1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Báo cáo thực tập huy động vốn chính phủ tại kho bạc NN HN

81 1 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 81
Dung lượng 388,21 KB

Cấu trúc

  • 1 Lý luận chung về huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ

    • 1.1 Kho bạc nhà nước và vấn đề huy động vốn nhằm phát triển kinh tế - xã hội

      • 1.1.1 Khái niệm về Ngân sách nhà nước

      • 1.1.2 Nhu cầu về vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2005

      • 1.1.3 Vai trò quyết định của vốn trong nước

      • 1.1.4 Sự cần thiết khách quan của công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ

        • 1.1.4.1 Huy động vốn trong nước góp phần bù đắp thiếu hụt NSNN

        • 1.1.4.2 Huy động vốn nhàn rỗi trong nước góp phần cho đầu tư phát triển kinh tế

        • 1.1.4.3 Thông qua huy động vốn nhàn rỗi trong nước, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn, thị trường chứng khoán

      • 1.1.5 Vai trò của huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ

    • 1.2 Các nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển KT-XH

      • 1.2.1 Huy động vốn trong nước

      • 1.2.2 Huy động vốn nước ngoài

        • 1.2.2.1 Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài

        • 1.2.2.2 Nguồn viện trợ nước ngoài

        • 1.2.2.3 Các nguồn vốn khác

      • 1.2.3 Các kênh thu hút nguồn vốn

        • 1.2.3.1 Huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân

          • Huy động qua kênh NSNN

          • Muốn tăng hiệu quả vay nợ dân, cần chú trọng vào những vấn đề sau:

          • Huy động vốn qua các tổ chức Tài chính-Tín dụng

          • Thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư

          • Khai thác triệt để tiềm năng vốn trong dân cư

        • 1.2.3.2 Huy động vốn ngoài nước

          • Thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài

          • Khai thông mở rộng và hấp thu triệt để các nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài

      • 1.2.4 Nhiệm vụ của Kho bạc nhà nước trong công tác phát hành và thanh toán trái phiếu chính phủ, công tác quản lý và sử dụng vốn.

        • 1.2.4.1 Nhiệm vụ phát hành và thanh toán

        • 1.2.4.2 Công tác Quản lý và sử dụng vốn

      • 1.2.5 Phát triển thị trường trái phiếu kho bạc để huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước

    • 1.3 Các hình thức huy động vốn của Kho bạc nhà nước dưới hình thức trái phiếu Chính phủ

      • 1.3.1 Trái phiếu kho bạc

      • 1.3.2 Trái phiếu Chính phủ

        • Trái phiếu Chính phủ có 3 hình thức chủ yếu sau:

        • Lãi suất trái phiếu

        • Quản lý công tác thanh toán trái phiếu Chính phủ

    • 1.4 Sự phát triển của hình thức trái phiếu Chính phủ ở VN

      • 1.4.1 Giai đoạn kháng chiến

      • 1.4.2 Thời kỳ xây dựng đất nước

      • 1.4.3 Khi thành lập hệ thống KBNN

    • 1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động trái phiếu C.Phủ

      • 1.5.1 Các nhân tố khách quan

      • 1.5.2 Nhân tố chủ quan

  • 2 Thực trạng huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ ở Kho bạc Nhà nước Hà Nội

    • 2.1 Khái quát tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn thành phố Hà Nội & hoạt động của KBNN Hà Nội

      • 2.1.1 Khái quát tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn thành phố Hà Nội

      • 2.1.2 Khái quát về sự ra đời và phát triển của Kho bạc Nhà nước Hà Nội

        • 2.1.2.1 Về cơ cấu tổ chức của Kho bạc Nhà nước Hà Nội

        • 2.1.2.2 Về thực hiện chức năng và nhiệm vụ của KBNN Hà Nội

    • 2.2 Thực trạng việc hạch toán kế toán Trái phiếu Chính phủ những năm gần đây tại KBNN Hà Nội

      • Về cơ sở vật chất

    • 2.3 Thực trạng phát hành trái phiếu Chính phủ ở KBNN Hà Nội

      • 2.3.1 Phát hành tín phiếu Kho bạc

      • 2.3.2 Phát hành trái phiếu Chính phủ (trái phiếu công trình)

      • 2.3.3 Công trái Xây dựng tổ quốc

      • 2.3.4 Công trái giáo dục

      • 2.3.5 Trái phiếu đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước

    • 2.4 Những kết quả đạt được và những hạn chế của công tác phát hành trái phiếu Chính phủ tại Hà Nội

      • 2.4.1 Những kết quả đạt được

      • 2.4.2 Những hạn chế khi huy động vốn qua KBNN tại Hà Nội

      • 2.4.3 Nguyên nhân của những kết quả và hạn chế của công tác huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ

  • 3 Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ ở Kho bạc nhà nước Hà Nội

    • 3.1 Những định hướng chung về việc phát hành trái phiếu trong những năm tới

      • 3.1.1 Định hướng chung

      • 3.1.2 Tiềm năng huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ những năm tới ở KBNN Hà Nội

      • 3.1.3 Phương hướng, mục tiêu hoàn thiện công tác kế toán huy động vốn trong thời gian tới

        • 3.1.3.1 Phương hướng

        • 3.1.3.2 Mục tiêu

    • 3.2 Những giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn tại KBNN Hà Nội

      • 3.2.1 Đa dạng hoá phương thức và công cụ huy động vốn

        • Về phương thức huy động vốn

        • Về công cụ huy động vốn

      • 3.2.2 Cải tiến cơ chế huy động vốn cho các công trình

      • 3.2.3 Đổi mới quy trình và công tác kế hoạch hoá

      • 3.2.4 Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành có liên quan

    • 3.3 Những điều kiện để thực hiện các mục tiêu và giải pháp nêu trên.

      • 3.3.1 Hoàn thiện môi trường pháp lý

      • 3.3.2 Các điều kiện triển khai thực hiện

Nội dung

Kho bạc nhà nước và vấn đề huy động vốn nhằm phát triển kinh tế - xã hội

Khái niệm về Ngân sách nhà nước

NSNN là tổng hợp tất cả các khoản thu, chi của nhà nước được cơ quan có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong một năm Điều này nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.

Thu NSNN bao gồm các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; cùng với các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.

Chi NSNN bao gồm các khoản chi cho phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng và an ninh, duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.

NSNN được quản lý theo nguyên tắc tập trung, dân chủ và minh bạch, đảm bảo công khai trong quá trình quản lý Hệ thống này có sự phân công và phân cấp rõ ràng, đồng thời gắn quyền hạn với trách nhiệm của các cá nhân và tổ chức liên quan.

Quốc hội quyết định dự toán NSNN, phân bổ Ngân sách Trung ương, phê chuẩn quyết toán NSNN.

Ngân sách nhà nước (NSNN) bao gồm ngân sách trung ương (NSTW) và ngân sách địa phương (NSĐP) Trong đó, ngân sách địa phương là ngân sách của các đơn vị hành chính cấp tỉnh, huyện, xã có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.

Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và quan hệ giữa Ngân sách các cấp được thực hiện theo các nguyên tắc sau:

+ Ngân sách Trung ương và Ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương được phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể.

Ngân sách Trung ương đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các nhiệm vụ chiến lược quan trọng của quốc gia, đồng thời hỗ trợ các địa phương chưa cân đối được thu chi ngân sách.

Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu nhằm đảm bảo tính chủ động trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao, đồng thời tăng cường nguồn lực cho ngân sách xã Hội đồng nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm quyết định việc phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp chính quyền địa phương, phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của từng cấp trên địa bàn.

Nhiệm vụ chi thuộc ngân sách cấp nào sẽ được ngân sách cấp đó đảm bảo Việc ban hành và thực hiện chính sách, chế độ mới làm tăng chi ngân sách cần có giải pháp bảo đảm nguồn tài chính phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách từng cấp.

Khi cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên ủy quyền cho cơ quan quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi của mình, việc chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho cấp dưới là cần thiết để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ đó.

Để đảm bảo công bằng và phát triển cân đối giữa các vùng và địa phương, cần thực hiện phân chia tỷ lệ phần trăm đối với các khoản thu giữa ngân sách các cấp và bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới Tỷ lệ phân chia này sẽ được ổn định trong khoảng 3 - 5 năm, với số bổ sung từ ngân sách cấp trên được coi là khoản thu của ngân sách cấp dưới.

Trong thời kỳ ổn định ngân sách, các địa phương sử dụng nguồn thu tăng hàng năm để phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cần tăng khả năng tự cân đối ngân sách địa phương và giảm dần sự phụ thuộc vào ngân sách cấp trên Để quản lý hiệu quả kinh tế - xã hội, Nhà nước cần một lượng vốn lớn hơn để đầu tư cho các chương trình dự án, nhưng nguồn lực luôn có hạn, dẫn đến khó khăn về vốn Một lượng lớn vốn vẫn nằm rải rác trong dân, không được sử dụng hiệu quả Giải pháp cho vấn đề này là tín dụng Nhà nước, cho phép Nhà nước vay vốn để đảm bảo chi tiêu ngân sách nhà nước và thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - chính trị.

- xã hội của Nhà nước.

Trong lịch sử hoạt động tài chính của Nhà nước, bội chi ngân sách là hiện tượng không thể tránh khỏi Để khắc phục tình trạng bội chi ngân sách, Nhà nước cần lựa chọn một trong hai giải pháp.

Phát hành thêm tiền giấy là giải pháp dễ dàng và nhanh chóng để cân đối ngân sách, nhưng nó không liên quan đến lưu thông hàng hóa và có thể dẫn đến lạm phát, ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế và xã hội.

Vay nợ là giải pháp hiệu quả để cân đối ngân sách, không chỉ giúp giải quyết vấn đề tập trung vốn mà còn hạn chế tình trạng lạm phát và thúc đẩy phát triển kinh tế quốc dân Ở các nước có nền kinh tế thị trường, việc phát triển các hình thức vay nợ được chú trọng để đảm bảo cân đối ngân sách Trong thời kỳ bao cấp, nước ta chủ yếu dựa vào phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách, trong khi nguồn vốn vay chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ.

Trái phiếu chính phủ đã tạo ra một kênh huy động vốn mới trong nền kinh tế, bên cạnh các kênh huy động vốn của Ngân hàng Thương mại, nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.

Nhu cầu về vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2005- 9

Xuất phát từ nhu cầu bức xúc về vốn để thúc đẩy nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, ổn định và bền vững trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc huy động vốn cần khai thác tối đa nguồn vốn trong và ngoài nước nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu đầu tư của ngân sách nhà nước và các thành phần kinh tế.

Mục tiêu tổng quát của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 1990-2000 là thoát khỏi khủng hoảng và ổn định tình hình xã hội, vượt qua tình trạng nghèo nàn và kém phát triển Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, với mục tiêu tăng trưởng cao và ổn định ở mức 8-9%, trong đó ngành công nghiệp tăng trưởng 14% mỗi năm Đến năm 2002, GDP bình quân đầu người đã tăng gấp đôi so với năm 1990, đạt khoảng 400-450 USD/người/năm Tuy nhiên, do những khó khăn khách quan và chủ quan, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, tốc độ phát triển của đất nước đã bị giảm trong năm 1999 và 2000, khiến GDP bình quân đầu người vào cuối năm 2000 chỉ đạt 360 USD.

Đến năm 2002, GDP của Việt Nam chỉ đạt 400 USD, tương đương 1,8 lần so với năm 1990 Viện Nghiên cứu Chiến lược Phát triển đặt ra mục tiêu đến cuối năm 2005, GDP bình quân đầu người phải đạt 600 USD, gấp 1,5 lần so với hiện tại Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần duy trì mức tăng trưởng bình quân 7,5% trong 5 năm tới, trong khi giai đoạn 1996-2000 chỉ đạt 6,8% Để hiện thực hóa mục tiêu, Việt Nam cần huy động 58 tỷ USD trong 5 năm tới, tăng 45% so với giai đoạn trước, với 60% nguồn vốn từ trong nước và 40% từ nguồn vốn nước ngoài Mục tiêu là huy động tối thiểu 5% GDP hàng năm từ trái phiếu Chính phủ, tương đương khoảng 15.000-20.000 tỷ đồng mỗi năm.

Trong những năm tới, để đáp ứng nhu cầu vốn cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, cũng như cho các chương trình mục tiêu, nhiệm vụ huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ tại Kho bạc vẫn là một trọng trách quan trọng.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ huy động vốn, cần quán triệt nguyên tắc rằng vốn trong nước là quyết định, trong khi vốn nước ngoài là quan trọng Việc xử lý linh hoạt mối quan hệ giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài là cần thiết để đảm bảo đạt được các mục tiêu và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Vai trò quyết định của vốn trong nước

- Tạo ra các điều kiện cần thiết để hấp thụ và khai thác có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài.

Hình thành và phát triển sức mạnh nội sinh của nền kinh tế là yếu tố quan trọng nhằm hạn chế những tác động tiêu cực từ đầu tư nước ngoài Việc này không chỉ giúp nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế mà còn tạo ra sự bền vững cho xã hội.

Sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước là trách nhiệm của toàn dân, nhằm khai thác triệt để tiềm năng vốn có trong dân, từ đó tạo ra sự phát triển bền vững cho nền kinh tế Cần chú trọng vào sức mạnh tiềm ẩn của vốn trong cộng đồng và các doanh nghiệp, coi đó là nguồn tài nguyên quý giá cần được khai thác và sử dụng hiệu quả.

Sự cần thiết khách quan của công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ

Trong bất kỳ quốc gia nào, nguồn thu ngân sách nhà nước thường không đủ để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho phát triển kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, quản lý nhà nước, an ninh và quốc phòng Do đó, nhà nước cần vay vốn từ các thành phần kinh tế và cư dân trong nước, cũng như vay từ nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt này Hầu hết các quốc gia đều gặp khó khăn trong việc huy động nguồn thu từ thuế và lệ phí, vì vậy cần có nguồn tài chính bổ sung Một trong những nguồn tài chính đó là việc nhà nước vay từ dân thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ, từ đó sử dụng nguồn vốn này để đầu tư cho nền kinh tế, tạo ra khả năng thu nhập cho ngân sách nhà nước.

Việt Nam đang đối mặt với tình trạng tài chính - ngân sách mất cân đối và không ổn định, dẫn đến nền kinh tế chưa phát triển Nhà nước không đủ vốn cung ứng cho nền kinh tế, trong khi xã hội vẫn còn tồn đọng vốn và sử dụng vốn kém hiệu quả Nguồn vốn ngân sách nhà nước (NSNN) mở rộng nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế Để chuyển sang nền kinh tế thị trường, cần một lượng vốn lớn, trong khi nguồn thu từ thuế chỉ chiếm 23% GDP và vẫn chưa đủ cho chi tiêu ngân sách Với nguồn vốn nhàn rỗi lớn trong dân cư, việc tăng cường phát hành trái phiếu Chính phủ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước là cần thiết để khai thác tối đa nguồn vốn này Huy động vốn nhàn rỗi trong nước có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay.

1.1.4.1 Huy động vốn trong nước góp phần bù đắp thiếu hụt NSNN Đất nước ta bước sang một thời kỳ mới, nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhu cầu chi của NSNN ngày càng cao,trong khi đó nguồn thu của chúng ta còn hạn chế, chủ yếu là từ thuế, thiếu hụt ngân sách là tình trạng luôn xảy ra Trong thời gian qua, nền tài chính quốc gia đã có phần cải thiện và bắt đầu đi vào ổn định, tỷ lệ lạm phát hạ thấp, giá cả ổn định Song trong điều kiện bội chi ngân sách vẫn còn, lạm phát luôn là căn bệnh bùng nổ bất kỳ lúc nào, vì vậy việc huy động vốn nhàn rỗi trong nước có ý nghĩa sống còn đối với nền tài chính quốc gia Khai thác nguồn vốn nhàn rỗi trong nước trước hết nhằm mục đích chi trả cho NSNN một cách kịp thời, đảm bảo sự ổn định trước mắt của nền tài chính quốc gia, hơn nữa góp phần hạn chế việc phát hành tiền chi tiêu cho NSNN vì vậy việc này là một trong những nguyên nhân gây ra sự rối loạn lưu thông tiền tệ, kích thích tốc độ lạm phát tăng nhanh. Vì vậy, huy động vốn nhàn rỗi trong nước vừa có tác dụng bù đắp sự thiếu hụt NSNN, vừa góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Huy động vốn nhàn rỗi trong nước giúp ngân sách giảm dần sự thiếu hụt bằng chính sách tăng trưởng kinh tế là một xu hướng đang được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới.

1.1.4.2 Huy động vốn nhàn rỗi trong nước góp phần cho đầu tư phát triển kinh tế

Trong bối cảnh cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém và hạ tầng chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài chưa đạt hiệu quả cao Do đó, cần tăng cường huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nước để đầu tư cho các công trình trọng điểm và cơ sở hạ tầng thiết yếu Những khoản đầu tư này sẽ giúp cải thiện nhanh chóng bộ mặt nền kinh tế, tạo điều kiện cho doanh nghiệp và cá nhân mở rộng sản xuất, kinh doanh, từ đó nâng cao năng suất lao động và cải tiến kỹ thuật.

1.1.4.3 Thông qua huy động vốn nhàn rỗi trong nước, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn, thị trường chứng khoán

Việc phát triển thị trường vốn đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển giao nguồn vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách huy động vốn trong và ngoài nước Đồng thời, huy động vốn cho phát triển kinh tế cũng là yếu tố then chốt để thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của thị trường chứng khoán.

Huy động vốn qua việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu và tín phiếu là cách tạo ra nguồn vốn cho thị trường tài chính Trong thị trường chứng khoán, cổ phiếu thường là hàng hóa chủ yếu, nhưng trái phiếu Chính phủ, đặc biệt là trái phiếu Kho bạc, đang ngày càng trở nên quan trọng và nổi bật Từ việc chưa cho phép chuyển nhượng, hiện nay trái phiếu đã có sự phát triển đáng kể.

Kho bạc đã được đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước, không chỉ là công cụ vay vốn của Nhà nước mà còn là công cụ quan trọng trong chính sách tài chính - tiền tệ của nền kinh tế thị trường Đây là hàng hóa chủ yếu của thị trường vốn và thị trường chứng khoán tại Việt Nam Bộ Tài chính cùng với Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành liên quan đang nghiên cứu và chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sự phát triển của thị trường chứng khoán.

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam còn chưa phát triển và thị trường trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp chưa phong phú, trái phiếu Chính phủ đóng vai trò quan trọng như hàng hóa chủ yếu trên thị trường chứng khoán Việc tăng cường huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ là rất cần thiết nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước, đầu tư phát triển kinh tế, kiềm chế lạm phát, điều hòa vốn lưu thông và tạo cơ sở cho sự phát triển của thị trường vốn, thị trường chứng khoán tại Việt Nam.

Vai trò của huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ 13

Việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu chính phủ đã cung cấp một nguồn lực lớn cho ngân sách nhà nước và đầu tư phát triển, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của ngân sách Trong giai đoạn 1991-1995, nguồn vốn vay từ trái phiếu chiếm 1,3% GDP, đến 29% tổng chi ngân sách; giai đoạn 1996-2000 là 1,4% GDP, chiếm 33%; và từ 2001-2003, tỷ lệ này đã tăng lên 53% Điều này cho thấy vai trò quan trọng của tín dụng nhà nước trong phát triển kinh tế-xã hội Để thực hiện thành công chiến lược phát triển đến năm 2010 và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2020, cần mở rộng quy mô và tốc độ huy động vốn Trong bối cảnh đặc thù khí hậu và địa hình, giao thông và thủy lợi là những lĩnh vực ưu tiên đầu tư nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm thiểu sự chênh lệch giữa miền núi và miền xuôi, nâng cao dân trí, xóa đói giảm nghèo, và bảo đảm an ninh quốc phòng cho Tổ quốc.

Theo tính toán của các ngành chức năng, trong giai đoạn từ nay đến năm

Năm 2010, nhu cầu đầu tư phát triển hàng năm lên tới khoảng 250 nghìn tỷ đồng, trong đó riêng lĩnh vực giao thông và thủy lợi cần bổ sung hơn 15 nghìn tỷ đồng cho các công trình trọng điểm Nhờ sự quan tâm của Nhà nước và các ngành, địa phương, tiến độ xây dựng các công trình giao thông thủy lợi đã đạt được tốc độ tương đối nhanh, dẫn đến nhu cầu về vốn đầu tư ngày càng cấp bách.

Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ (số 182/2003/QĐ-TTg ngày 05/9/2003), nhu cầu vốn cho đầu tư các công trình giao thông thủy lợi trong giai đoạn 2003-2010 sẽ được huy động thông qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ.

Đầu tư 63 nghìn tỷ đồng cho 38 công trình trọng điểm, trong đó có 20 công trình giao thông với tổng vốn 41.500 tỷ đồng, bao gồm dự án đường Hồ Chí Minh và các quốc lộ 6, 70, 14C, 22B Ngoài ra, có 16 công trình thủy lợi với gần 14.000 tỷ đồng, chủ yếu tại miền Trung và Tây Nguyên, cùng với hai dự án tái định cư thủy điện Sơn La và Tuyên Quang với tổng vốn 8.800 tỷ đồng Số vốn này chưa bao gồm các tuyến đường Đông Trường Sơn và miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An Sau khi hoàn thành, các công trình sẽ tạo thành hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, nâng cao khả năng khai thác tài nguyên, thu hút đầu tư nước ngoài và thúc đẩy hợp tác quốc tế.

Thực hiện Thông tư số 56/1999/TT-BTC ngày 12/5/1999 của Bộ Tài chính, tổng mức vốn huy động cho công trái xây dựng Tổ quốc năm 1999 là 4.000 tỷ đồng Tiếp theo, theo Chỉ thị số 07/2003/CT-TTg ngày 3/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Tài chính tại Thông tư số 30/2003/TT-BTC ngày 15/4/2003, công trái giáo dục được phát hành với tổng mức huy động vốn 2.000 tỷ đồng nhằm đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, hỗ trợ các tỉnh miền núi Tây Nguyên và các tỉnh khó khăn Mục tiêu là không còn phòng học 3 ca vào cuối năm 2003 và không còn phòng học tạm thời vào năm 2005, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển sự nghiệp giáo dục.

Các nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển KT-XH

Huy động vốn trong nước

Trong những năm tới, cần tăng nhanh tỷ lệ tiết kiệm dành cho đầu tư, coi tiết kiệm là quốc sách, và áp dụng các biện pháp tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng ở tất cả các khu vực như Nhà nước, doanh nghiệp và hộ gia đình để dồn vốn cho phát triển sản xuất Cần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, đặc biệt là phát hành trái phiếu Chính phủ, đồng thời mở rộng và phát triển các tổ chức tài chính trung gian như hệ thống công ty tài chính và doanh nghiệp bảo hiểm Bên cạnh việc huy động vốn ngắn hạn, cần tăng tỷ trọng huy động vốn trung-dài hạn, với mục tiêu phấn đấu huy động được trên 60% tổng nhu cầu vốn đầu tư từ các nguồn trong nước.

Nguồn vốn đầu tư của Chính phủ hàng năm chiếm khoảng 10-15% ngân sách Nhà nước dành cho đầu tư phát triển Dự kiến tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) giai đoạn 2001-2003 đạt 20-22% GDP, trong đó thu thuế và phí khoảng 17-18% GDP Tổng chi NSNN khoảng 26-28% GDP, với chi cho đầu tư phát triển chiếm 10% GDP, tương đương 26% tổng chi NSNN Bội chi NSNN không vượt quá 5% GDP được giải quyết bằng cách khai thác triệt để các nguồn thu và tăng cường chính sách vay nợ của Chính phủ thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ.

Nguồn vốn đầu tư từ khấu hao cơ bản và lợi nhuận để lại từ các doanh nghiệp đã đạt khoảng 15-16 tỷ USD trong những năm qua Trung bình, các doanh nghiệp đã bổ sung từ 100-150 triệu USD, dự kiến chiếm 28% trong cơ cấu vốn đầu tư trong nước Đây là nguồn vốn đầu tư quan trọng cho tương lai.

Nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức tài chính bao gồm các tổ chức tín dụng, công ty tài chính, ngân hàng và phi ngân hàng, ước tính khoảng 3-4 tỷ USD.

Nguồn vốn đầu tư từ các hộ gia đình tại Việt Nam rất đáng kể, với hơn 10 triệu hộ gia đình, trong đó khoảng 2 triệu hộ có đủ khả năng tài chính để kinh doanh và tích lũy hàng năm Mỗi hộ gia đình dự kiến tiết kiệm từ 1.000 đến 1.500 USD cho đầu tư phát triển, dẫn đến tổng số tích lũy khoảng 2-3 tỷ USD, chiếm 33% cơ cấu vốn đầu tư trong nước.

Huy động vốn nước ngoài

Trong bối cảnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cần tập trung vào việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) vì nó không chỉ góp phần phát triển kinh tế mà còn mang lại cơ hội chuyển giao công nghệ, tạo việc làm cho lao động trong nước và sản xuất hàng hóa phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu Bên cạnh đó, việc khai thác các khoản viện trợ phát triển chính thức (ODA) cũng cần được chú trọng, đồng thời cần hoàn tất các công việc chuẩn bị để tiếp nhận nguồn vốn này một cách nhanh chóng Ngoài ra, việc phát hành trái phiếu quốc tế cần được xem xét kỹ lưỡng về các điều kiện vay và khả năng trả nợ, tránh vay thương mại cho những dự án cơ sở hạ tầng không mang lại lợi nhuận.

1.2.2.1 Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài

Từ khi Quốc hội ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vào ngày 29/12/1987 đến hết ngày 31/12/1999, cả nước đã cấp phép cho 3.398 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký đạt 42.341 triệu USD Trong số đó, 2.895 dự án vẫn đang hoạt động với số vốn 36.566 triệu USD, trong khi 503 dự án đã chấm dứt hoạt động hoặc bị rút giấy phép, tổng vốn là 5.775 triệu USD Chính sách kinh tế mở cửa, khuyến khích và tạo cơ sở pháp lý đã giúp thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam, ước tính năm 2003 đạt khoảng 19-21 tỷ USD, tăng 12,5%-13% so với năm 2002, trong đó vốn nước ngoài chiếm 15-16 tỷ USD Tuy nhiên, nguồn vốn FDI trong 6 tháng đầu năm 2004 theo số đăng ký chỉ đạt 346 triệu USD, cho thấy sự giảm sút.

43% so với cùng kỳ, số thực hiện đạt khoảng 600 triệu $, giảm 7% so với cùng kỳ.

Nguồn vốn ODA và tài trợ đa phương từ các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, ADB và WB đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế Trong giai đoạn 1991-1995, vốn ODA có thể đạt từ 2-2,5 tỷ USD Tại hội nghị tài trợ phát triển cho Việt Nam diễn ra ở Paris vào năm 1993-1994, cộng đồng tài chính quốc tế đã cam kết cung cấp cho Việt Nam nguồn tài trợ chính thức lên tới 3,8 tỷ USD Việt Nam cũng đã vay khoảng 230 triệu USD từ IMF.

WB và ADB số tiền 740 triệu $, ký hiệp định vay ODA song phương với Nhật trị giá 52.3 tỷ yên (tháng 1/1994), với Pháp trị giá 420 triệu Fr (7/1/1994).

Trong vòng 10 năm tới, mục tiêu là huy động từ 6-8 tỷ USD từ nguồn ODA và các tổ chức quốc tế Trong 6 tháng đầu năm 2000, nguồn vốn ODA được ký kết đạt 1.068,8 triệu USD, bao gồm 906 triệu USD vốn vay và 104,8 triệu USD viện trợ không hoàn lại Dự kiến, số vốn giải ngân đạt 785 triệu USD, tương đương 46,3% kế hoạch năm, với 655 triệu USD là vốn vay và 130 triệu USD là viện trợ không hoàn lại.

1.2.2.2 Nguồn viện trợ nước ngoài

Từ năm 1990 viện trợ của các tổ chức Liên hiệp quốc cho Việt Nam khoảng 50-60 triệu $/năm.

Việc phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường kinh tế nhằm huy động vốn đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài là một giải pháp cần thiết để thúc đẩy phát triển kinh tế Trong giai đoạn 1998-2002, dự kiến mỗi năm sẽ huy động từ 300-500 triệu USD, tổng số vốn huy động có thể đạt từ 2 đến 2,5 tỷ USD.

Trong thời gian qua, chúng ta đã áp dụng các chính sách và cơ chế huy động vốn hiệu quả, giúp khai thác nguồn vốn trong nước và nước ngoài Nhờ đó, một lượng vốn lớn đã được huy động để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước và đầu tư phát triển kinh tế, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ và kiềm chế lạm phát Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được, công tác huy động vốn vẫn còn nhiều hạn chế Để khắc phục những tồn tại này và nâng cao hiệu quả huy động vốn, cần có các chính sách và giải pháp hợp lý hơn.

Các kênh thu hút nguồn vốn

Để nâng cao hiệu quả huy động vốn cho đầu tư phát triển, phục vụ công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế, cần chú trọng một số giải pháp quan trọng.

1.2.3.1 Huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân

Tiềm năng vốn trong nước của chúng ta hiện nay còn rất lớn, và để biến tiềm năng này thành hiện thực, cần tìm ra giải pháp hiệu quả Việc huy động triệt để vốn trong nước sẽ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

 Huy động qua kênh NSNN

Để đáp ứng nhu cầu thu chi của Nhà nước trong việc tiêu dùng thường xuyên và đầu tư phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc huy động nguồn lực qua kênh ngân sách nhà nước (NSNN) là rất quan trọng Điều này cần phải dựa vào thuế, phí và lệ phí, đồng thời phát huy tiềm năng vốn từ các nguồn tài nguyên quốc gia và thông qua vay nợ Trong đó, thuế và phí vẫn là nguồn thu quan trọng nhất.

Để nâng cao hiệu quả huy động vốn qua thuế, phí và lệ phí, cần mở rộng diện thu thuế và quy định mức thuế suất hợp lý nhằm khuyến khích doanh nghiệp và cá nhân đầu tư Việc mở rộng diện thu thuế thu nhập cá nhân cần bao gồm cả khoản lợi tức từ vốn Đồng thời, chuyển đổi sang cơ chế nộp thuế tự khai và nộp trực tiếp vào Kho bạc Nhà nước sẽ giúp tối ưu hóa quy trình thu thuế.

Mở rộng phát hành trái phiếu Chính phủ nhằm tạo nguồn vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế là một chiến lược quan trọng Việc vay nợ dân để tạo nguồn vốn cho đầu tư là hiện tượng bình thường của mọi nhà nước Hình thức vay nợ này không chỉ giúp tăng cường nguồn lực tài chính mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững, mang lại hai lợi ích chính: tăng cường khả năng đầu tư cho các dự án quan trọng và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế tổng thể.

+Tăng tiết kiệm xã hội, tạo thói quen tiết kiệm, tiêu dùng hợp lý cho người dân.

+ Nhà nước có nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế mà không phải phát hành tiền, tránh được lạm phát.

 Muốn tăng hiệu quả vay nợ dân, cần chú trọng vào những vấn đề sau:

Để tăng cường khả năng huy động vốn, các hình thức như tín phiếu, trái phiếu và trái phiếu vô danh có thể chuyển đổi tự do được áp dụng Ngoài ra, trái phiếu công trình có thể chuyển đổi thành cổ phiếu, giúp đảm bảo việc thu lợi nhuận một cách dễ dàng và nhanh chóng.

Để tối ưu hóa nguồn vốn, cần đa dạng hóa các thời hạn vay vốn thông qua trái phiếu, tập trung chủ yếu vào huy động vốn từ các loại trái phiếu trung và dài hạn Đồng thời, hạn chế việc vay ngắn hạn với lãi suất cao nhằm bù đắp bội chi ngân sách.

Bộ Tài chính vừa phát hành trái phiếu, trong khi Ngân hàng Nhà nước tổ chức đấu thầu mua trái phiếu với các yếu tố như lãi suất, khối lượng mua và thời hạn Mục tiêu là xác định mức lãi suất vay hợp lý, đảm bảo lợi ích cho cả chủ sở hữu và người vay vốn.

Xúc tiến nhanh việc phát triển thị trường chứng khoán:

Phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán là yếu tố quyết định cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia trong nền kinh tế thị trường Việc hoàn thiện hai thị trường này tạo ra cơ chế thông thoáng giữa nhà đầu tư và người có nhu cầu vốn, giúp huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho đầu tư phát triển Đặc biệt, sự phát triển của thị trường chứng khoán sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch chứng khoán, cũng như việc chuyển đổi từ chứng khoán sang tiền mặt một cách nhanh chóng và tiện lợi.

 Huy động vốn qua các tổ chức Tài chính-Tín dụng

Trong những năm tới và lâu dài, các tổ chức tài chính - tín dụng tiếp tục đóng vai trò là trung gian vốn lớn nhất trong nền kinh tế Do đó, cần coi trọng và tăng cường hiệu quả huy động vốn qua các tổ chức này để đảm bảo sự phát triển bền vững.

Mở rộng hình thức tiết kiệm qua bưu điện giúp người dân dễ dàng gửi tiền tiết kiệm mọi lúc, mọi nơi, với số tiền lớn hay nhỏ.

Mở rộng các hình thức huy động vốn tiết kiệm như tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm cho tuổi già và tín dụng tiêu dùng là cần thiết để đáp ứng nhu cầu tài chính đa dạng của người dân Những hình thức này không chỉ giúp gia tăng nguồn vốn mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư và tiêu dùng, góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập các quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm và công ty tài chính là cần thiết để thu hút hiệu quả các nguồn vốn Điều này sẽ giúp phát triển mạnh mẽ hơn nữa hệ thống ngân hàng, các tổ chức tài chính và các quỹ tín dụng nhân dân.

- Cho phép phát hành kỳ phiếu thu ngoại tệ, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu để huy động vốn ngắn hạn và trung hạn.

Chính sách lãi suất hợp lý và các biện pháp bắt buộc sẽ khuyến khích các tổ chức tín dụng duy trì cơ cấu dư nợ hợp lý giữa dư nợ cho vay ngắn hạn và dư nợ cho vay dài hạn, trung hạn Điều này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp huy động vốn đầu tư chiều sâu, mở rộng quy mô kinh doanh.

 Thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư

Khai thác triệt để các nguồn vốn từ doanh nghiệp và tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội là yếu tố then chốt để tự bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất.

- Kích thích, khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế-chính trị-xã hội tự bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất:

Nhiệm vụ của Kho bạc nhà nước trong công tác phát hành và thanh toán trái phiếu chính phủ, công tác quản lý và sử dụng vốn

1.2.4.1 Nhiệm vụ phát hành và thanh toán

Hàng năm, cùng với việc lập kế hoạch phát hành và thanh toán (gốc, lãi) trái phiếu Chính phủ (TPCP), Bộ Tài chính tổng hợp kế hoạch ngân sách nhà nước (NSNN) để trình Chính phủ và Quốc hội phê duyệt.

Tổ chức in, bảo quản, chuyển giao trái phiếu cho các đơn vị được giao nhiệm vụ phát hành trái phiếu, bảo đảm an toàn tuyệt đối.

Tổ chức bán, thanh toán TPCP, bảo đảm nhanh chóng chính xác, thuận lợi cho người mua theo đúng chế độ quy định.

Phối hợp với các cơ quan chức năng như báo đài, các ban ngành, đoàn thể nhằm tuyên truyền sâu rộng nội dung mỗi đợt phát hành Điều này giúp người dân hiểu rõ và ủng hộ các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Tập trung đầy đủ, kịp thời toàn bộ số tiền thu về bán trái phiếu vào NSNN.

Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, báo cáo tổng hợp sau khi kết thúc đợt phát hành và thanh toán TPCP.

1.2.4.2 Công tác Quản lý và sử dụng vốn

Quản lý các khoản vay nợ của Chính phủ cần được thực hiện một cách chặt chẽ, bắt đầu từ việc xác định số tiền cần vay, bao gồm việc phát hành trái phiếu, cho đến việc thực hiện các nghĩa vụ vay và thanh toán cho số vốn đã vay.

Theo Nghị định 01/2000/NĐ-CP, các khoản vay từ trái phiếu Chính phủ được tập trung vào ngân sách trung ương, đảm bảo nguồn thanh toán khi đến hạn (Điều 16) Toàn bộ khoản vay từ trái phiếu kho bạc cũng được sử dụng cho các nhu cầu chi theo dự toán ngân sách nhà nước đã được Quốc hội phê duyệt (Điều 21) Ngoài ra, các khoản vay từ trái phiếu đầu tư huy động vốn cho các công trình được tập trung vào ngân sách nhà nước để cấp phát cho các dự án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án phát hành (Điều 26).

Khi Nhà nước vay vốn, cần phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi, do đó việc sử dụng vốn vay phải được tính toán kỹ lưỡng để đảm bảo hiệu quả kinh tế, tránh lãng phí và giảm bớt gánh nặng nợ nần cho Nhà nước Số tiền thu được từ phát hành trái phiếu Chính phủ không chỉ để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước mà còn cần được dành một phần lớn cho việc đầu tư vào các công trình trọng điểm kinh tế của Nhà nước.

Phát triển thị trường trái phiếu kho bạc để huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước

Chính sách huy động vốn của Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong chính sách tài chính quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tài chính - ngân sách, tình hình lạm phát và ổn định tiền tệ Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tại các nước Đông Nam Á đã tác động đến tốc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam Do đó, huy động vốn cho ngân sách nhà nước nhằm bù đắp bội chi, đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và tích cực chống lạm phát là cần thiết Một trong những giải pháp quan trọng là khai thác tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, đặc biệt là từ các tầng lớp dân cư Mặc dù việc khai thác nguồn vốn này còn gặp khó khăn, nhưng tiềm năng của nó là rất lớn và có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Nguồn thu từ bán tín phiếu và trái phiếu kho bạc đã đóng góp quan trọng vào việc bù đắp bội chi ngân sách nhà nước và bổ sung vốn cho các công trình trọng điểm Số lượng phát hành hàng năm tăng nhanh, từ 100% vào năm 1991 lên 154% vào năm 1994, 110% vào năm 1996, và đạt 209,8% vào năm 2000.

Năm 2002, quan hệ vay trả của Nhà nước đã nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tài chính trong việc quản lý ngân sách nhà nước (NSNN), góp phần làm mạnh mẽ nền tài chính quốc gia Chính sách khuyến khích phát triển thị trường vốn trong nước đã duy trì việc phát hành trái phiếu kho bạc qua hệ thống bán lẻ của Kho bạc Nhà nước (KBNN) và đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước, đồng thời mở rộng đối tượng mua Phương thức phát hành và thanh toán trái phiếu đã được cải tiến, KBNN đã phối hợp với các ngành và địa phương để huy động vốn đầu tư cho các công trình trọng điểm như đường dây tải điện 500 KV, thủy điện YALY, và xi măng Hoàng Thạch Mặc dù kết quả còn hạn chế, nhưng đây là hướng đi đúng trong chiến lược huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Các hình thức trái phiếu và phương thức thanh toán lãi đã được cải tiến, với việc KBNN phát hành trái phiếu không ghi tên người mua và in sẵn các mệnh giá Trái phiếu này có lãi suất trả định kỳ và được thanh toán rộng rãi trên toàn quốc, đồng thời có thể chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp và cầm cố trong các quan hệ tín dụng.

Bên cạnh những thành công trong việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu Chính phủ, KBNN vẫn gặp phải một số tồn tại và hạn chế trong công tác huy động vốn trong những năm qua.

Quy mô huy động vốn hiện nay còn nhỏ bé, trong khi nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư vẫn còn nhiều tiềm năng Số vốn đã huy động chưa đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng của ngân sách nhà nước, đồng thời không tương xứng với tiềm năng nguồn vốn có sẵn trong nền kinh tế.

Việc phát hành trái phiếu KBNN mới chỉ dừng lại ở thị trường sơ cấp, trong khi thị trường thứ cấp vẫn chưa được hình thành, điều này hạn chế khả năng trao đổi và mua bán các loại trái phiếu kho bạc Hệ quả là việc phát hành và lưu thông các chứng khoán gặp khó khăn Trái phiếu kho bạc trung hạn và dài hạn hiện chưa đáp ứng được nhu cầu vốn đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước đối với các công trình quan trọng của nền kinh tế.

Các hình thức huy động vốn của Kho bạc nhà nước dưới hình thức trái phiếu Chính phủ

Sự phát triển của hình thức trái phiếu Chính phủ ở VN

Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động trái phiếu C.Phủ

Khái quát tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn thành phố Hà Nội & hoạt động của KBNN Hà Nội

Thực trạng phát hành trái phiếu Chính phủ ở KBNN Hà Nội

Những kết quả đạt được và những hạn chế của công tác phát hành trái phiếu Chính phủ tại Hà Nội

Những định hướng chung về việc phát hành trái phiếu trong những năm tới

Những giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn tại KBNN Hà Nội

Những điều kiện để thực hiện các mục tiêu và giải pháp nêu trên

Ngày đăng: 01/03/2022, 17:03

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w