, hoạt động TDTT quần chúng ở cấp cơ sở phát triển theo hai loại hình: loại hình phúc lợi xã hội và loại hình dịch vụ, trong đó loại hình phúc lợi xã hội chiếm vị trí quan trọng hơn cả, thu hút nhiều người tập hơn. Với môn bơi lội, loại hình dịch vụ hoặc loại hình kết hợp phúc lợi và dịch vụ cùng với những cơ chế, chính sách phát triển rõ ràng là yếu tố quan trọng để phát triển phong trào tập luyện môn bơi lội. Cho đến nay ở Việt Nam, vấn đề này đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của một số nhà khoa học, nhà chuyên môn ở nhiều lĩnh vực khác nhau như: Đoàn Thế Thiêm (1989), Lâm Quang Thành (1996), Đặng Quốc Nam (2006) 63, Trần Kim Cương (2008) 34, Cấn Văn Nghĩa (2009) 64, Nguyễn Ngọc Thanh (2016), Nguyễn Thạc Vũ (2018)... kết quả nghiên cứu của các tác giả cũng chỉ mới dừng lại ở việc đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động TDTT ở cấp xã, phường, thị trấn, cũng như giải pháp phát triển phong trào tập luyện môn bơi tại một số địa phương nhất định; đưa ra thực trạng và đề xuất một số mô hình tổ chức, quản lý các câu lạc bộ thể thao ở cơ sở nhằm phát triển phong trào TDTT quần chúng. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu về giải pháp phát triển phong trào tập luyện môn bơi lội cho người dân trên địa bàn phường Ngọc Hà cho đến nay vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ. Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu giải pháp phát triển phong trào tập luyện môn bơi tại phường Ngọc Hà quận Ba Đình thành phố Hà Nội”. 2. Mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở điều tra, khảo sát thực trạng phong trào tập luyện môn bơi tại phường Ngọc Hà quận Ba Đình Hà Nội, đề tài tiến hành đề xuất, ứng dụng một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển phong trào tập luyện môn bơi phù hợp với nhu cầu của nhân dân, đáp ứng thực tiễn về khả năng tổ chức, quản lý cũng như cơ cấu, động cơ của người tập, góp phần phát triển phong trào tập luyện môn bơi của quận và thành phố trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục tiêu nghiên cứu. Để giải quyết mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài xác định giải quyết các mục tiêu nghiên cứu sau: Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng phong trào tập luyện môn bơi tại phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Mục tiêu 2: Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả một số giải pháp phát triển phong trào tập luyện môn bơi tại phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. 4. Giả thuyết khoa học của đề tài. Qua khảo sát thực tiễn cho thấy phong trào tập luyện môn bơi tại phường Ngọc Hà quận Ba Đình thành phố Hà Nội chưa tốt, số lượng người tham gia chưa nhiều, hình thức tập luyện mang tính tự phát nguyên nhân do ý thức phòng chống tai nạn đuối nước của người dân chưa cao, chưa được sự quan tâm của các cấp chính quyền. Nếu lựa chọn được các giải pháp phù hợp sẽ thu hút được nhiều người dân tham gia tập luyện, đáp ứng được các yêu cầu về cơ cấu và động cơ của người tập, góp phầ
Tính cấp thiết của đề tài
Thể dục thể thao (TDTT) ngày càng trở thành một phần quan trọng trong đời sống xã hội, có vai trò lớn trong việc bảo vệ và nâng cao sức khỏe, thể lực của người dân Hoạt động TDTT không chỉ giúp cải thiện chất lượng cuộc sống mà còn góp phần xây dựng đời sống văn hóa tinh thần phong phú và lối sống lành mạnh Đảng và Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách nhằm phát triển TDTT, coi đây là một phần của chính sách xã hội để chăm lo sức khỏe cho nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ Dưới sự lãnh đạo của Đảng, TDTT nước ta đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần nâng cao sức khỏe và cải thiện đời sống văn hóa tinh thần, đồng thời hỗ trợ thực hiện các nhiệm vụ chính trị và kinh tế - xã hội.
Bơi lội không chỉ giúp phát triển thể chất mà còn nâng cao tinh thần cho con người Việc luyện tập bơi lội cải thiện sức khỏe, rèn luyện ý chí và phòng ngừa một số bệnh tật di truyền Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương phát triển phong trào thể dục thể thao, cụ thể hóa thông qua Quyết định 2160/QĐ-TTg năm 2013.
Quy hoạch phát triển thể dục, thể thao Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, cùng với Chỉ thị số 17 CT-TTg ngày 16/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phòng, chống tai nạn thương tích và đuối nước cho học sinh, trẻ em, đặc biệt là phong trào bơi lội Trước tình trạng đuối nước gia tăng, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Kế hoạch số 866/KH-BVHTTDL nhằm tổ chức Lễ phát động toàn dân tập luyện môn Bơi phòng, chống đuối nước năm 2019 Tổng cục Thể dục thể thao được giao nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan để phát huy vai trò của các cấp, ngành, nhà trường, gia đình và toàn xã hội trong việc dạy và học bơi, giảm thiểu tai nạn đuối nước.
Phong trào bơi lội tại phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, Hà Nội đang được phát triển mạnh mẽ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cho thế hệ trẻ, đáp ứng nhu cầu rèn luyện thân thể và tuyển chọn vận động viên trẻ cho các giải đấu thành tích cao Hoạt động thể dục thể thao (TDTT) ngày càng được người dân quan tâm, với nhiều hình thức luyện tập như đi bộ, tham gia các câu lạc bộ dưỡng sinh, cầu lông, bóng bàn, và bóng chuyền Nhờ đó, nhận thức của người dân về rèn luyện sức khỏe được nâng cao, góp phần giảm thiểu tai nạn đuối nước và duy trì phong trào TDTT trong thanh thiếu niên.
Hàng năm, UBND phường phối hợp với Trung tâm Thể dục thể thao quận Ba Đình và các tổ chức đoàn thanh niên tổ chức các hoạt động thể dục thể thao (TDTT) trong kỳ nghỉ hè, mở lớp phổ cập kỹ thuật thể thao tại các trung tâm dịch vụ thể thao Các hoạt động thi đấu thể thao dành cho thanh thiếu niên và học sinh được tổ chức thường xuyên Đặc biệt, hoạt động TDTT cho người trung, cao tuổi ngày càng được quan tâm, với nhiều câu lạc bộ thể thao như cầu lông, bóng bàn và thái cực trường sinh được thành lập và duy trì UBND phường cũng cử các đội thể thao tham gia các giải đấu cấp quận, thành phố và đạt nhiều thành tích tốt Trong các trường học, tỷ lệ thực hiện giáo dục thể chất đạt 100%, số học sinh đạt tiêu chuẩn rèn luyện thể lực đạt 96%, và tỷ lệ thực hiện TDTT ngoại khóa đạt 95%, cho thấy sự phát triển tích cực của hoạt động TDTT trên địa bàn phường.
Phong trào tập luyện thể dục thể thao tại phường Ngọc Hà đã đạt được một số kết quả tích cực, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế Việc phổ biến và tổ chức các hoạt động thể thao, đặc biệt là môn bơi lội, gặp khó khăn do điều kiện hạ tầng và nguồn lực hạn chế, bao gồm kinh phí và quỹ đất để xây dựng bể bơi Thêm vào đó, sự chênh lệch kinh tế giữa các hộ gia đình cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của phong trào bơi lội Các loại hình dịch vụ thể dục thể thao cũng có sự khác biệt rõ rệt, tạo ra thách thức cho việc phát triển đồng bộ.
Dịch vụ thể dục thể thao phúc lợi xã hội tại phường Ngọc Hà đang được đầu tư phát triển với cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ tập luyện như sân cầu lông và dụng cụ tập luyện nâng cao sức khỏe Tuy nhiên, việc phát triển phong trào bơi lội cho người dân chưa có định hướng cụ thể, dẫn đến khó khăn trong việc phổ cập dạy bơi và phòng chống đuối nước cho trẻ em Cơ sở vật chất và nguồn nhân lực còn thiếu, cùng với việc tổ chức và quản lý chưa hiệu quả, đã ảnh hưởng đến sự phát triển của phong trào này Việc xã hội hóa lắp đặt hệ thống bể bơi cũng gặp nhiều khó khăn, làm giảm hiệu quả triển khai Do đó, phát triển phong trào bơi lội là vấn đề quan trọng nhằm nâng cao sức khỏe và phòng chống tai nạn cho học sinh, trẻ em, theo tinh thần Chỉ thị 17 CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ Ở Việt Nam, hoạt động thể dục thể thao quần chúng phát triển theo hai loại hình chính: phúc lợi xã hội và dịch vụ, trong đó phúc lợi xã hội chiếm ưu thế Để phát triển phong trào bơi lội, cần có cơ chế và chính sách rõ ràng, điều này đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và chuyên môn.
Nghiên cứu của các tác giả như Cấn Văn Nghĩa (2008), Nguyễn Ngọc Thanh (2016), và Nguyễn Thạc Vũ (2018) chủ yếu tập trung vào việc đề xuất giải pháp phát triển hoạt động thể dục thể thao (TDTT) ở cấp xã, phường, thị trấn, cũng như phong trào bơi lội tại một số địa phương Họ đã đưa ra thực trạng và một số mô hình tổ chức, quản lý các câu lạc bộ thể thao nhằm thúc đẩy phong trào TDTT quần chúng Tuy nhiên, vấn đề phát triển phong trào tập luyện bơi lội cho người dân tại phường Ngọc Hà vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ Do đó, chúng tôi quyết định tiến hành nghiên cứu đề tài “Giải pháp phát triển phong trào tập luyện môn bơi tại phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.”
Mục đích nghiên cứu
Dựa trên kết quả điều tra và khảo sát thực trạng phong trào bơi lội tại phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, Hà Nội, bài viết đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển phong trào tập luyện bơi phù hợp với nhu cầu của người dân Những giải pháp này sẽ đáp ứng thực tiễn về khả năng tổ chức, quản lý cũng như động cơ của người tập, từ đó góp phần nâng cao phong trào bơi lội tại quận và thành phố trong giai đoạn hiện nay.
Mục tiêu nghiên cứu
Để giải quyết mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài xác định giải quyết các mục tiêu nghiên cứu sau:
- Mục tiêu 1 : Đánh giá thực trạng phong trào tập luyện môn bơi tại phường
Ngọc Hà, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
Mục tiêu của nghiên cứu là lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả của một số giải pháp nhằm phát triển phong trào tập luyện môn bơi tại phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội Việc này không chỉ giúp nâng cao ý thức thể dục thể thao trong cộng đồng mà còn góp phần cải thiện sức khỏe và kỹ năng bơi lội của người dân địa phương.
Giả thuyết khoa học của đề tài
Phong trào tập luyện môn bơi tại phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, Hà Nội hiện chưa phát triển mạnh mẽ, với số lượng người tham gia còn hạn chế và hình thức tập luyện tự phát Nguyên nhân chính là do ý thức phòng chống tai nạn đuối nước của người dân chưa cao và thiếu sự quan tâm từ các cấp chính quyền Nếu áp dụng các giải pháp phù hợp, có thể thu hút nhiều người dân tham gia, đáp ứng yêu cầu về cơ cấu và động cơ của người tập, từ đó góp phần phát triển phong trào bơi lội tại Hà Nội.
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển TDTT ở cơ sở xã, phường và thị trấn trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển
Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển thể dục thể thao (TDTT) đóng vai trò quan trọng trong việc xác định vị trí và mối quan hệ của TDTT với các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội Những định hướng này là cơ sở để lựa chọn và xác định các mục tiêu, nhiệm vụ, và giải pháp nhằm xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển TDTT trong một thời gian dài Các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc từ lần thứ VI đến XI đã nêu rõ những quan điểm và chủ trương lớn trong công tác TDTT, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới Có thể tóm gọn thành 5 quan điểm chính của Đảng và Nhà nước về công tác TDTT quần chúng trong giai đoạn này.
Phát triển thể dục thể thao (TDTT) là một yêu cầu khách quan và là yếu tố quan trọng trong chính sách xã hội Đây là một biện pháp tích cực nhằm nâng cao sức khỏe, làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân Ngoài ra, TDTT còn góp phần mở rộng giao lưu quốc tế và hỗ trợ hiệu quả cho các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh và quốc phòng của đất nước.
Trong mọi hoàn cảnh, việc phát triển các hoạt động thể dục thể thao (TDTT) trong cộng đồng là vô cùng cần thiết Mục tiêu chính của các hoạt động này là nâng cao sức khỏe, xây dựng con người mới, và làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần Đồng thời, TDTT cũng góp phần mở rộng giao lưu quốc tế và hỗ trợ các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội và quốc phòng của đất nước.
Quan điểm thứ hai: Phát triển TDTT phải đảm bảo tính dân tộc, tính khoa học và nhân dân
Nội dung và hình thức tổ chức hoạt động thể dục thể thao (TDTT) cần mang bản sắc dân tộc, phù hợp với tâm lý, tập quán và điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương Cần khai thác và phát triển các trò chơi dân gian, môn thể thao dân tộc, cùng với các phương pháp tập luyện dưỡng sinh cổ truyền, nhằm phát huy các truyền thống văn hóa tốt đẹp và hạn chế các tập quán lạc hậu Đồng thời, cần kế thừa có chọn lọc tri thức về TDTT của nhân loại, kết hợp thành tựu hiện đại với truyền thống dân tộc Việc phát triển TDTT phải rộng khắp, đến mọi tầng lớp, độ tuổi và địa bàn cư dân, để rèn luyện thân thể trở thành nhu cầu và thói quen hàng ngày của đông đảo nhân dân.
Kết hợp phát triển phong trào thể dục thể thao quần chúng với việc xây dựng lực lượng vận động viên và nâng cao thành tích các môn thể thao là phương châm quan trọng, góp phần đảm bảo sự phát triển nhanh chóng và đúng hướng của thể dục thể thao.
Phong trào thể dục thể thao quần chúng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển thể thao thành tích cao, khi càng nhiều người tham gia, sẽ tạo ra nguồn tuyển chọn tài năng phong phú Tuy nhiên, sự phát triển của phong trào TDTT không đồng nghĩa với việc có một lực lượng vận động viên đông đảo hay thành tích thể thao cao, vì hai lĩnh vực này có tính độc lập tương đối và bị chi phối bởi các quy luật riêng biệt Mỗi lĩnh vực phục vụ cho những đối tượng khác nhau, do đó cần có sự nhận thức rõ ràng về mối quan hệ giữa chúng.
Quan điểm thứ tư nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xã hội hóa tổ chức và quản lý thể dục thể thao (TDTT), đồng thời cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa quản lý nhà nước và các tổ chức xã hội để nâng cao hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực này.
Xã hội hoá được hiểu là sự phối hợp có kế hoạch giữa các lực lượng xã hội nhằm giải quyết vấn đề xã hội theo chiến lược quốc gia Trong lĩnh vực thể dục thể thao (TDTT), xã hội hoá là sự hợp tác của mọi thành phần xã hội trong việc phát triển TDTT theo định hướng của Đảng và Nhà nước, với mục tiêu biến TDTT thành sự nghiệp chung của nhân dân Đây là một giải pháp chiến lược quan trọng để đổi mới cơ chế quản lý TDTT, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Quan điểm thứ năm: Kết hợp phát triển TDTT trong nước với mở rộng các quan hệ quốc tế về TDTT [24], [25], [63], [97], [110]
Để phát triển sự nghiệp thể dục thể thao (TDTT) trong nước, nhà nước cần phát huy nội lực và tăng cường mối quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này Việc hợp tác quốc tế không chỉ giúp tiếp thu các thành tựu khoa học và kinh nghiệm quản lý hiệu quả mà còn tạo điều kiện cho việc phát triển các môn thể thao mới, từ đó nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và quốc tế Hơn nữa, TDTT còn là phương tiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ đối ngoại, góp phần tăng cường tình hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân Việt Nam và các nước khác.
Trong chiến lược phát triển thể dục thể thao (TDTT) Việt Nam đến năm 2020, Đảng và Nhà nước xác định phát triển TDTT quần chúng ở cấp xã là một mục tiêu quan trọng Cấp xã, bao gồm xã, phường, thị trấn, là cấp cơ sở trong hệ thống hành chính Nhà nước Từ những năm 1960, Chính phủ đã cho phép thành lập Ban TDTT cấp xã, và chủ trương này được tiếp tục khi Uỷ ban TDTT Trung ương chuyển thành Tổng cục TDTT theo Nghị định 13/CP năm 1971 Tuy nhiên, nhiều địa phương, đặc biệt ở miền núi và vùng sâu, chưa đủ điều kiện để thiết lập Ban TDTT cấp xã, do đó công tác TDTT thường được giao cho cán bộ xã đội hoặc thanh niên kiêm nhiệm, và nhiều nơi thực hiện thông qua Ban Văn hoá - Xã hội hoặc cán bộ Văn hoá - Thông tin.
Từ năm 1978, Ngành Thể dục thể thao được xác định là một ngành quan trọng với nhiệm vụ xây dựng và triển khai các tiêu chí kế hoạch sự nghiệp Tổng cục Thể dục thể thao đã hướng dẫn việc thành lập Câu lạc bộ TDTT cấp xã để tổ chức và điều hành các hoạt động thể thao địa phương Tuy nhiên, trong giai đoạn bao cấp, các câu lạc bộ TDTT chỉ phát triển ở những nơi có phong trào thể thao mạnh, chưa hình thành một hệ thống thống nhất trên toàn quốc, thiếu cán bộ chuyên trách và chế độ phụ cấp Từ những năm 1990, sự sát nhập giữa ngành Thể dục thể thao và ngành Văn hoá - Thông tin đã dẫn đến việc trưởng Ban Văn hoá - Xã hội đảm nhiệm hầu hết công tác TDTT cấp xã Mặc dù chủ trương xây dựng Câu lạc bộ TDTT đã trở nên thiết thực hơn, nhưng vẫn không thay thế được chức năng quản lý nhà nước của Ban Văn hoá - Xã hội đối với lĩnh vực thể thao.
Từ năm 1995-1996, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 133/TTg và 274/TTg về quy hoạch phát triển Ngành Thể dục thể thao, tạo cơ hội mới để nâng cao sự quan tâm tới công tác TDTT ở cấp xã Trong giai đoạn này, các cơ sở TDTT tại xã được quản lý theo mô hình văn hoá - xã hội, với cán bộ Văn hoá - Thông tin kiêm nhiệm công tác TDTT Đồng thời, Tổng cục Thể dục thể thao đã ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của câu lạc bộ TDTT cơ sở, đánh dấu văn bản chính thức đầu tiên về nguyên tắc tổ chức và cơ chế hoạt động của tổ chức TDTT tại xã Qua đó, cơ chế quản lý nhà nước về TDTT cấp cơ sở đã được hình thành, bao gồm Ban Văn hoá - Xã hội và Hội đồng Thể dục thể thao, đóng vai trò tư vấn cho chính quyền về công tác TDTT.
Triển khai chủ trương xã hội hoá theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng
Theo Chỉ thị 17-CT/TW và Quy chế tổ chức hoạt động của câu lạc bộ TDTT, việc phát triển thể dục thể thao (TDTT) từ năm 2001 đến 2010 được coi là một tiêu chí quan trọng trong kế hoạch phát triển TDTT quần chúng Các câu lạc bộ cơ sở, bao gồm cả công lập và ngoài công lập, hoạt động theo cơ chế dịch vụ công ích, nhằm giảm bớt đầu mối quản lý nhà nước và tăng cường chức năng phát triển TDTT ở cấp xã Các Thông tư liên tịch giữa Bộ Văn hoá - Thông tin và Uỷ ban Thể dục thể thao đã hướng dẫn tổ chức văn hoá, thông tin và thể thao tại địa phương Đặc biệt, Chỉ thị về phát triển TDTT quần chúng xác định hai tổ chức thiết chế chính là Hội đồng TDTT cấp xã và Câu lạc bộ TDTT, từ cấp xã đến thôn, bản, cụm dân cư, nhằm đẩy mạnh sự nghiệp TDTT cấp xã theo tinh thần xã hội hoá.
Theo báo cáo của Uỷ ban Thể dục thể thao về tình hình thể dục thể thao tại các xã, phường, thị trấn, hiện trạng cho thấy rằng 20% tổng số xã có Ban Văn hoá - Xã hội.
Theo thống kê, 12% các hoạt động thể dục thể thao (TDTT) được thực hiện bởi Câu lạc bộ TDTT, 10% do Hội đồng TDTT, 8% từ Ban TDTT xã, 19,5% do Đoàn thanh niên và 17,6% do cộng tác viên quản lý theo sự chỉ đạo của UBND cấp xã Điều này cho thấy tầm quan trọng của cấp xã, phường, thị trấn trong việc xây dựng sự nghiệp TDTT bền vững trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển văn hóa cộng đồng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình phát triển TDTT tại các xã, phường, thị trấn đến năm 2010, đặc biệt chú trọng đến việc tổ chức quản lý và điều hành công tác TDTT, hướng tới việc hình thành một thiết chế văn hóa - thể thao vững mạnh Quyết định số 100/2005/QĐ-TTg đã được ban hành để cụ thể hóa những mục tiêu này.
10/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển thể dục thể thao ở xã, phường, thị trấn đến năm 2010 thể hiện ở 4 nội dung chính: [85]
1 Tập trung phát triển phong trào TDTT ở cơ sở
2 Xây dựng các mô hình, thiết chế TDTT ở cơ sở
3 Hình thành đội ngũ cán bộ, hướng dẫn viên TDTT
4 Xây dựng sân bãi, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động TDTT
Một số khái niệm có liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.2.1 Khái niệm về giải pháp
Giải pháp, theo Từ điển bách khoa Việt Nam, được định nghĩa là phương pháp giải quyết vấn đề, đồng thời chỉ ra con đường đạt được mục tiêu mong đợi Một giải pháp tốt giúp đến đích nhanh chóng và an toàn, trong khi giải pháp không phù hợp có thể dẫn đến thất bại Giải pháp có thể đơn giản hoặc phức tạp, yêu cầu ít hoặc nhiều tài nguyên để thực hiện Nói đến giải pháp là nói đến hành động nhằm thay đổi quá trình, trạng thái hoặc hệ thống để đạt được mục đích Giải pháp thích hợp sẽ giúp giải quyết vấn đề nhanh hơn và mang lại hiệu quả cao hơn.
Phân loại giải pháp: Tùy theo mục đích, lĩnh vực và đối tượng mà có thể phân loại giải pháp thành các loại sau đây:
Theo thời gian: Có các giải pháp dài hạn, trung hạn và ngắn hạn
Theo mức độ hoạt động: Giải pháp chiến lược, giải pháp chiến thuật và giải pháp tác nghiệp, giải pháp cụ thể…
Theo phạm vi: Giải pháp tổng thể và giải pháp bộ phận
Theo Thông tư số 18/2013/TT-BKHCN ngày 01 tháng 08 năm 2013 của
Bộ Khoa học và Công nghệ thì gồm 04 loại giải pháp và được hiểu như sau:
Giải pháp kỹ thuật là phương thức và công cụ kỹ thuật được sử dụng để giải quyết một nhiệm vụ hoặc vấn đề cụ thể Nó bao gồm các sản phẩm dưới nhiều dạng khác nhau như vật thể, chất, vật liệu sinh học, giống cây trồng và vật nuôi, cũng như các quy trình liên quan.
Giải pháp quản lý là phương thức tổ chức và điều hành công việc trong mọi lĩnh vực hoạt động Điều này bao gồm cách bố trí nhân lực, máy móc, thiết bị, dụng cụ, nguyên liệu và vật liệu, cũng như các phương pháp điều hành, kiểm tra và giám sát công việc hiệu quả.
Giải pháp tác nghiệp bao gồm các phương pháp thực hiện kỹ thuật và nghiệp vụ trong mọi lĩnh vực, như thực hiện thủ tục hành chính (tiếp nhận, xử lý hồ sơ, đơn thư, tài liệu); thẩm định, giám định, tư vấn và đánh giá; cũng như tuyên truyền, đào tạo, giảng dạy và huấn luyện, bao gồm cả phương pháp huấn luyện động vật.
Giải pháp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật: Là phương pháp, cách thức hoặc biện pháp áp dụng một giải pháp kỹ thuật đã biết vào thực tiễn.
Giải pháp là cách thức thực hiện một công việc nhằm đạt được mục đích đề ra, đặc biệt trong quản lý Theo đó, giải pháp, phương pháp và biện pháp đều là những cách thức giải quyết vấn đề, đảm bảo phối hợp các hoạt động trong quá trình thực hiện nhiệm vụ Tất cả đều là con đường và cách thức để đạt được mục tiêu quản lý, do chủ thể quản lý khởi xướng và tác động vào khách thể quản lý, đồng thời cần đến các nguồn lực xã hội để thực hiện mục tiêu đó.
Con đường và cách thức thực hiện giải pháp sẽ khác nhau, bao gồm các giải pháp trọng điểm, chiến lược và cụ thể, cùng với việc sử dụng nguồn lực xã hội một cách hiệu quả.
Mục tiêu quản lý có thể được thực hiện qua nhiều con đường và phương thức khác nhau, dẫn đến việc cần áp dụng các giải pháp đa dạng như giải pháp hành chính, giáo dục, kinh tế và tổ chức để đạt được hiệu quả tối ưu.
1.2.2 Khái niệm về loại hình tập luyện TDTT
Hiện nay, khái niệm về các loại hình tập luyện thể dục thể thao (TDTT) chưa được tài liệu nào đề cập một cách cụ thể Luận án này áp dụng hai quan điểm để nghiên cứu các loại hình tập luyện TDTT, dựa vào sự phân tầng xã hội Sự phân tầng này thể hiện qua nghề nghiệp và nơi cư trú, trong đó nghề nghiệp liên quan đến nơi công tác, loại hình nghề nghiệp và các cơ quan, doanh nghiệp, trường học Nơi cư trú của người dân được phân chia theo địa bàn thôn, xóm, đường, phố và khu dân cư trong các đơn vị xã, phường, thị trấn Ngoài ra, việc quản lý các loại hình tập luyện TDTT cũng được xem xét dựa trên chủ thể quản lý, bao gồm các cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý, đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ.
Từ những phân tích và lý luận đã nêu, loại hình tập luyện thể dục thể thao (TDTT) được định nghĩa là cách thức tổ chức để tập hợp những người có chung mục đích và phương tiện tập luyện nhất định Ví dụ về loại hình này bao gồm các hoạt động như thể dục dưỡng sinh, đạp xe, bóng đá, đi bộ, và các buổi tập luyện ngoại khóa trong trường học Hiện nay, thực tiễn cho thấy có hai loại hình tập luyện TDTT chính.
Tập luyện thể dục thể thao dựa vào phúc lợi xã hội là hình thức tổ chức cho những người tự nguyện tham gia với mục đích chung và sử dụng các phương tiện tập luyện nhất định Người tham gia thường không phải trả phí hoặc chỉ phải chi trả một khoản rất nhỏ cho việc tập luyện.
Tập luyện thể dục thể thao (TDTT) qua các dịch vụ là hình thức tổ chức tập luyện do các đơn vị hoặc cá nhân đầu tư, có tính chất dịch vụ và thu phí tại các xã, phường, thị trấn Người tham gia sẽ phải chi trả một khoản phí để được tham gia vào các hoạt động tập luyện TDTT này.
1.2.3 Khái niệm câu lạc bộ thể dục thể thao
Câu lạc bộ là tổ chức xã hội kết nối những người có chung sở thích nhằm trao đổi về các vấn đề chính trị, khoa học, văn hóa, nghệ thuật, và cuộc sống Tuy nhiên, bất kỳ ai cũng có thể thành lập câu lạc bộ, kể cả những người có sở thích không tích cực, điều này có thể ảnh hưởng xấu đến xã hội Các quốc gia xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân không chấp nhận những hoạt động tiêu cực và không lành mạnh, vì vậy việc phát triển các câu lạc bộ không có lợi cho giáo dục và tinh thần cộng đồng là không được khuyến khích.
Trong các nước XHCN, câu lạc bộ đóng vai trò là tổ chức xã hội nhằm mục đích truyền bá, giáo dục và đào tạo con người phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao, nghề nghiệp và lối sống Đây là một hình thức giáo dục mang tính xã hội, góp phần quan trọng vào việc xây dựng con người phát triển đa chiều thông qua hai hệ thống giáo dục.
Hệ thống giáo dục chính thống của nhà nước là bắt buộc, trong khi giáo dục tự nguyện dựa trên sự ham thích của từng cá nhân Câu lạc bộ trong xã hội chính là một hình thức giáo dục tự nguyện, góp phần vào hệ thống giáo dục xã hội.
Câu lạc bộ TDTT cơ sở, hay còn gọi là câu lạc bộ thể thao, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển thể thao tại Đức và Việt Nam Theo các nhà khoa học CHDC Đức, các câu lạc bộ này được xem là trung tâm cho việc tập luyện thể thao, góp phần tổ chức các hoạt động thể thao cho cộng đồng Tại đây, các vận động viên không chỉ phát huy sở trường của mình trong các môn thể thao mà còn hướng dẫn và thu hút mọi người tham gia tập luyện, tạo nên một môi trường thể thao đa dạng và phong phú.
Cơ sở lý luận về phong trào tập luyện thể dục thể thao ở cấp xã, phường, thị trấn
1.3.1 Đặc điểm tập luyện thể dục thể thao ở cấp xã, phường, thị trấn
Tập luyện thể dục thể thao dựa vào phúc lợi xã hội không chỉ tập trung vào thành tích hay tài năng thể thao, mà chủ yếu nhằm nâng cao sức khỏe con người thông qua rèn luyện vận động.
Giáo dục thể chất bao gồm các hình thức bắt buộc theo quy định của Nhà nước và các hoạt động tập luyện thể dục thể thao tự nguyện nhằm nâng cao sức khỏe và giải trí.
Tổ chức quản lý hoạt động thể dục thể thao (TDTT) thuộc về các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và kinh tế nhằm phát triển sự nghiệp TDTT Cơ sở vật chất và điều kiện tập luyện được đảm bảo qua việc sử dụng các công trình phúc lợi công cộng và thể thao Tập luyện TDTT trong hệ thống phúc lợi xã hội chủ yếu diễn ra tại các cơ sở công lập, nơi người dân được hưởng dịch vụ tập luyện chất lượng cao với chi phí thấp hoặc miễn phí.
Sự đầu tư của Nhà nước, các tổ chức xã hội và doanh nghiệp vào nhân lực, vật lực và tài lực đã góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng của hoạt động thể dục thể thao (TDTT) dựa trên phúc lợi xã hội Nhờ vào phương thức xã hội hóa, loại hình tập luyện TDTT đã được gia tăng và phát triển mạnh mẽ.
Xu hướng đô thị hóa hiện đại đang gia tăng, tập trung dân cư vào các thành phố, thị xã, và thị trấn, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, văn hóa, giáo dục và chăm sóc sức khỏe Sự phát triển này không chỉ giúp con người sống ổn định mà còn nâng cao chất lượng cuộc sống thông qua việc quy hoạch thể dục thể thao trong các thành phố mới và cải tạo các thành phố cũ Khi điều kiện sống cải thiện và năng suất lao động tăng, nhu cầu chăm sóc sức khỏe và nghỉ ngơi trở nên cấp thiết hơn Thời gian làm việc giảm, giúp con người có thêm cơ hội để thư giãn, rèn luyện thể chất và giao lưu xã hội Nhờ đó, nhu cầu về thông tin sức khỏe, thiết bị thể thao và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng tăng theo Việc tiếp cận và ứng dụng công nghệ mới trong chăm sóc sức khỏe và làm đẹp ngày càng trở nên phổ biến, góp phần vào sự phát triển xã hội văn minh hiện đại toàn cầu.
Thể dục thể thao cho mọi người là một phần quan trọng trong thể thao hiện đại, bên cạnh thể thao thành tích cao Đối tượng của hoạt động này bao gồm tất cả mọi người ở mọi lứa tuổi, khuyến khích họ tham gia tập luyện thể dục thể thao để nâng cao sức khỏe và tinh thần.
TDTT cho mọi người không thể tách rời khỏi TDTT xã hội, đặc biệt trong bối cảnh sống hiện đại, nơi mà các mối quan hệ cộng đồng đang dần bị thu hẹp Hoạt động tập luyện TDTT hiện nay phụ thuộc vào phúc lợi xã hội và chịu ảnh hưởng từ đầu tư của nhà nước, trình độ kinh tế, văn hóa và sự phát triển công nghệ Chất lượng sống, thời gian lao động và thời gian rảnh rỗi, cùng với kiến thức về sức khỏe và TDTT, đóng vai trò quyết định trong việc duy trì sức khỏe Ngoài ra, chi phí cho việc rèn luyện sức khỏe, cách sử dụng thời gian rảnh, hình thức vận động đa dạng và kế hoạch tập luyện cũng là những yếu tố quan trọng không thể thiếu để đảm bảo hiệu quả trong hoạt động TDTT.
1.3.2 Chức năng của loại hình tập luyện thể dục thể thao ở cấp xã, phường, thị trấn
Chức năng tụ họp người thân không chỉ tăng cường giao lưu tình cảm mà còn giúp cân bằng tâm lý cho mọi thành viên trong gia đình Qua các hoạt động thể thao chung, mọi người xây dựng mối quan hệ hòa đồng, tôn trọng lẫn nhau, từ đó tạo ra sự thống nhất và tình cảm gắn bó hơn Sự tham gia vào các hoạt động này giúp xóa bỏ mọi bất đồng, thậm chí là những mâu thuẫn gay gắt Dưới sự dẫn dắt của người lớn tuổi, tinh thần đoàn kết và mục đích chung được nâng cao, khiến mọi người cảm thấy tự hào về những hoạt động chung Hơn nữa, việc duy trì các buổi tụ họp thể thao không chỉ đảm bảo sức khỏe mà còn góp phần tạo dựng một lối sống ổn định và chất lượng cho các mối quan hệ trong gia đình.
Trong xã hội hiện đại, con người thường ỷ lại vào các tiện nghi sống như xe cộ và điện khí hóa, dẫn đến việc ít vận động và tiếp xúc với thiên nhiên, gây ra nhiều vấn đề sức khỏe như béo phì, bệnh tim mạch, và giảm khả năng miễn dịch Giải pháp hiệu quả nhất là duy trì thói quen tập luyện thể dục thể thao hàng ngày Gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục ý thức tập luyện cho các thành viên, với nhiều hình thức tập luyện đa dạng Những gia đình có truyền thống thể thao như võ thuật, bơi lội thường tạo ra môi trường tích cực, khuyến khích trẻ em hình thành thói quen rèn luyện sức khỏe từ nhỏ Gia đình thể thao không chỉ là nơi giáo dục thể chất đầu tiên mà còn ảnh hưởng lớn đến phong trào tập luyện thể thao trong cộng đồng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong nhà trường Do đó, vai trò của gia đình trong việc phát triển thói quen tập luyện thể dục thể thao cần được coi trọng.
Chức năng xây dựng đời sống văn hóa thể hiện rõ qua khái niệm "gia đình thể thao", nơi mà sức khỏe, tinh thần và môi trường sống lành mạnh được đề cao Thể thao cho mọi người không chỉ mang tính giải trí mà còn là hoạt động văn hóa thể chất, bao gồm các trò chơi vận động, bài tập thể dục, võ thuật, và các trò chơi trí tuệ như cờ và bài Những hoạt động này tạo ra một môi trường hứng khởi, sáng tạo và lành mạnh, khuyến khích sự giao lưu tình cảm chân thành giữa các thành viên trong cộng đồng Đồng thời, giá trị văn hóa của thể dục thể thao được tôn vinh, phản ánh sự tôn trọng văn hóa xã hội, dân tộc, tôn giáo và lễ nghi trong mỗi hoạt động thể thao.
1.3.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến phong trào tập luyện thể dục thể thao ở cấp xã, phường, thị trấn
Từ thực tế phát triển của các hình thức tập luyện thể thao dựa vào phúc lợi xã hội, có thể nhận thấy rằng các yếu tố quan trọng bao gồm: trình độ hiểu biết và động cơ tập luyện vì sức khỏe của cá nhân và gia đình; cấu trúc câu lạc bộ như số lượng thành viên, quy mô, cấp bậc và người lãnh đạo; hoàn cảnh xã hội và điều kiện kinh tế; mức độ hòa thuận trong tập thể; cùng với thực trạng sức khỏe và nhu cầu rèn luyện để nâng cao sức khỏe.
Tác động của môi trường xã hội đến thể dục thể thao (TDTT) rất quan trọng, bao gồm thói quen phong trào, số lượng người tham gia, thông tin và sự chỉ đạo từ chính quyền địa phương cùng các tổ chức, đơn vị văn hóa, quân đội, công an Những yếu tố này góp phần vào sự phát triển và hoạt động ổn định của các câu lạc bộ TDTT, nâng cao chất lượng và hiệu quả Tại Việt Nam, câu lạc bộ TDTT được xem là một phần thiết yếu của phong trào TDTT quần chúng, nhận được sự quan tâm từ các cơ quan quản lý nhà nước về TDTT ở cấp tỉnh, thành và ngành, với nhiều cuộc thi thể thao được tổ chức cho các câu lạc bộ.
1.3.4 Phân loại các loại hình tập luyện thể dục thể thao ở cấp xã, phường, thị trấn
Mô hình câu lạc bộ thể thao ở cơ sở, dưới sự chỉ đạo của Ngành Thể dục thể thao, đã trở thành hình thức tập luyện TDTT phổ biến Với sự phát triển của đời sống, nhu cầu giao lưu, học hỏi và nâng cao sức khỏe đã dẫn đến sự ra đời của nhiều loại hình tập luyện và câu lạc bộ thể thao khác nhau Mỗi câu lạc bộ đều có mô hình và hoạt động riêng, thu hút sự tham gia của nhiều đối tượng khác nhau Câu lạc bộ thể thao không chỉ là tổ chức mà còn là nơi tập hợp những người có cùng mục đích luyện tập, tạo ra môi trường phong phú cho các thành viên phát triển tài năng và năng khiếu của mình.
Loại hình tập luyện thể dục thể thao dựa vào phúc lợi xã hội có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau Qua việc tổng hợp các tài liệu tham khảo liên quan, luận án đã đưa ra những phương pháp phân loại cụ thể.
02 cách phân loại như sau:
1.3.4.1 Phân loại theo hình thức tập luyện
Tập luyện thể dục thể thao (TDTT) dựa vào phúc lợi xã hội công cộng được chia thành hai loại chính: loại hình tập luyện TDTT bắt buộc và loại hình tập luyện TDTT tự nguyện.
Các xu hướng quản lý nhà nước về thể dục thể thao và vấn đề xã hội hóa thể dục thể thao ở xã, phường, thị trấn
1.4.1 Các xu hướng quản lý nhà nước về thể dục thể thao ở xã, phường, thị trấn
Trong những năm gần đây, phong trào thể dục thể thao ở Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng, với nhiều hình thức hoạt động phong phú và đa dạng Sự xã hội hóa trong thể thao quần chúng, đặc biệt là việc khôi phục các môn thể thao truyền thống và dân tộc, đã thu hút đông đảo người tham gia.
Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển không đồng đều, đặc biệt ở nông thôn, miền núi và vùng sâu, vùng xa Nhiều địa phương còn thiếu cơ sở vật chất phục vụ cho việc tập luyện và thi đấu thể thao, dẫn đến việc không có đủ công trình thể thao đáp ứng nhu cầu tập luyện của người dân.
Vấn đề mở rộng và nâng cao hiệu quả phong trào thể dục thể thao quần chúng đang trở nên cấp thiết, nhằm huy động sức mạnh toàn xã hội chăm lo giáo dục thể chất cho nhân dân Điều này giúp mỗi người dân được tham gia vào các hoạt động văn hóa, thể thao, từ đó tăng cường sức khỏe, phục vụ cho lao động, học tập, và góp phần ổn định, phát triển kinh tế - xã hội Ngành thể dục thể thao không chỉ chăm sóc sức khỏe cho mọi người mà còn phát triển hài hòa các mặt, với sức khỏe thể chất là nền tảng để sống tốt, sống khỏe và sống lâu, đảm bảo hiệu suất làm việc cao.
Trong bối cảnh phát triển cao của xã hội hiện đại, nhiều quốc gia đang cải cách cơ chế và hình thức quản lý thể dục thể thao (TDTT) thông qua việc xác định lại cơ cấu tổ chức, chức năng và hệ thống điều hành Các giải pháp chính mà các nước đang áp dụng hiện nay bao gồm việc tối ưu hóa tổ chức và nâng cao hiệu quả quản lý trong lĩnh vực TDTT.
Việc tách chức năng quản lý, điều hành thể dục thể thao (TDTT) khỏi tổ chức Nhà nước đang được nhiều nước Đông Âu và Nga thực hiện, qua đó chuyển giao các chức năng TDTT từ tổ chức nhà nước cho Uỷ ban Olympic và các Hiệp hội, Liên đoàn Thể thao Tuy nhiên, các Liên đoàn và Hiệp hội Thể thao vẫn chưa thực hiện đầy đủ chức năng được giao, trong khi thói quen quản lý tập trung cũ ảnh hưởng lớn đến hoạt động tự chủ của các tổ chức xã hội TDTT, dẫn đến sự mất cân bằng trong phát triển TDTT quốc gia Do đó, cần duy trì hoạt động của tổ chức TDTT xã hội và tăng cường chức năng tổ chức, quản lý chiến lược TDTT, đồng thời đầu tư cho TDTT cấp quốc gia, với sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức xã hội và tổ chức TDTT Nhà nước để phát triển TDTT quốc gia một cách toàn diện.
Xu hướng quản lý tổ chức thể thao hiện nay theo quy luật thị trường đã được nhiều nước phương Tây áp dụng, phân chia sản phẩm thể thao thành ba loại: công cộng, tư nhân và hỗn hợp Từ những năm 90, các quốc gia đã điều chỉnh cơ chế tổ chức quản lý thể thao, tập trung vào việc phát triển sản phẩm thể thao cấp cao, đặc biệt là nguồn nhân lực thể thao Chính phủ đã đầu tư vào các trung tâm và cơ sở đào tạo tài năng thể thao, đồng thời tạo điều kiện để các sản phẩm này tham gia vào thị trường hàng hóa thể thao Việc vận hành theo cơ chế thị trường và xác định giá trị sản phẩm như hàng hóa đã khuyến khích sự tham gia của các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và tổ chức thương mại vào quy trình cung ứng và quản lý thể thao.
Xu hướng quản lý thể dục thể thao (TDTT) hiện nay là phân cấp từ trung ương đến địa phương, với trọng tâm là nâng cao thực lực TDTT quốc gia Nhà nước chú trọng vào quản lý tài chính cho thể thao thành tích cao, trong khi chính quyền địa phương tập trung phát triển các lĩnh vực khác như thể thao cho mọi người và thể thao trường học Điều này thể hiện rõ sự phân cấp trong quản lý TDTT và xác định nhiệm vụ chức năng trọng điểm cho từng cấp.
Xu hướng quản lý phối hợp các tổ chức thể dục thể thao (TDTT) hiện nay cho thấy mối quan hệ giữa Chính phủ Trung ương và chính quyền địa phương được thiết lập theo khung pháp luật, với quy định là hiệp thương phối hợp thay vì quyết định trực tiếp Chính phủ xác định mục tiêu phát triển của TDTT và căn cứ vào luật pháp để tiến hành hiệp thương, tổ chức phối hợp các tổ chức xã hội TDTT thực hiện nhiệm vụ Các tổ chức xã hội, khi tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ, được đảm bảo quyền lực và kinh phí từ nhà nước, thể hiện hình thức quản lý theo hợp đồng.
Thứ năm: Hoàn thiện cơ chế vận hành TDTT
Hoàn thiện cơ chế quản lý thể dục thể thao (TDTT) theo mục tiêu là phương pháp được nhiều quốc gia áp dụng Chính phủ dựa vào các mục tiêu TDTT đã xác định để thiết lập một hệ thống khả thi, phân cấp thực hiện, đánh giá và đảm bảo kinh phí Phương pháp này không chỉ nâng cao ý thức về giá trị sản phẩm TDTT mà còn cải thiện hiệu suất kinh tế trong đầu tư vào lĩnh vực này.
Để hoàn thiện cơ chế giám sát, cần thiết lập các tổ chức giám sát và kiểm tra, bao gồm các chuyên gia có trình độ cao Những tổ chức này sẽ dựa vào tài liệu thực tế và thông tin khoa học trung thực để phân tích, tổng hợp và đánh giá các vấn đề chính sách Qua đó, họ sẽ đề xuất giải pháp và dự báo kết quả phát triển, giúp nhà nước đưa ra các quyết sách chiến lược và chiến thuật Một số quốc gia đã thành lập tổ chức thanh tra, kiểm tra độc lập định kỳ để quản lý thể dục thể thao hiệu quả hơn.
Để nâng cao hiệu quả quản lý thể dục thể thao (TDTT), cần hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cấp quản lý Mô hình quản lý TDTT tập trung từ Trung ương đến địa phương, được áp dụng thành công ở nhiều quốc gia vào cuối thế kỷ XX, đã chứng minh tính hiệu quả Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp giữa nhà nước và tổ chức xã hội trong việc thực hiện các mục tiêu TDTT cụ thể cũng mang lại kết quả cao, gia tăng sức mạnh quản lý TDTT Việc xác định rõ mục tiêu đã giúp khai thác tối đa sức mạnh của toàn xã hội, góp phần hoàn thành nhiệm vụ TDTT một cách hiệu quả.
Mô hình quản lý thể dục thể thao (TDTT) hiện nay dựa vào phúc lợi xã hội trong cơ chế thị trường hiện đại hóa bao gồm việc thành lập các câu lạc bộ TDTT cơ sở Những câu lạc bộ này được quản lý bởi nhà nước, tạo điều kiện cho đông đảo người dân tham gia tập luyện TDTT, sử dụng các nguồn phúc lợi công cộng của xã hội.
1.4.2 Nội dung và phương thức xã hội hóa thể dục thể thao ở xã, phường, thị trấn
Xã hội hoá thể dục thể thao (TDTT) là một chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước, nhằm phát triển TDTT và nâng cao sức khoẻ cho nhân dân trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế Điều này được thực hiện thông qua sự phối hợp hành động có kế hoạch của mọi lực lượng xã hội, theo định hướng và chiến lược quốc gia, nhằm biến TDTT thành sự nghiệp chung của toàn dân.
Xã hội hoá công tác thể dục thể thao (TDTT) là một giải pháp chiến lược quan trọng, giúp đổi mới cơ chế quản lý TDTT nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước Nội dung chính của xã hội hoá công tác TDTT bao gồm nhiều vấn đề thiết yếu, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững trong lĩnh vực thể thao.
Xã hội hóa công tác thể dục thể thao (TDTT) tập trung vào cơ sở và người dân, nhằm hướng dẫn và phát triển nhu cầu hoạt động TDTT của cộng đồng Điều này tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi để người dân tự đáp ứng nhu cầu của mình, đồng thời thực hiện công bằng và dân chủ hóa trong hoạt động TDTT.
Khái quát về môn bơi và vai trò, vị trí, tác dụng của môn bơi trong việc phát triển con người
1.5.1 Khái quát về môn bơi lội
Bơi lội là môn thể thao dưới nước, giúp con người di chuyển qua các quãng đường dưới nước với tốc độ khác nhau nhờ vào sự vận động toàn thân, đặc biệt là đạp chân và quạt tay Môn thể thao này đã ra đời trong quá trình lao động sản xuất và trong nỗ lực chống lại thiên tai, địch hoạ của con người.
Bơi lội gắn liền với sự sinh tồn và phát triển của con người, phản ánh sự tiến bộ của xã hội Môn thể thao này bao gồm nhiều hình thức, đặc biệt là trong các giải đấu như Olympic và vô địch thế giới, với bốn nội dung chính: bơi thể thao, nhảy cầu, bóng nước và bơi nghệ thuật, mỗi môn đã trở thành một thể loại độc lập Ngoài ra, còn nhiều hình thức bơi lội dân gian như bơi tô tô, bơi chải, bơi đứng và bơi nghiêng Tuy nhiên, một số kiểu bơi truyền thống không còn được ưa chuộng trong thi đấu do kỹ thuật không hiệu quả, dẫn đến tốc độ chậm và tốn sức Hiện nay, các hoạt động bơi lội đang ngày càng được phát triển và mở rộng.
Bơi thể thao là các kiểu bơi hiện đại được sử dụng trong các cuộc thi đấu thể thao trong nước và quốc tế Các kiểu bơi này bao gồm bơi ếch, bơi bướm, bơi ngửa và bơi trườn sấp, trong đó một số kiểu được đặt tên theo động vật hoặc tư thế bơi Với sự phát triển của bơi thể thao, nội dung thi đấu ngày càng phong phú, bao gồm cả bơi hỗn hợp cá nhân và tiếp sức hỗn hợp, trở thành các môn thi đấu chính thức.
Bơi thực dụng là một kỹ năng quan trọng bao gồm nhiều hình thức như bơi đứng, bơi nghiêng, bơi ếch, bơi ngửa, lặn, kỹ thuật cứu đuối, bơi vũ trang và bơi vượt sông, biển Những kỹ thuật này không chỉ giúp người bơi duy trì sự an toàn trong nước mà còn nâng cao khả năng sinh tồn trong các tình huống khẩn cấp.
Sự phân biệt giữa bơi thể thao và bơi thực dụng là tương đối, vì bơi thực dụng bao gồm các hoạt động bơi phục vụ cho lao động, quân sự và sinh hoạt hàng ngày Chẳng hạn, trong bơi thực dụng, người ta có thể sử dụng kiểu bơi trườn ngửa để cứu người bị đuối nước, hay trong bơi thư giãn, kiểu bơi ngửa cũng được áp dụng, mặc dù những kiểu bơi này không hoàn toàn thuộc về bơi thực dụng.
Bơi thể thao đặc chủng là hình thức bơi cự li dài, nhằm thiết lập kỷ lục về thời gian và khoảng cách Một ví dụ điển hình là vận động viên người Ý đã đạt kỷ lục bơi 225km trong 100 giờ Ngoài ra, môn lặn tốc độ, còn gọi là thể thao dưới nước, bao gồm các nội dung thi đấu như lặn vòi hơi với các cự li 100m, 200m, 400m, 800m, 1500m, 1850m và tiếp sức 4 × 100m, 4 × 200m cho cả nam và nữ Thêm vào đó, lặn nín thở (đội mũ bịt mặt và mang chân vịt) thi đấu cự li 50m, và lặn khí tài (mang bình lặn, kính chân vịt) với các cự li 100m, 400m, 800m cũng là những nội dung quan trọng trong môn thể thao này.
Bơi lội quần chúng ngày càng phát triển mạnh mẽ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về sức khỏe và giải trí của con người trong bối cảnh kinh tế - xã hội phát triển Hoạt động này không chỉ giúp phục hồi sức khỏe mà còn mang lại niềm vui và sự thư giãn, với các hình thức như bơi giảm béo và trò chơi dưới nước Với kỹ thuật đơn giản và tính đa dạng, bơi lội quần chúng thu hút được đông đảo người tham gia, trở thành một phần quan trọng của môn bơi lội hiện đại.
1.5.2 Ý nghĩa, vai trò, vị trí và tác dụng của môn bơi trong việc phát triển con người
1.5.2.1 Ý nghĩa, vai trò và vị trí hoạt động môn bơi lội
Bơi lội là một môn thể thao tuyệt vời diễn ra trong môi trường nước, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe và sự phát triển toàn diện của con người Tập luyện bơi lội giúp cải thiện chức năng của hệ tim mạch và hô hấp, đồng thời tăng cường quá trình trao đổi chất Nước có khả năng hấp thu nhiệt tốt hơn không khí gấp bốn lần, và áp suất nước tác động lên bề mặt cơ thể cùng với lực cản khi bơi giúp cơ thể thích ứng và nâng cao các chức năng vận động.
Tập luyện bơi lội không chỉ giúp rèn luyện cơ thể mà còn thích nghi với biến đổi khí hậu, đồng thời phát triển khả năng hoạt động của hệ hô hấp Khi bơi, vận động viên thở theo nhịp động tác tay, với mỗi chu kỳ bơi tương ứng với một lần hít vào và thở ra Quá trình này tiêu hao nhiều năng lượng, đòi hỏi nhu cầu oxy cao, khiến người bơi phải thở sâu Áp suất nước tác động lên vòng ngực yêu cầu phải thở ra mạnh mẽ, giúp phát triển các cơ hô hấp Kết quả là dung tích sống của vận động viên bơi lội có thể đạt từ 6-7 lít, trong khi đó dung tích sống của người không bơi chỉ khoảng 3,4 lít đối với nam và 2,4 lít đối với nữ.
Tập bơi thường xuyên giúp cơ thể ở vị trí nằm ngang, tạo điều kiện cho máu lưu thông dễ dàng và tăng cường tuần hoàn máu Qua thời gian, thể tích tim sẽ lớn lên và tần số mạch tĩnh giảm xuống còn 40 - 60 lần/phút, giúp người tập cảm thấy ít mệt mỏi hơn khi làm việc Bơi lội còn làm tăng số lượng hồng cầu, cải thiện khả năng hấp thụ ôxy, từ đó nâng cao sức bền cho cơ thể Đặc biệt, đối với học sinh, việc luyện tập bơi lội không chỉ giúp phát triển thể chất mà còn tạo nền tảng sức khỏe cho tương lai Ngoài ra, bơi lội còn rèn luyện ý chí dũng cảm, tinh thần đồng đội và kỷ luật, góp phần phát triển các phẩm chất tâm lý tích cực.
Bơi lội được coi là một trong những hoạt động giải trí phổ biến nhất thế kỷ XXI, mang lại lợi ích tích cực cho đời sống văn hóa tinh thần của con người Đây là môn thể thao có giá trị thực tiễn cao trong lao động và sản xuất, đặc biệt trong các công việc liên quan đến nước như phòng chống bão lụt và giao thông trên biển Kỹ năng bơi lội không chỉ giúp nâng cao năng suất lao động mà còn bảo vệ tính mạng con người Trong lĩnh vực quốc phòng, bơi lội là một môn quân sự quan trọng, giúp rèn luyện sức khỏe và khắc phục khó khăn trong chiến đấu, từ đó góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bơi lội là môn thể thao cơ bản với số lượng huy chương lớn tại các Đại hội Olympic, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy chính trị và ngoại giao giữa các quốc gia, tăng cường tình hữu nghị và sự hiểu biết giữa các dân tộc Do đó, nhiều quốc gia đã chú trọng phát triển môn bơi lội bằng cách xây dựng bể bơi và sáng tạo dụng cụ tập luyện mới Để nâng cao thành tích, nhiều quốc gia đã thành lập các trung tâm đào tạo vận động viên chuyên nghiệp, từ khâu tuyển chọn đến huấn luyện, nhằm tạo ra nhiều vận động viên xuất sắc cho đội tuyển quốc gia Những nỗ lực này đã góp phần nâng cao thành tích thể thao thế giới, thúc đẩy sự phát triển của môn thể thao hiện đại.
1.5.2.2 Tác dụng của môn bơi trong việc phát triển con người
Tác dụng đối với việc tăng cường thể chất người tập:
Bơi lội giúp cơ thể ở tư thế nằm ngang, tạo điều kiện cho máu lưu thông dễ dàng nhờ áp lực nước Tần số mạch tăng cao khi bơi làm tăng lưu lượng máu, và tập luyện lâu dài sẽ làm tăng thể tích tim, giúp tim co bóp mạnh hơn và làm giảm tần số mạch yên tĩnh xuống 40-60 lần/phút ở vận động viên, so với 70-80 lần/phút ở người bình thường Bơi lội còn làm tăng hồng cầu, cải thiện khả năng hấp thụ oxy, với hàm lượng hồng cầu ở nam vận động viên đạt 14-16 gram/100ml máu và nữ là 13-15 gram Việc tập luyện bơi không chỉ cải thiện chức năng hệ thần kinh, tuần hoàn và hô hấp mà còn phát triển sức mạnh, tốc độ, sức bền, mềm dẻo và tính nhịp điệu của cơ thể Đặc biệt, ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, bơi lội giúp phát triển thể chất và tinh thần, tạo nền tảng sức khoẻ cho việc học tập Ngoài ra, bơi lội còn phát triển ý chí, lòng dũng cảm, tinh thần đồng đội và kỷ luật Đây cũng là hoạt động thể thao có lợi cho người khuyết tật và những người gầy yếu, giúp cải thiện sức khoẻ Bơi lội được xác định là một trong những hoạt động giải trí phổ biến nhất trong thế kỷ 21, mang lại lợi ích cho cuộc sống văn hóa tinh thần của con người.
Giá trị thực dụng của tập luyện môn bơi lội:
Bơi lội là một hoạt động thiết yếu trong lao động sản xuất và xây dựng, đặc biệt trong các công việc dưới nước như xây dựng công trình, phòng chống thiên tai, giao thông và đánh cá Kỹ năng bơi lội không chỉ giúp vượt qua trở ngại của nước mà còn nâng cao hiệu quả công việc Hơn nữa, việc nắm vững kỹ thuật bơi và cứu đuối rất quan trọng cho việc tự cứu và cứu người khác khi gặp nguy hiểm Trong lĩnh vực quốc phòng, bơi lội là một phần quan trọng trong huấn luyện quân sự, giúp rèn luyện ý chí, tăng cường kỷ luật và bồi dưỡng tinh thần dũng cảm, từ đó góp phần bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tác dụng thi đấu của môn bơi lội:
Bơi lội là một trong những môn thể thao cơ bản và có số lượng huy chương lớn nhất tại các Đại hội thể thao lớn trên toàn cầu, chỉ đứng sau điền kinh với 34 bộ huy chương Trong những năm gần đây, số lượng các cuộc thi đấu bơi lội ngày càng gia tăng, không chỉ giới hạn ở Đại hội Olympic mà còn bao gồm các giải vô địch bơi lội mùa hè và nhiều sự kiện lớn khác.
Khái quát tình hình kinh tế, xã hội của phường Ngọc Hà quận Ba Đình thành phố Hà Nội trong những năm gần đây
Ngọc Hà là một vùng đất giàu truyền thống lịch sử và cách mạng, nổi tiếng với làng lúa và làng hoa của Hà Nội Hiện tại, phường Ngọc Hà có 10 địa bàn dân cư, chia thành 19 tổ dân phố với khoảng 20.000 dân Trong phường còn tồn tại 2 làng cổ là làng Ngọc Hà và làng Đại Yên, thuộc vùng đất Thập Tam Trại, nơi người dân có truyền thống lao động cần cù và sáng tạo Phường Ngọc Hà nằm ở phía Bắc quận Ba Đình, tiếp giáp với các phường lân cận.
- Phía Đông: giáp phường Quán Thánh, phường Điện Biên - quận Ba Đình
- Phía Tây: giáp phường Liễu Giai - quận Ba Đình
- Phía Nam: giáp phường Đội Cấn - quận Ba Đình
- Phía Bắc: giáp phường Thụy Khuê - quận Tây Hồ
Tổng diện tích tự nhiên: 68,07ha, trong đó: Đất nông nghiệp: 0,13 ha; Đất phi nông nghiệp: 67,47ha; Đất chưa sử dụng: 0,47ha
Phường Ngọc Hà đang phát triển mạnh mẽ với nhiều cải tiến đáng kể, như hồ Đầm và hồ Bảy Gian được nâng cấp, đình Ngọc Hà trở thành biểu tượng đẹp giữa lòng Hà Nội Sự gia tăng các tòa nhà cao tầng và việc bàn giao con đường Đại Yên, cùng với việc xây dựng mới trụ sở công an và nhà văn hóa phường, đã góp phần nâng cao chất lượng hạ tầng Đường ngõ cũng được cải thiện toàn diện, giúp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân Ngọc Hà.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Quận ủy, HĐND, UBND quận Ba Đình và sự chỉ đạo sát sao của chính quyền phường, các nhiệm vụ chỉ tiêu đã được triển khai hiệu quả An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, kinh tế tiếp tục phát triển, với kết quả thu ngân sách khả quan Hoạt động văn hóa - xã hội được đẩy mạnh, các lễ hội và ngày kỷ niệm được tổ chức tốt, đảm bảo chi trả lương và trợ cấp kịp thời cho người dân Công tác chăm sóc sức khỏe, phòng chống dịch bệnh và quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm được chú trọng Trật tự văn minh đô thị được nâng cao, cùng với việc quản lý đô thị và giải phóng mặt bằng cho các dự án được thực hiện nghiêm túc Công tác vệ sinh môi trường, phòng chống hàng giả và gian lận thương mại được thực hiện thường xuyên, đồng thời duy trì kỷ luật hành chính và thái độ phục vụ tốt của đội ngũ cán bộ, công chức.
Phường Ngọc Hà, cùng với các địa phương khác của Hà Nội, đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo với những thành tựu về kinh tế, văn hóa và tinh thần Nếp sống thanh lịch, văn minh của người Hà Nội không chỉ thể hiện sự phát triển của Thủ đô mà còn khẳng định vị thế xứng đáng là trái tim của cả nước Việt Nam.
Một số công trình nghiên cứu có liên quan
Từ đầu thế kỷ 21, khoa học công nghệ trong lĩnh vực thể dục thể thao (TDTT) tại Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển với nhiều công trình nghiên cứu nổi bật của các tác giả như Đặng Quốc Nam, Cấn Văn Nghĩa, Trần Kim Cương, Nguyễn Hoàng Thụ, và Nguyễn Ngọc Kim Anh Mặc dù các mục tiêu nghiên cứu khác nhau, nhưng tất cả đều xuất phát từ cơ sở lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp, cùng với các giải pháp cụ thể nhằm hiện thực hóa quan điểm của Đảng về phát triển TDTT trong đời sống Các công trình nghiên cứu này đóng góp quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả quản lý TDTT tại Việt Nam.
Nghiên cứu của Cấn Văn Nghĩa (2009) về hiệu quả hoạt động thể dục thể thao (TDTT) tại tỉnh Hà Tây nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng phong trào TDTT cơ sở nhằm phát triển thể chất cộng đồng và phát hiện, đào tạo vận động viên nòng cốt Tác giả đề xuất xây dựng các mô hình hoạt động TDTT, đặc biệt trong trường học, và khẳng định rằng cán bộ chủ chốt cần nắm vững chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực này Mối quan hệ giữa văn hóa và thể thao cần được phối hợp chặt chẽ để nâng cao giá trị xã hội của hoạt động TDTT Đặc biệt, vai trò của cộng tác viên và hướng dẫn viên TDTT là rất quan trọng, yêu cầu kiến thức và kỹ năng chuyên môn để tổ chức các hoạt động một cách hiệu quả Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở như Nhà Văn hóa xã và Trung tâm Văn hóa - thể thao xã là những đơn vị thiết yếu trong hệ thống TDTT, cần sự quan tâm lãnh đạo cụ thể từ địa phương để đảm bảo sự bền vững Thực tiễn đã chứng minh rằng vai trò của cán bộ và hướng dẫn viên là yếu tố quyết định trong việc xây dựng và phát triển phong trào TDTT tại địa phương.
Tác giả Trần Kim Cương (2008) với đề tài: “Nghiên cứu phát triển các câu lạc bộ TDTT quần chúng ở tỉnh Ninh Bình”, đã cho rằng, khi xây dựng CLB
Để phát triển hoạt động thể dục thể thao (TDTT) trong trường học tại tỉnh Ninh Bình, cần xem xét thực trạng kinh tế và xã hội của địa phương, xác định đối tượng tham gia và nhu cầu tập luyện của họ Tổ chức và quản lý các câu lạc bộ TDTT trong trường học có những đặc điểm khác biệt so với các câu lạc bộ ngoài xã hội Việc nghiên cứu cơ chế hoạt động và giải pháp duy trì hoạt động lâu dài của các câu lạc bộ là rất quan trọng để phù hợp với đặc điểm của trường học Để biến các câu lạc bộ TDTT cơ sở thành thiết chế thể thao, vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương cần được tăng cường thông qua việc ban hành chỉ thị, nghị quyết và các chương trình hành động nhằm phát triển TDTT quần chúng Ngoài ra, cần thiết lập chính sách đào tạo cán bộ TDTT, tăng cường đầu tư từ Nhà nước, và đẩy mạnh xã hội hóa, bao gồm quy hoạch đất và cơ sở vật chất cho TDTT Công tác thông tin tuyên truyền cũng cần được chú trọng để nâng cao nhận thức cộng đồng về TDTT, đồng thời tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các chủ trương về TDTT trong tỉnh, và tổ chức tổng kết hàng năm để khen thưởng các cá nhân, đơn vị tiêu biểu trong hoạt động TDTT.
Mặc dù là một đề tài mới được khảo sát và ứng dụng trong thời gian ngắn, nhưng nó đã tạo ra sự thay đổi đáng kể trong nhận thức và có ảnh hưởng trực tiếp đến bộ máy quản lý cũng như đối tượng nghiên cứu.
Tác giả Nguyễn Ngọc Kim Anh (2012) đã nghiên cứu phát triển thể dục thể thao quần chúng tại các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Bắc, thông qua việc khảo sát các hoạt động TDTT cơ sở nhằm xác định mẫu hình tổ chức và hoạt động phù hợp với đặc thù của các tỉnh Tây Bắc Đề xuất của nghiên cứu bao gồm việc hoàn chỉnh hình mẫu quản lý TDTT cấp xã theo hai hướng: quản lý nhà nước và đơn vị sự nghiệp theo chủ trương xã hội hóa Quản lý nhà nước về TDTT sẽ được thực hiện bởi Ban văn hóa xã hội thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong khi đơn vị sự nghiệp TDTT cấp xã sẽ là Trung tâm văn hóa - thể thao, theo Thông tư liên tịch số 22 năm 2007 Mẫu hình này nhằm hợp nhất các cơ sở hiện có như Nhà văn hóa, sân vận động, khu thể thao giải trí và các câu lạc bộ văn hóa, thể thao, tạo ra một hệ thống TDTT công lập hiệu quả tại cấp xã.
Hình mẫu này cho thấy phù hợp với chủ trương của Nhà nước tại Thông tư số 12/2010/TT-BVHTTDL, ngày 22/12/2010 của Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch quy định mẫu tổ chức, hoạt động và tiêu chí cho Trung tâm Văn hóa, Thể thao xã, bao gồm chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, cơ sở vật chất, trang thiết bị Thông tư số 02/2009/TT-BVHTTDL, ngày 17/3/2009, hướng dẫn chi tiết về nội dung và phương thức hoạt động của các trung tâm này, đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả trong lĩnh vực văn hóa và thể thao tại địa phương.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn việc tổ chức và đánh giá phong trào
Thể dục thể thao quần chúng tại địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao sức khỏe cộng đồng Quy định và hướng dẫn đánh giá các hoạt động thể dục thể thao quần chúng giúp đảm bảo chất lượng và hiệu quả của phong trào Đồng thời, chế độ báo cáo về các nội dung hoạt động thể dục thể thao tại cơ sở sẽ hỗ trợ việc theo dõi, đánh giá và phát triển các chương trình phù hợp với nhu cầu của người dân.
Nghiên cứu của tác giả Phạm Tuấn Hiệp (2012) về việc duy trì và phát triển loại hình tập luyện thể dục thể thao (TDTT) dựa vào phúc lợi xã hội tại Bắc Ninh chỉ ra rằng các thiết chế tổ chức và quản lý bao gồm Câu lạc bộ TDTT, Câu lạc bộ Văn hóa - Thể thao, Trung tâm Văn hóa - Thể thao cấp xã, và Nhà Văn hóa - Khu thể thao cấp thôn Những tổ chức này do UBND cấp xã thành lập và quản lý, nhằm thu hút người dân tham gia tập luyện thể thao miễn phí hoặc với chi phí thấp Để phát triển các loại hình TDTT này, nghiên cứu đề xuất 09 nhóm giải pháp, trong đó 04 giải pháp cần triển khai ngay gồm: tăng cường xã hội hóa và khai thác nguồn lực cho phong trào TDTT, bồi dưỡng cán bộ TDTT, củng cố các Câu lạc bộ TDTT và Trung tâm Văn hóa - Thể thao cấp xã, cùng với việc thúc đẩy mô hình tổ chức tập luyện TDTT dựa vào phúc lợi xã hội.
Tóm lại: Xác định mô hình hoạt động TDTT sở cơ sở của các tác giả Cấn
Các chuyên gia như Văn Nghĩa, Trần Kim Cương, Nguyễn Ngọc Kim Anh, và Phạm Tuấn Hiệp đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền trong việc phát triển thể dục thể thao (TDTT) tại địa phương Họ đề xuất rằng báo cáo công tác hàng năm và nghị quyết đại hội Đảng cần bao gồm nội dung về phát triển TDTT Cấp ủy cần ban hành các văn bản cụ thể để lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ TDTT, đồng thời xác định các vấn đề sức khỏe cần giải quyết Việc cân đối nguồn lực địa phương và ưu tiên phát triển các câu lạc bộ thể thao đa môn là cần thiết Sự phối hợp giữa Đảng, chính quyền và các tổ chức liên quan, cùng với việc tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân, sẽ góp phần tăng cường sức khỏe, phòng ngừa bệnh tật và xây dựng nếp sống văn minh trong cộng đồng.
Các nghiên cứu hiện tại chủ yếu tập trung vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa và thể thao tại các cơ sở như xã, phường, thị trấn ở các tỉnh đồng bằng và miền núi, nhằm phát triển phong trào thể dục thể thao quần chúng Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đề cập đến việc phát triển phong trào tập luyện môn bóng chuyền hơi cho người dân trong tỉnh Do đó, các công trình nghiên cứu này sẽ là tài liệu tham khảo quý giá cho việc xác định lộ trình và hướng nghiên cứu tiếp theo cho đề tài.
Nhận xét
Từ những kết quả phân tích, tổng hợp nêu trên, cho phép đi đến một số nhận xét sau:
1 Trong bối cảnh xã hội tập trung vào thành thị, hoạt động tập luyện TDTT được tập trung chú ý hơn thì phát triển loại hình tập luyện TDTT dựa vào phúc lợi xã hội thể thao là biện pháp có hiệu quả trong phát triển số người tập và phong trào tập luyện các môn thể thao cho mọi người, từ đó tăng cường chất lượng cuộc sống cho con người về sức khoẻ thể lực và tâm lí trong xã hội hiện đại ít vận động
2 Duy trì và phát triển mô hình tổ chức, quản lý loại hình TDTT dựa vào phúc lợi xã hội cùng với các giải pháp triển khai thực hiện là yếu tố thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hoá TDTT của phường Ngọc Hà trong xu thế hội nhập hiện nay Các yếu tố tác động đến quá trình xây dựng mô hình câu lạc bộ TDTT, gia đình thể thao là vai trò quản lý Nhà nước có tính chất quyết định đến việc duy trì, phát triển loại hình TDTT dựa vào phúc lợi xã hội ở cấp cơ sở xã, phường, thị trấn
3 Cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị thể thao, cơ chế chính sách và mô hình tổ chức, quản lý có mối liên hệ trực tiếp tới quá trình cải cách và phát triển phong trào tập luyện môn bơi lội theo loại hình tập luyện TDTT dựa vào phúc lợi xã hội Với thực trạng về đặc điểm kinh tế xã hội, điều kiện thực tiễn phát triển TDTT hiện nay của phường Ngọc Hà thì việc duy trì, phát triển loại hình TDTT dựa vào phúc lợi xã hội ở các cấp cơ sở phải gắn liền với truyền thống văn hoá và tiềm năng phát triển kinh tế của địa phương, đồng thời phải xem xét đến điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của phường để có những giải pháp phát triển một cách phù hợp và hiệu quả.