KHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA BÒ CÁI LAI BRAHMANĐƯỢC PHỐI GIỐNG DROUGHTMASTER, CHAROLAIS,RED ANGUS VÀ SỨC SẢN XUẤT THỊT CỦA ĐỜI CONNUÔI TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI Xem nội dung đầy đủ tại: https://123docz.net/document/10119127-lua-n-a-n-nguye-n-thi-my-linh-da-chuye-n-do-i.htmKHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA BÒ CÁI LAI BRAHMANĐƯỢC PHỐI GIỐNG DROUGHTMASTER, CHAROLAIS,RED ANGUS VÀ SỨC SẢN XUẤT THỊT CỦA ĐỜI CONNUÔI TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI Xem nội dung đầy đủ tại: https://123docz.net/document/10119127-lua-n-a-n-nguye-n-thi-my-linh-da-chuye-n-do-i.htmKHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA BÒ CÁI LAI BRAHMANĐƯỢC PHỐI GIỐNG DROUGHTMASTER, CHAROLAIS,RED ANGUS VÀ SỨC SẢN XUẤT THỊT CỦA ĐỜI CONNUÔI TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI Xem nội dung đầy đủ tại: https://123docz.net/document/10119127-lua-n-a-n-nguye-n-thi-my-linh-da-chuye-n-do-i.htmKHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA BÒ CÁI LAI BRAHMANĐƯỢC PHỐI GIỐNG DROUGHTMASTER, CHAROLAIS,RED ANGUS VÀ SỨC SẢN XUẤT THỊT CỦA ĐỜI CONNUÔI TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI Xem nội dung đầy đủ tại: https://123docz.net/document/10119127-lua-n-a-n-nguye-n-thi-my-linh-da-chuye-n-do-i.htmKHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA BÒ CÁI LAI BRAHMANĐƯỢC PHỐI GIỐNG DROUGHTMASTER, CHAROLAIS,RED ANGUS VÀ SỨC SẢN XUẤT THỊT CỦA ĐỜI CONNUÔI TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI Xem nội dung đầy đủ tại: https://123docz.net/document/10119127-lua-n-a-n-nguye-n-thi-my-linh-da-chuye-n-do-i.htmKHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA BÒ CÁI LAI BRAHMANĐƯỢC PHỐI GIỐNG DROUGHTMASTER, CHAROLAIS,RED ANGUS VÀ SỨC SẢN XUẤT THỊT CỦA ĐỜI CONNUÔI TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI Xem nội dung đầy đủ tại: https://123docz.net/document/10119127-lua-n-a-n-nguye-n-thi-my-linh-da-chuye-n-do-i.htm
TÍNH CẤP THIẾT CỦAĐỀTÀI
Chăn nuôi bò là một nghề truyền thống quan trọng ở Việt Nam, đóng góp lớn vào sản xuất nông nghiệp và cung cấp thịt đỏ cho nhu cầu thực phẩm Năm 2020, cả nước có 6.325.627 con bò, trong đó 5.912.891 con bò thịt, chiếm 93,5% tổng đàn, cung cấp 441.511 tấn thịt hơi, tương đương 6,1% tổng sản lượng thịt Tuy nhiên, sản lượng thịt bò trong nước chỉ đáp ứng 50% nhu cầu tiêu dùng, phần còn lại phải nhập khẩu Để giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu, chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2021 – 2030 đặt mục tiêu ổn định đàn bò thịt ở mức 6,5 – 6,6 triệu con, với khoảng 30% được nuôi trong trang trại.
Đến năm 2045, chăn nuôi ở Việt Nam sẽ trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật hiện đại, được công nghiệp hóa ở hầu hết các khâu Để phù hợp với thực tế và định hướng chiến lược này, việc tạo ra giống bò chất lượng cao là vô cùng cần thiết.
Công tác giống có vai trò quan trọng trong việc nâng cao tầm vóc đàn bò nội và tăng năng suất, chất lượng thịt bò sản xuất trong nước Lai tạo giống bò thịt giúp cải thiện nhanh chóng khả năng sản xuất, với việc sử dụng bò Zebu như Red Sindhi và Brahman phối giống với bò cái Vàng để tạo ra con lai Zebu Tiếp theo, những con lai này được phối với các giống bò chuyên thịt như Charolais, Red Angus, Droughtmaster và Hereford nhằm nâng cao khả năng sản xuất thịt Tuy nhiên, sinh trưởng và chất lượng thịt của con lai không chỉ phụ thuộc vào giống mà còn vào điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng Do đó, cải thiện điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng là giải pháp quan trọng song song với lai tạo để nâng cao sức sản xuất thịt bò trong nước Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện tại Việt Nam để đánh giá khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt của các giống bò lai.
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Tân (2010) đã đánh giá khả năng sinh trưởng, năng suất thịt và chất lượng thịt của các giống bò Lai Sind, Brahman × Lai Sind và Charolais × Lai Sind được nuôi tại Đăk Lăk.
Nghiên cứu năm 2016 đã chỉ ra rằng bò lai giữa Droughtmaster, Red Angus và bò cái Lai Brahman tại Bình Định có khả năng sinh trưởng và năng suất thịt vượt trội Tương tự, Phạm Văn Quyến (2009) cũng cho thấy bò Droughtmaster × Lai Sind và Charolais × Lai Sind nuôi tại miền Đông Nam Bộ đạt hiệu quả cao về khả năng sinh trưởng và chất lượng thịt Những kết quả này khẳng định rằng việc lai tạo giữa các giống bò khác nhau mang lại lợi ích rõ rệt so với bò địa phương.
Chăn nuôi bò là một phần quan trọng trong sinh kế của người dân Quảng Ngãi, với tổng số 177.333 con bò vào năm 2019, trong đó bò lai chiếm 72% Bò lai Brahman, một giống lai giữa Zebu và bò Vàng Việt Nam, được ưa chuộng nhờ khả năng thích nghi và sản xuất thịt tốt, đặc biệt ở các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ Chính sách chăn nuôi bò tại Quảng Ngãi, theo quyết định số 628/QĐ-SNNPTNT ngày 29/10/2015, nhấn mạnh mục tiêu phát triển chăn nuôi bò thành hàng hóa, nhằm cung cấp đủ thịt cho nhu cầu trong tỉnh và xuất khẩu sang các địa phương lân cận Định hướng phát triển chăn nuôi bò của tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2030 sẽ tập trung vào quy mô lớn và bền vững.
Tỉnh Quảng Ngãi có khoảng 300.000 - 320.000 con bò, trong đó tối thiểu 15% được nuôi trong trang trại và tỷ lệ bò lai đạt ít nhất 78% (Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Ngãi, 2021) Với nhu cầu tiêu thụ thịt bò ngày càng cao về số lượng và chất lượng, việc chăn nuôi bò lai giữa bò Vàng và bò Zebu không còn phù hợp Do đó, sử dụng đàn bò cái Lai Brahman làm nền để phối giống với các giống bò chuyên thịt như Charolais, Droughtmaster, Red Angus là hướng đi cần thiết nhằm nâng cao năng suất và chất lượng thịt, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho người chăn nuôi.
Bò Charolais, giống bò hướng thịt ôn đới có nguồn gốc từ vùng Charolles, Pháp, nổi bật với cơ thể cân đối và cơ bắp rõ nét, được biết đến với khả năng lớn nhanh và hiệu quả sản xuất thịt cao Con đực nặng từ 1.200 đến 1.300 kg, trong khi con cái nặng từ 700 đến 800 kg, với tỷ lệ thịt xẻ đạt trên 65% Giống bò này là nguyên liệu lý tưởng để lai tạo với các giống bò khác nhằm tạo ra con lai hướng thịt Bò Droughtmaster, được phát triển ở Bắc Queensland, Australia, là kết quả của việc lai giữa bò đực có u Brahman Mỹ và bò cái không có u của Anh, với con đực trưởng thành có thể đạt khối lượng lên tới 900 kg.
Bò Red Angus, có nguồn gốc từ cao nguyên phía Bắc Scotland, là giống bò thích nghi tốt ở vùng nhiệt đới với trọng lượng bò đực từ 800 - 950 kg và bò cái từ 550 - 650 kg, tỷ lệ thịt xẻ đạt trung bình 66% Chất lượng thịt của giống bò này nổi bật với vân mỡ xen kẽ, giúp thịt mềm và béo Mặc dù bò Red Angus đã được nhập vào Việt Nam để cải thiện sản xuất thịt, nhưng hiện tại chưa có nghiên cứu nào tại Quảng Ngãi và miền Trung đánh giá năng suất sinh sản của bò cái Lai Brahman khi phối giống với các giống bò đực chuyên thịt như Charolais, Droughtmaster và Red Angus, cũng như chưa có đánh giá về khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt của con nuôi trong nông hộ.
Để nâng cao năng suất sản xuất thịt bò tại tỉnh Quảng Ngãi, chúng tôi thực hiện nghiên cứu về khả năng sinh sản của bò cái Lai Brahman khi được phối giống với các giống Droughtmaster, Charolais và Red Angus, cùng với sức sản xuất thịt của thế hệ con nuôi.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦAĐỀTÀI
Mục tiêutổng quát
Cung cấp cơ sở dữ liệu về năng suất sinh sản của bò cái Lai Brahman khi phối giống với bò Charolais, Droughtmaster và Red Angus, cùng với khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt của đàn bò trong điều kiện chăn nuôi ở Quảng Ngãi Từ đó, đưa ra các khuyến cáo về lựa chọn con giống nhằm nâng cao năng suất, chất lượng thịt và hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi bò tại tỉnh Quảng Ngãi.
Mục tiêucụthể
- Đánh giá được hiện trạng chăn nuôi bò thịt tại tỉnh QuảngNgãi
-Đánh giá được năng suất sinh sản của đàn bò cái Lai Brahman khi được phối giống bò Charolais, Droughtmaster và Red Angus tại tỉnh Quảng Ngãi
Đánh giá khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt của các tổ hợp lai giữa bò cái Lai Brahman với đực Charolais, Droughtmaster và Red Angus tại tỉnh Quảng Ngãi là rất quan trọng Nghiên cứu này giúp xác định hiệu quả chăn nuôi và lựa chọn giống bò phù hợp, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm thịt Kết quả từ các tổ hợp lai sẽ cung cấp thông tin giá trị cho người chăn nuôi trong việc tối ưu hóa quy trình sản xuất và cải thiện thu nhập.
Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦAĐỀTÀI
Ý nghĩakhoahọc
Nghiên cứu này cung cấp tư liệu khoa học bổ sung về khả năng sinh sản của bò cái Lai Brahman, đồng thời đánh giá khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt của các tổ hợp lai giữa bò cái Lai Brahman với các giống bò đực Charolais, Droughtmaster và Red Angus.
Ý nghĩathực tiễn
Nghiên cứu này cung cấp cơ sở để khuyến cáo và lựa chọn các tổ hợp bò lai hiệu quả, bao gồm bò cái Lai Brahman phối giống với các giống bò đực Charolais, Droughtmaster và Red Angus, nhằm nâng cao chất lượng chăn nuôi tại tỉnh Quảng Ngãi.
- Kết quả nghiên cứu góp phần phát triển vùng sản xuất bò thịt chất lượng cao tại tỉnh QuảngNgãi
- Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo có giá trị góp phần phục vụ công tác nghiên cứu và giảng dạy trong lĩnh vực chănnuôi
TỔNG QUANTÀILIỆU
TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI BÒ THỊT ỞVIỆTNAM
1.1.1 Tổng đàn và sự phânbố
Từ năm 2015 đến 2019, số lượng đàn bò ở Việt Nam đã tăng từ 5,4 triệu con lên 6,1 triệu con, tương đương với mức tăng khoảng 13% Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là hai vùng có số lượng đàn bò lớn nhất, chiếm gần 40% tổng đàn bò cả nước Vùng miền núi và Trung du chiếm hơn 17%, tiếp theo là Đồng Bằng Sông Cửu Long với hơn 14%, trong khi Đông Nam Bộ có tỷ lệ thấp nhất, chỉ 6,9% tổng đàn bò.
Hình 1.1.Tổng đàn bò và sản lượng thịt bò của Việt Nam giai đoạn 2015 – 2019
Số lượng bò lai ở Việt Nam năm 2015 là khoảng 3,0 triệu con nhưng đến năm
Tính đến năm 2019, số lượng bò lai ở Việt Nam đã đạt khoảng 3,7 triệu con, tăng 23,6%, cho thấy sự phát triển nhanh chóng của ngành chăn nuôi bò lai Người chăn nuôi đang dần thay thế giống bò Vàng địa phương bằng bò lai nhờ vào nhiều chính sách hỗ trợ từ nhà nước, cùng với nhận thức về ưu điểm vượt trội của bò lai trong năng suất sinh trưởng và sản lượng thịt Thịt bò lai ngày càng được thị trường ưa chuộng, và hệ thống giết mổ cũng đã được điều chỉnh để phù hợp hơn với bò có khối lượng lớn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2019) Năm 2015, tỷ lệ bò lai cao nhất được ghi nhận ở vùng Bắc Trung Bộ và Duyên Hải miền Trung.
Trung Quốc hiện chiếm 37,2% tổng đàn bò lai cả nước, trong khi Đồng Bằng Sông Cửu Long chiếm 19,4% và vùng Miền núi, Trung du chỉ chiếm 5,9% Đến năm 2019, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có tỷ lệ bò lai cao nhất với 43,2%, trong khi Miền núi và Trung du chỉ đạt 7,4% Sự phát triển của đàn bò lai phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tập quán chăn nuôi, nhận thức của người chăn nuôi, điều kiện môi trường và các yếu tố xã hội khác Một số tỉnh có tỷ lệ bò lai đạt trên 70% như Nghệ An.
An, Bình Định, Quảng Ngãi, Bến Tre, … (Cục chăn nuôi, 2016;2020).
Tổng đàn bò tăng đã dẫn đến sự gia tăng sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng trong nước, từ 299.324 tấn năm 2015 lên 355.288 tấn năm 2019, tương ứng với mức tăng 18,7% Mặc dù tỷ lệ bò lai tăng nhanh, sản lượng thịt vẫn chưa tăng tương xứng, cho thấy mặc dù số lượng bò lai gia tăng, nhưng năng suất thịt vẫn chưa đạt hiệu quả cao.
Bảng 1.1.Phân bố đàn bò (con) theo vùng sinh thái giai đoạn 2015 – 2019
2015 2016 2017 2018 2019 ĐB Sông Hồng 496.670 394.981 416.563 499.912 496.562 Miền núi và TD 943.007 204.195 990.141 1.022.704 1.081.577 Bắc TB và DHMT 2.185.673 2.238.384 2.303.160 2.365.879 2.380.331
Tây Nguyên 685.582 717.744 754.679 771.078 831.450 Đông Nam bộ 367.135 377.361 389.460 394.907 420.462 ĐB Sông Cửu Long 689.011 711.915 726.791 748.427 849.642 ĐB: Đồng bằng, TD: Trung du, TB: Trung bộ, DHMT: Duyên hải miền Trung
Từ năm 2015 đến 2019, sản lượng thịt bò ở Việt Nam phân bố không đồng đều giữa các vùng sinh thái Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung chiếm hơn 42% tổng sản lượng thịt bò xuất chuồng cả nước, đứng đầu về sản lượng Mặc dù Đồng Bằng Sông Cửu Long có tổng đàn bò thấp hơn vùng Miền núi và Trung du (849.642 so với 1.081.577), nhưng vẫn đạt sản lượng thịt cao thứ hai cả nước, chiếm gần 17% Các vùng còn lại có sản lượng thịt bò tương đối đồng đều.
Bảng 1.2.Phân bố sản lượng thịt bò (tấn) theo vùng sinh thái giai đoạn 2015 – 2019
Tây Nguyên 36.366 38.618 40.444 39.800 46.166 Đông nam bộ 24.264 25.335 26.034 26.431 25.808 ĐB Sông Cửu Long 46.648 49.389 52.302 56.645 60.071 ĐB: Đồng bằng, TD: Trung du, TB: Trung bộ, DHMT: Duyên hải miền Trung
Theo báo cáo của Cục Chăn nuôi năm 2020, một số tỉnh có sản lượng thịt bò lớn bao gồm Bình Định với 30.244 tấn, Quảng Ngãi đạt 19.849 tấn, Gia Lai 22.295 tấn, Thanh Hóa 17.929 tấn và Nghệ An 17.014 tấn.
Chăn nuôi bò thịt ở Việt Nam chủ yếu có ba phương thức: thâm canh, bán thâm canh và quảng canh Phương thức thâm canh là nuôi nhốt, cung cấp thức ăn thô, thức ăn tinh và nước uống tại chuồng, thường sử dụng giống bò lai hoặc bò thuần chuyên thịt Phương thức bán thâm canh kết hợp giữa chăn thả và bổ sung thức ăn tại chuồng, bao gồm thức ăn thô và thức ăn tinh, cũng chủ yếu nuôi bò lai hoặc bò thuần chuyên thịt Cuối cùng, phương thức quảng canh chủ yếu là chăn thả, thời gian chăn thả dài, ít bổ sung thức ăn tại chuồng, nếu có thì thường chỉ là thức ăn thô với lượng thấp, giống bò chủ yếu là bò địa phương.
Chăn nuôi bò theo phương thức bán thâm canh quy mô nông hộ 2-3 con phổ biến ở đồng bằng, tận dụng phụ phẩm nông nghiệp và lao động nhàn rỗi Trong khi đó, chăn nuôi bò quảng canh chủ yếu tập trung ở vùng miền núi Chăn nuôi bò thâm canh chủ yếu diễn ra ở đồng bằng và trung du, với quy mô nông hộ từ 3-4 con, chiếm tỷ lệ gần 70%.
Chăn nuôi bò gia trại đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là ở các tỉnh Bình Phước, Bình Thuận, Ninh Thuận và khu vực Đông Nam Bộ cùng Tây Nguyên, với quy mô từ 100 con trở lên Các trang trại đã đầu tư vào chăn nuôi bò thịt theo hướng thâm canh, nuôi các giống bò hướng thịt và trồng cây thức ăn có năng suất cao, kết hợp với thức ăn tinh hỗn hợp Tuy nhiên, công nghệ chăn nuôi vẫn còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào nâng cấp chuồng trại mà chưa áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý đàn bò và kỹ thuật vỗ béo.
Ngành chăn nuôi bò thịt ở Việt Nam hiện đang có nhiều thuận lợi nhờ vào thị trường tiêu thụ tiềm năng và nhu cầu tăng cao do thu nhập và mức sống được cải thiện Tuy nhiên, sản lượng thịt bò trong nước chỉ chiếm 4-5% tổng sản lượng thịt xẻ, cho thấy sự thiếu hụt, đặc biệt là ở thịt bò chất lượng cao Việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương đã mở ra cơ hội lớn cho ngành chăn nuôi bò, giúp tiếp cận công nghệ hiện đại từ các nước tiên tiến Đồng thời, ngành cũng sẽ được hưởng lợi từ cải cách thể chế và thu hút đầu tư trong và ngoài nước Việt Nam còn có nguồn lao động dồi dào và nguồn thức ăn phong phú, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành chăn nuôi bò thịt.
Ngành chăn nuôi bò thịt ở Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức, trong đó việc thiếu giống bò chuyên thịt là một vấn đề lớn Hiện nay, người dân chủ yếu nuôi giống bò địa phương và con lai, nhưng những giống này có năng suất thấp và tiêu tốn nhiều thức ăn Hơn nữa, khối lượng trưởng thành của các giống bò hiện tại cũng chưa đạt yêu cầu.
250 – 300 kg, và tỷ lệ thịt xẻ thấp với 43 – 44%, chiếm 52% tổng đàn (Cục Chăn nuôi,
Tại Việt Nam, một số giống bò thịt phổ biến như Lai Sind, Lai Brahman và các tổ hợp bò lai như Droughtmaster × Lai Sind, Charolais × Lai Brahman, cùng với các giống bò chuyên thịt thuần chủng, vẫn được nuôi rất hạn chế Kinh nghiệm chăn nuôi bò thịt chuyên nghiệp còn thấp, với 90% hoạt động chăn nuôi diễn ra ở quy mô nhỏ, phân tán và đang dần chuyển từ hình thức quảng canh sang bán thâm canh và thâm canh Việc ứng dụng công nghệ và khoa học kỹ thuật trong chăn nuôi bò thịt còn hạn chế và thiếu đồng bộ Mối liên kết giữa người chăn nuôi với các cơ sở thu mua, giết mổ và chế biến thịt chưa bền chặt, dẫn đến tình trạng bất ổn về lợi nhuận Hệ thống quản lý và phát triển chuỗi ngành hàng thịt chưa được tổ chức hiệu quả, thường bị phân khúc, làm cho giá sản phẩm cao và không ổn định.
LAI GIỐNG VÀ ƯUTHẾLAI
1.2.1 Khái niệm về lai giống và ưu thếlai
Lai giống là phương pháp nhân giống thông qua việc phối giống giữa con đực và con cái thuộc hai quần thể khác nhau, có thể là hai dòng, hai giống hoặc hai loài khác nhau Kết quả của quá trình này là những con lai không còn thuộc dòng, giống thuần mà là sự kết hợp giữa hai dòng, giống ban đầu Lai giống mang lại hai lợi ích chính: tạo ra ưu thế lai và bổ sung tính trạng giữa các dòng, giống, từ đó nâng cao chất lượng và hiệu suất sinh sản.
Theo Nguyễn Xuân Trạch và cộng sự (2021), lai giống trong chăn nuôi bò thịt mang lại nhiều lợi ích, bao gồm khai thác sức sống và sản xuất vượt trội của con lai so với giống thuần, tận dụng ưu điểm của các giống khác nhau, thay thế đàn bò sinh sản và tạo ra giống mới từ nguồn gen khác nhau Ưu thế lai là hiện tượng con lai có khả năng sinh trưởng, sức chống chịu và năng suất vượt trội hơn so với bố mẹ, được tính bằng phần trăm năng suất tăng lên so với trung bình của bố mẹ (Shull, 1914) Nghiên cứu của Zachary và Zamir (2007), cùng với Getahun và cộng sự (2019), chỉ ra rằng nhiều yếu tố như nguồn gốc di truyền của bố mẹ, hệ số di truyền của tính trạng và chiều hướng của phép lai ảnh hưởng đến ưu thế lai.
1.2.2 Cácloại ưu thếlai Ưu thế lai cá thể: là thành phần ưu thế lai do kiểu gen của cá thể quyết định Ưu thế lai cá thể như khối lượng cai sữa, tăng khối lượng tuyệt đối, đặc điểm thân thịt (Bennet, 2017). Ưu thế lai của mẹ: là thành phần ưu thế lai do kiểu gen con mẹ quyết định Ưu thếlaiconmẹnhưtuổiđộngdụclầnđầusớm,khoảngcáchlứađẻngắn,tỷlệnuôisốngbêconđếnlúccai sữavàcácđặcđiểmsinhsảnkhác(MatthewvàSpangler,2017). Ưu thế lai của bố: là thành phần ưu thế lai do kiểu gen con bố quyết định(Buchanan và cs, 2011) Nó là sự cải thiện trong đặc điểm sản xuất và sinh sản của bò đực Ưu thế lai của bố là rút ngắn tuổi dậy thì, cải thiện nồng độ tinh trùng, tăng tỷ lệ có thai và tỷ lệ bê con cai sữa khi phối giống với bò cái.
1.2.3 Cơ sở di truyền của ưu thế lai Ưu thế lai là hiện tượng sinh học phức tạp mà loài người đã biết và sử dụng nó từ rất lâu, cơ sở di truyền của nó đã được thảo luận trong gần một thế kỷ Hiện nay, ưu thế lai được giải thích bằng thuyết trội, thuyết siêu trội và thuyết tương tác gen.
Thuyết trội giải thích rằng khi thực hiện lai giữa các giống hoặc dòng, con lai sẽ thể hiện sự lấn át của các alen trội từ giống bố/mẹ khác, làm giảm sự biểu hiện của các alen lặn không mong muốn Mức độ ưu thế lai tỷ lệ thuận với số lượng gen trội từ mỗi bên bố mẹ, dẫn đến sức sản xuất của con lai thường cao hơn mức trung bình của bố mẹ, thậm chí có thể vượt trội hơn so với giống bố/mẹ tốt nhất.
Thuyết siêu trội cho rằng kiểu gen dị hợp có sự vượt trội nhờ vào hoạt động tích lũy của các alen khác nhau Sự đa dạng alen tại một locus siêu trội giúp duy trì sự chọn lọc cân bằng, dẫn đến bền vững trong quần thể Do đó, động vật được lai tạo với số lượng locus dị hợp tử tối đa có sức sống và khả năng sản xuất vượt trội so với bố mẹ.
Thuyết tương tác gen đề xuất rằng, trong con lai, sự kết hợp mới của các gen từ các locus khác nhau sẽ tạo ra những tương tác đáng kể Các gen khi kết hợp trong con lai sẽ tạo ra hiệu ứng mạnh mẽ hơn so với khi chúng tồn tại riêng lẻ trong các bậc phụ huynh khác nhau (Getahun và cs, 2019; Vandana và cs, 2018).
1.2.4 Mộtsố phương pháp lai bò phổ biến
Lai kinh tế là quá trình lai giữa hai cá thể thuộc hai giống hoặc hai dòng khác nhau, mang lại nhiều lợi ích Phương pháp này dễ thực hiện và cho phép sử dụng tất cả con lai ở thế hệ F1 vào mục đích kinh tế, đặc biệt là nuôi lấy thịt để khai thác ưu thế lai Công thức phổ biến là lai giống nội (thường là con cái) với giống ngoại (thường là con đực), từ đó tạo ra thế hệ con F1 có ưu thế lai cao, phục vụ cho ngành chăn nuôi.
Lai kinh tế phức tạp là sự kết hợp giữa ba giống hoặc dòng trở lên, nhằm tạo ra con lai mang đặc tính ưu việt từ nhiều nguồn gen khác nhau Quá trình này tiếp tục lai thế hệ con cái từ các phép lai kinh tế đơn giản hơn với các giống khác, giúp khắc phục nhược điểm của lai kinh tế đơn giản Lai kinh tế phức tạp tận dụng triệt để ưu thế lai ở thế hệ F1, từ đó tối ưu hóa lợi ích từ các giống dòng khác nhau.
Lai giữa ba giống hoặc ba dòng không chỉ mang lại ưu thế lai cá thể mà còn tận dụng ưu thế lai từ mẹ hoặc bố lai Đối với lai bốn giống hoặc dòng, cả bố và mẹ đều là con lai, do đó con lai (AB) × (CD) sẽ có được ưu thế lai cá thể, ưu thế lai của mẹ và bố lai Hơn nữa, lai kinh tế phức tạp còn giúp tổng hợp nhiều đặc tính mong muốn từ các giống khác nhau.
1.2.4.3 Lai cảitạo Được áp dụng trong trường hợp một giống về cơ bản không đáp ứng được yêu cầu, có nhiều đặc điểm hạn chế cần được cải tạo Trong trường hợp này, người ta sử dụng một giống có nhiều đặc điểm tốt (giống cao sản) cho giao phối với giống cần được cải tạo để cải tạo các đặc điểm xấu của chúng Trong chăn nuôi bò, người ta thường dùng một giống bò có năng suất cao để cải tạo một giống địa phương có năng suất thấp, và chọn lọc qua nhiều thế thệ lai, các đặc điểm xấu của giống địa phương dần được khắc phục Khi con lai ở một thế hệ lai nhất định đạt được mục tiêu sản xuất, người ta cho các con vật trong cùng thế hệ này phối giống với nhau để cố định các đặc điểm tốt củagiống.
1.2.4.4 Lai cảitiến Được áp dụng trong trường hợp một giống về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu, chỉ còn một vài nhược điểm cần được cải tiến Trong trường hợp này, người ta lai giống cần được cải tiến này với một giống có ưu điểm nổi bật về các tính trạng cần được cải tiến (giống đi cải tiến) Giống đi cải tiến chỉ được dùng một lần để tạo ra con lai thế hệ thứ nhất (F1) Các thế hệ tiếp theo, các con bò cái lai được phối giống trở lại với các con đực của chính giống cần được cải tiến Trên cơ sở lai ngược trở lại và chọn lọc qua các thế hệ lai, nhược điểm của giống cần được cải tiến dần được khắc phục Khi các tính trạng cần được cải tiến đạt được mục tiêu mong muốn ở một thế hệ lai nhất định, người ta cho các con vật trong cùng thế hệ này phối giống với nhau, để cố định các tính trạng vừa mới được hoàn thiện của giống.
1.2.4.5 Lai tổ hợp (Lai gâythành)
Lai tổ hợp là phương pháp kết hợp hai hoặc nhiều giống cây trồng để tạo ra giống mới với các đặc điểm ưu việt từ giống gốc Nếu chỉ sử dụng hai giống, gọi là lai tổ hợp đơn giản; ba giống trở lên được gọi là lai tổ hợp phức tạp Trong quá trình lai, các giống được kết hợp lần lượt, với khả năng tham gia nhiều lần Các con lai sẽ được theo dõi và đánh giá, từ đó chọn lọc những cá thể đạt tiêu chuẩn để tiếp tục lai Khi có được tổ hợp mong muốn, quá trình lai sẽ dừng lại và tiến hành chọn lọc các cá thể tốt để tự giao phấn, nhằm cố định các tính trạng và hình thành giống mới Hầu hết các giống cao sản hiện nay đều xuất phát từ phương pháp lai tổ hợp này.
NĂNGSUẤTSINH SẢN CỦA BÒCÁIVÀ MỘTSỐYẾU TỐ ẢNHHƯỞNG12 1 Một số chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sảncủabò
1.3.1 Mộtsố chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản củabò
Theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 11908:2017 (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2017) các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản của bò cái bao gồm:
-Tuổi động dục lần đầu(tháng)
-Tuổi đẻ lứa đầu(tháng)
-Khoảng cách giữa hai lứa đẻ(ngày)
-Thời gian động dục lại sau đẻ(ngày)
-Thời gian phối giống thành công sau đẻ(ngày)
-Khối lượng bê sơ sinh(kg)
1.3.2 Mộtsố yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản củabò
Năng suất sinh sản là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả sinh học và kinh tế trong chăn nuôi bò Năng suất sinh sản của bò cái chịu tác động từ nhiều yếu tố, bao gồm di truyền, dinh dưỡng, lứa đẻ, mùa vụ và quy trình chăm sóc quản lý (Shiferaw và cs, 2003).
1.3.2.1 Ảnh hưởng của di truyền và lai tạo
Ngoại trừ những đặc điểm đặc trưng của loài như thời gian mang thai và chu kỳ động dục, hầu hết các tính trạng sinh sản ở bò có hệ số di truyền từ thấp đến trung bình (Michaela và cs, 2019; Raphael và cs, 2015) Bảng 1.3 trình bày một số nghiên cứu về hệ số di truyền đối với các tính trạng sinh sản ở bò cái.
Bảng 1.3.Hệ số di truyền của một số tính trạng sinh sản
Tính trạng Hệ số di truyền Nguồn
Tuổi động dục lần đầu 0,04 – 0,31 Bernardes và cs (2015); Boligon và cs (2011) Tuổi đẻ lứa đầu 0,14 – 0,36 Canaza-Cayo và cs (2017); Ulhôa và cs (2016)
Thời gian động dục lại sau đẻ 0,05 Carthy và cs (2015)
Thời gian phối giống thành công sau đẻ 0,11 Berry và cs (2014b)
Khoảng cách lứa đẻ dao động từ 0,03 đến 0,08 theo nghiên cứu của Canaza-Cayo và cộng sự (2017) cùng với Berry và cộng sự (2014a) Mặc dù có một số tương quan di truyền giữa các tính trạng sinh sản, như tuổi đẻ lứa đầu và khoảng cách lứa đẻ, nhưng hệ số di truyền thấp dẫn đến hiệu quả chọn lọc không cao Cụ thể, hệ số tương quan di truyền giữa tuổi đẻ lứa đầu và khoảng cách lứa đẻ là -0,074, trong khi thời gian mang thai và tuổi đẻ lứa đầu là 0,04, và thời gian mang thai với khoảng cách lứa đẻ là 0,13 (Michaelavàcs, 2019).
Giống bò là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của bò cái, với các giống khác nhau có năng suất sinh sản khác nhau Bò sữa thường có tuổi thành thục sớm hơn so với bò thịt, và giống bò ngoại thường đạt tuổi thành thục sớm hơn bò nội Nghiên cứu cho thấy tuổi động dục lần đầu của bò Brahman là 23,9 tháng, trong khi bò F1 (BBB × Lai Sind) là 14,2 tháng Bò Charolais có tuổi đẻ lứa đầu là 35,9 tháng, cao hơn bò Aberdeen Angus với 25,2 tháng; khoảng cách lứa đẻ của bò Aberdeen Angus là 12,3 tháng, trong khi bò Charolais là 13,1 tháng Khoảng cách lứa đẻ của bò Brahman là 14,9 tháng, bò Guzerat là 16,0 tháng và bò Nellore là 13,8 tháng.
Minhlầnlượtlà39,2và38,3tháng,tươngtựkhoảngcáchlứađẻlầnlượtlà15,0và13,7tháng.
Các tính trạng sinh sản có hệ số di truyền thấp, do đó, lai tạo ưu thế lai đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất sinh sản Lai tạo là một phương pháp cải thiện di truyền toàn cầu nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể ở đàn bò thịt, đặc biệt là trong việc nâng cao năng suất sinh sản (Heins, 2006) Bò lai thường có tốc độ sinh trưởng nhanh, giúp rút ngắn thời gian thành thục về tính và tuổi đẻ lứa đầu (Tomar, 2009) Việc lai tạo giữa bò nhiệt đới (Bos Indicus) và bò ôn đới (Bos) mang lại nhiều lợi ích cho ngành chăn nuôi.
Phương pháp Taurus hiện đang được áp dụng phổ biến và được coi là chiến lược chăn nuôi hiệu quả nhất nhằm nâng cao năng suất sinh sản của đàn bò tại vùng nhiệt đới (VanRaden và Sanders).
Nghiên cứu cho thấy lai tạo đã nâng cao năng suất của con lai so với các giống bố mẹ (Lundgren, 2011) Galukande và cộng sự (2013) tổng hợp từ 23 nghiên cứu cho thấy bò lai 50% Bos Taurus giảm khoảng cách lứa đẻ xuống 0,8 lần và tuổi đẻ lứa đầu xuống 0,9 lần so với bò 100% Bos Indicus, đồng thời số bê con sinh ra trong đời bò mẹ tăng 1,2 lần Manz và cộng sự (2019) cho biết khoảng cách lứa đẻ của bò Ankole thuần là 498 ngày, nhưng giảm còn 454 ngày khi lai với giống Jersey và Sahiwal Mulugeta và Brlayeneh (2013) báo cáo tuổi đẻ lứa đầu trung bình của bò bản địa ở Ethiopia là 46,2 tháng, trong khi bò lai giữa bò cái bản địa và bò đực hướng thịt là 38,0 tháng Nghiên cứu của Duarte và cộng sự (2010) ở Mexico cho thấy bò lai Charolais × Santa Guzerat và Charolais × Gyr có tuổi đẻ lứa đầu sớm hơn 67 ngày so với bò Santa Guzerat, Gyr và sớm hơn 92 ngày so với bò Brahman, đồng thời có khoảng cách lứa đẻ ngắn nhất.
Tất cả các kết quả nghiên cứu ở trên đã chỉ ra rằng lai giống là một công cụ hữu ích để cải thiện năng suất sinh sản ở bò thịt.
Năng suất sinh sản của bò cái không chỉ thể hiện qua các tính trạng của bản thân mà còn qua đời con, với giống đực ảnh hưởng đến thành phần ưu thế lai Điều này có nghĩa là khả năng sống sót và sinh trưởng của con cái, như khối lượng sơ sinh, chịu tác động lớn từ yếu tố di truyền Theo nghiên cứu của Phạm Văn Quyến và cộng sự (2019), khối lượng sơ sinh của bò Lai Sind là 13,74 kg, trong khi bò lai Angus × Lai Sind đạt 20,7 kg và bò lai Brahman × Lai Sind là 16,8 kg Dương Nguyên Khang và cộng sự (2019a, 2019b) cũng cho biết khối lượng sơ sinh của bò lai BBB × Lai Sind là 29,4 kg, Red Angus × Lai Sind là 23,3 kg, Brahman × Lai Sind là 19,2 kg, và Charolais × Lai Sind là 30,1 kg.
Lứa đẻ là một yếu tố quan trọng liên quan đến hoạt động sinh lý của cơ thể, đặc biệt là sự phát triển của bộ máy sinh dục Nghiên cứu của Segura-Correa và cộng sự (2017b), cùng với Asimwe và Kifaro, đã chỉ ra mối liên hệ này.
Nghiên cứu của các tác giả cho thấy tỷ lệ phối giống thành công ở bò cái có sự khác biệt giữa các lứa đẻ Cụ thể, tỷ lệ này thấp ở lứa đẻ đầu tiên (60,0%) và giảm xuống còn 43,1% ở lứa thứ 9 Bò cái qua nhiều lần sinh sản sẽ có hệ sinh dục suy yếu Về khối lượng bê con, nghiên cứu cho thấy bê con sinh ra ở lứa đầu tiên có khối lượng thấp, tăng và ổn định từ lứa thứ 2 đến lứa thứ 6, sau đó giảm dần từ lứa thứ 7 Thời gian từ khi sinh đến khi phục hồi hoạt động của buồng trứng và tử cung cũng khác nhau, trung bình là 65,1 ngày cho bò đẻ từ lứa thứ 3 đến thứ 5, trong khi bò đẻ lứa đầu tiên đến thứ 2 là 71,2 ngày Thời gian động dục lại sau khi sinh cũng ngắn hơn ở bò đẻ từ lứa thứ 4 trở lên, chỉ khoảng 170,8 ngày so với 184,7 ngày ở lứa đầu Khoảng cách giữa các lứa đẻ cũng được ghi nhận, với thời gian từ lứa thứ 1 đến thứ 2 là 457,3 ngày.
Thời gian giữa các lứa đẻ ở bò cái dao động từ 439,8 đến 444,7 ngày, trong khi từ lứa thứ 5 trở đi, khoảng thời gian này giảm xuống còn 428,2 ngày Theo nghiên cứu của Segura-Correa (2017a) và Osorio-Arce cùng Segura-Correa (2010), bò cái đẻ lứa đầu tiên có khoảng cách lứa đẻ dài hơn so với bò cái trưởng thành.
Năng suất sinh sản của bò cái thường thấp ở lứa đẻ thứ nhất và từ lứa đẻ thứ tám trở đi do một số nguyên nhân chính: (1) Bò mẹ ở lứa đẻ đầu tiên còn non, có khối lượng cơ thể thấp và cơ quan sinh dục chưa hoàn thiện, trong khi bò mẹ từ lứa thứ tám trở đi đã già, chức năng của các cơ quan sinh dục suy giảm (Plasse, 1997) (2) Những con bò cái đẻ lứa đầu tiên thường bị căng thẳng do việc tiết sữa nuôi con (3) Sau khi đẻ lứa đầu tiên, bò mẹ tiếp tục phát triển, do đó, dinh dưỡng được cung cấp từ khẩu phần ăn cần được phân chia để đáp ứng các yêu cầu duy trì, tăng trưởng, tiết sữa và sinh sản Vì vậy, lứa đẻ là một trong những nguồn biến thiên quan trọng ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của bò cái (Asimwe và Kifaro, 2007; Segura-Correa, 2017a).
Chếđộdinh dưỡngtrongtất cả cácgiaiđoạnsinhtrưởng vàsinhsảncủabò cáiđềuảnhhưởngđếnnăngsuấtsinhsảncủabòcái.Cácyếutốdinhdưỡngchínhảnhhưởng đếnnăngsuấtsinhsảncủabòcáinhưnănglượng,protein,vitaminvàkhoángchất. Ảnh hưởng của nănglượng
Cung cấp không đủ năng lượng, protein, vitamin và khoáng chất vi lượng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất sinh sản của bò cái Năng lượng là yếu tố dinh dưỡng quan trọng nhất liên quan đến chức năng sinh sản kém ở bò cái (Puls, 1994) Khi bò cái không nhận đủ năng lượng từ khẩu phần, chúng sẽ huy động mỡ dự trữ, dẫn đến trạng thái cân bằng năng lượng âm (Gaillard và cs, 2016) Theo Kreplin và Yaremcio (2013), bò cái thiếu năng lượng sẽ phát dục muộn và thời gian động dục sau sinh kéo dài.
Khi bò cái rơi vào trạng thái cân bằng năng lượng âm, hàm lượng glucose huyết tương và insulin giảm, dẫn đến sự suy giảm hoạt động của buồng trứng và có thể gây ra các vấn đề về sinh sản như vô sinh sau sinh Cân bằng năng lượng âm trong 3 tuần đầu sau đẻ có mối tương quan cao với thời gian động dục lại sau đẻ, bởi vì hormone sinh sản phụ thuộc vào tình trạng năng lượng trong cơ thể Năng lượng thấp trong giai đoạn đầu sau đẻ sẽ làm giảm nội tiết tố sinh sản, trì hoãn sự rụng trứng và làm chậm thời gian động dục lại, từ đó giảm tỷ lệ thụ thai do nang trứng phát triển kém Bò cái thiếu năng lượng thường có mức progesterone thấp và có nguy cơ mắc bệnh hoàng thể cao hơn Ngoài ra, hiện tượng sót nhau và keton sau khi đẻ cũng xảy ra với tỷ lệ cao ở những con bò này Mặc dù năng suất sinh sản cao thường yêu cầu khoảng cách lứa đẻ ngắn, nhưng tình trạng cân bằng năng lượng âm lại ảnh hưởng nghiêm trọng đến thời gian động dục lại sau đẻ, dẫn đến sự gia tăng tình trạng vô sinh.
Khi bò cái được nuôi dưỡng trong điều kiện tốt và đáp ứng đủ yêu cầu năng lượng trong giai đoạn mang thai và tiết sữa, sự hồi phục tử cung sau đẻ sẽ nhanh chóng, động dục trở lại sớm và khả năng phối giống thành công cao hơn so với những con bò nuôi dưỡng kém Tuy nhiên, chế độ dinh dưỡng quá cao có thể dẫn đến tình trạng béo phì, với mỡ tích tụ quanh buồng trứng và các tuyến nội tiết, gây cản trở hoạt động sinh dục (Nguyễn Xuân Trạch, 2004) Những con bò được cho ăn mức năng lượng quá cao khi đẻ có tỷ lệ sót nhau thai và nhiễm trùng tử cung cao hơn, làm giảm hiệu quả sinh sản ở kỳ sinh sản tiếp theo (Fahar và cs, 2018) Theo Kear (1982), bò cái mang thai 3 tháng cuối với khối lượng cơ thể từ 300 đến 400 kg cần được cung cấp từ 14,2 đến 17,8 Mcal năng lượng mỗi ngày.
ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG, NĂNG SUẤT, CHẤT LƯỢNG THỊT BÒ VÀMỘT SỐ YẾU TỐẢNHHƯỞNG
1.4.1 Mộtsố chỉ tiêu đánh giá sinh trưởng và năng suấtthịt
Các chỉ tiêu quan trọng đánh giá khả năng sinh trưởng của bò được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước thường đề cập đến là:
-Khối lượng tích lũy(kg)
-Cao vây (cm), vòng ngực (cm) và dài thân chéo(cm)
-Sinh trưởng tuyệt đối(gam/con/ngày)
Năng suất thịt là yếu tố được người chăn nuôi rất quan tâm, các chỉ tiêu để đánh giá sức sản xuất thịt của bò bao gồm:
-Khối lượng (kg) vàtỷlệ thịt xẻ(%)
-Khối lượng (kg) vàtỷlệ thịt tinh(%)
-Khối lượng (kg) vàtỷlệ thịt loại 1(%)
-Khối lượng (kg) vàtỷlệ thịt loại 2(%)
-Khối lượng (kg) vàtỷlệ thịt loại 3(%)
-Khối lượng (kg) vàtỷlệ xương(%)
-Khối lượng (kg) vàtỷlệ mỡ(%)
-Diện tích cơ thăn(cm 2 )
Khối lượng gia súc theo tháng tuổi phản ánh độ sinh trưởng tích lũy, với đường cong sinh trưởng tích lũy có hình dạng chữ S, thể hiện sự tăng trưởng chậm ở giai đoạn nhỏ, nhanh hơn khi gia súc phát triển và sau đó dần ổn định khi đạt độ trưởng thành Tăng trưởng trung bình hàng tháng hay hàng ngày được gọi là độ sinh trưởng tuyệt đối, với đường cong sinh trưởng tuyệt đối có hình chuông, tăng lên đến giá trị cực đại rồi giảm dần Cường độ sinh trưởng tương đối có dạng đường tiệm cận Hyperbol, cho thấy rằng bò lớn tuổi sẽ có quá trình sinh trưởng chậm lại Để ước tính sinh trưởng của bò, thường sử dụng mô hình toán học và đồ thị mối tương quan giữa khối lượng cơ thể và độ tuổi (Bathaei và Leory, 1996).
Việc ước tính sinh trưởng của bò theo độ tuổi là rất quan trọng, cung cấp thông tin đáng tin cậy cho nhà khoa học và nhà chăn nuôi về đặc điểm sinh trưởng của động vật Thông qua đó, họ có thể xây dựng các chương trình dinh dưỡng và quản lý giống hợp lý cho từng giai đoạn, từ đó nâng cao hiệu quả chăn nuôi Các mô hình hồi quy phi tuyến tính giữa khối lượng và độ tuổi thường được áp dụng để mô phỏng sinh trưởng của bò, như đã được nghiên cứu bởi Garnero và các cộng sự (2006), Forni và các cộng sự (2009), Souza và các cộng sự (2010) trên nhiều giống bò khác nhau như Hereford, Angus, BBB và Nelore Nhiều hàm hồi quy như Brody, Bertalanfy, Logistic, Gompertz và Richards đã được sử dụng để dự đoán tốc độ sinh trưởng của bò thịt.
Bảng 1.4 Một số mô hình ảnh hưởng cố định hàm hồi quy phi tuyến tính
Tên mô hình Công thức Nguồn
Gompertz Y =me (−ae−bT) +ε i,t i,t Gompertz (1825)
Y i,t là khối lượng ước tính của bò thứ i tại ngày tuổi thứ t (kg), trong đó m là khối lượng lúctrưởng thành ước tính (kg), a là hằng số tích hợp liên quan đến khối lượng sơ sinh, b là hằng số liên quan đến tốc độ sinh trưởng, e = 2,7182818 và ε i,t là sai số ngẫu nhiên Tại Việt Nam, nhiều nghiên cứu đã áp dụng các hàm hồi quy phi tuyến tính để mô hình hóa quá trình sinh trưởng của một số giống bò, như được trình bày trong bảng 1.5.
Bảng 1.5.Kết quả một số nghiên cứu sử dụng hàm hồi quy
Giống Hàm sinh trưởng Nguồn
BBB × LS 𝑌𝑖,𝑡0,51(1−0,66𝑒 −0,05𝑇 ) 3 ,R 2 ,34% Trần Thị Vinh và cs (2020) BBB × LS 𝑌𝑖,𝑡1,48(1−0,63𝑒 −0,07𝑇 ) 3 ,R 2 ,20%
HF: Holstein Friesian, LS: Lai Sind, Br: Brahman, BBB: Blanc - Blue –Belgium,Ch:Charolais
1.4.2 Mộtsố yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng và năng suấtthịt
Sự sinh trưởng và năng suất thịt của động vật chịu ảnh hưởng từ cả yếu tố di truyền và không di truyền Trong đó, các yếu tố không di truyền bao gồm hệ thống sản xuất, tuổi tác, giới tính, dinh dưỡng và môi trường (Bourdon, 1997).
1.4.2.1 Ảnh hưởng của di truyền và laitạo
Các tính trạng sinh trưởng và năng suất thịt của bò có hệ số di truyền từ trung bình đến cao, cho thấy sự ảnh hưởng lớn từ yếu tố di truyền Nghiên cứu về hệ số di truyền của các tính trạng này được trình bày trong bảng 1.6.
Bảng 1.6.Hệ số di truyền của các tính trạng sinh trưởng và năng suất thịt của bò
Tính trạng Hệ số di truyền Nguồn
Khối lượng sơ sinh 0,38 – 0,41 Rahman và cs (2015),
Lopes và cs (2016) Chen và cs (2012) Khối lượng cai sữa 0,46 – 0,5
Tỷ lệ mỡ dắt 0,46 Độ dày mỡ lưng 0,17 – 0,53 Nephawe và cs (2004)
Davis và cs (2003) Diện tích cơ thăn 0,2 – 0,57
Giống bò đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và năng suất thịt, với nhiều nghiên cứu chứng minh sự khác biệt giữa các giống/dòng Theo Shejuly và cộng sự (2020), các dòng bò Brahman như 14BR0043, 7BR-524, 14BR0040, 7BR-527, 14BR0041 và 7BR-522 có khối lượng 24 tháng lần lượt là 852,6; 824,3; 903,3; 900,0; 845,2 và 859,6 kg, cùng với tăng khối lượng trung bình từ sơ sinh đến 24 tháng là 1127; 1085; 1193; 1190; 1114 và 1133 gam/ngày Nghiên cứu của Khan và cộng sự (2019) cho thấy giống Simmental có khối lượng cai sữa cao nhất với 159,2 kg, tiếp theo là Angus 147,8 kg và Charolais 135,8 kg Ngoài ra, Pesonen và Maiju (2020) chỉ ra rằng tỷ lệ thịt xẻ và thịt tinh của bò Charolais cao hơn so với bò Heroford, trong khi Bartoň và cộng sự (2006) báo cáo tỷ lệ thịt tinh của bò Aberdeen Angus.
Charolais, Simmental và Hereford có tỷ lệ phần trăm lần lượt là 81,6%; 80,6%; 81,6% và 80,0% Độ dày mỡ lưng được đo tại vị trí giữa xương sườn thứ 8 và 9 là 10,4 mm cho Charolais, 6,5 mm cho Simmental, 7,2 mm cho Hereford và 11,2 mm cho một loại khác Diện tích cơ thăn tại cùng vị trí xương sườn với độ dày mỡ lưng tương ứng là 15,34 cm² cho Charolais, 16,97 cm² cho Simmental, 15,86 cm² cho Hereford và 15,24 cm² cho loại còn lại.
Cải thiện chất lượng con giống thông qua phương pháp lai tạo là giải pháp hiệu quả để nâng cao khả năng sinh trưởng và năng suất thịt (Bourdon, 1997) Nghiên cứu của Mendonca và cộng sự (2019) cho thấy bò lai có khối lượng trưởng thành cao hơn và tiêu tốn năng lượng ăn vào nhiều hơn so với bò thuần chủng Frisch (2009) đã chỉ ra rằng bò lai Charolais × Brahman có tốc độ sinh trưởng tốt hơn bò Brahman thuần, mặc dù khả năng chống chịu môi trường của chúng không bằng Văn Tiến Dũng (2012) ghi nhận rằng các giống bò lai như Lai Sind và Droughtmaster × Lai Sind có kết quả sinh trưởng và năng suất thịt cao hơn so với bò Lai Sind Elzovà và cộng sự (2012) cũng cho thấy bò lai Angus × Brahman có khối lượng và tỷ lệ thịt xẻ cao hơn so với bò Brahman thuần Nghiên cứu của Waheed và cộng sự (2013) tại Pakistan cho thấy lai tạo giữa bò Bhagnari và Droughtmaster đã cải thiện đáng kể khối lượng sơ sinh và tăng trưởng hàng ngày Những kết quả này khẳng định rằng lai tạo là một trong những phương pháp hiệu quả nhất để nâng cao khả năng sinh trưởng và năng suất thịt.
1.4.2.2 Ảnh hưởng của dinhdưỡng Ảnh hưởng của năng lượng
Mức năng lượng trong khẩu phần ăn có ảnh hưởng quyết định đến việc thu nhận thức ăn, cung cấp protein và các chất dinh dưỡng, đóng vai trò quan trọng trong sự sinh trưởng của bò (Jobgen và cs, 2006) Theo Zhang và cs (2015), việc tăng mức năng lượng trong khẩu phần có thể cải thiện hệ số chuyển hóa thức ăn, nồng độ hormone tăng trưởng và yếu tố tăng trưởng insulin 1 ở bò Tuy nhiên, chế độ ăn quá nhiều năng lượng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình lên men trong dạ cỏ, làm giảm khả năng tiêu hóa chất xơ, dẫn đến tích tụ thức ăn thô xanh và giảm lượng thức ăn tiêu thụ, từ đó ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và năng suất thịt của bò (Roberts và cs, 2005).
Nghiên cứu của Kang và cộng sự (2020) đã thử nghiệm với ba mức năng lượng khác nhau là 3,72 MJ/kg DM (thấp), 4,52 MJ/kg DM (trung bình) và 5,32 MJ/kg DM (cao) trên bò Yak Tây Tạng trong vòng 4 tháng Kết quả cho thấy mức năng lượng trong khẩu phần có ảnh hưởng rõ rệt đến năng suất sinh trưởng của bò Tây Tạng Cụ thể, khi tăng năng lượng trong khẩu phần, khối lượng cuối giai đoạn nuôi thử nghiệm và tăng khối lượng tuyệt đối đều tăng đáng kể, trong khi tỷ lệ thu nhận thức ăn lại giảm rõ rệt.
So với nhóm năng lượng thấp, khối lượng bò ở giai đoạn cuối thử nghiệm của nhóm năng lượng trung bình và cao tăng lần lượt 10,90% và 45,16% Diện tích cơ thăn tại vị trí giữa xương sườn 12 và 13 của nhóm năng lượng thấp, trung bình và cao lần lượt là 30,03; 32,83 và 35,69 cm² Tỷ lệ thịt xẻ của nhóm năng lượng trung bình và cao cũng tăng 3,50% và 9,83% so với nhóm năng lượng thấp Nghiên cứu của Wang và cộng sự (2019) trên bò Holstein cho thấy khối lượng và tỷ lệ thịt xẻ tăng tỷ lệ thuận với mức năng lượng ăn vào, trong khi hệ số chuyển hóa thức ăn lại tỷ lệ nghịch Các nghiên cứu của Zhang và cộng sự (2014), Dong và cộng sự (2006), Long và cộng sự (2004) cũng khẳng định rằng cải thiện nồng độ năng lượng trong khẩu phần ăn làm tăng khối lượng thân thịt, tỷ lệ thịt xẻ và độ dày mỡ lưng.
Năng lượng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất sinh trưởng và sản xuất thịt của bò Bên cạnh đó, protein cũng có ảnh hưởng đáng kể đến quá trình này.
Khẩu phần ăn của bò có hàm lượng protein khác nhau ảnh hưởng đến sinh trưởng và năng suất thịt Thiếu protein sẽ làm giảm quá trình trao đổi chất, kìm hãm sự phát triển, khiến bò chậm lớn và giảm khả năng chống bệnh Ngoài ra, thiếu protein còn dẫn đến mất cân bằng nitơ, giảm cảm giác thèm ăn, giảm khả năng chuyển hóa thức ăn, hạ thấp nồng độ protein huyết thanh, giảm khả năng tổng hợp hormone và gây tích mỡ trong gan.
Khi khẩu phần có mức protein thấp, nhu cầu protein cho sự hình thành tế bào mô cơ không được đáp ứng, dẫn đến giảm khối lượng tăng trưởng và năng lượng dư thừa sẽ được chuyển hóa thành mỡ Ngược lại, thừa protein cũng gây cản trở sự tăng trưởng của động vật Theo khuyến cáo của Kear (1982), bò thịt có khối lượng trưởng thành 450 kg và tăng khối lượng hằng ngày từ 1,0 đến 1,5 kg cần được cung cấp từ 975 đến 1.018 gam protein mỗi ngày.
Theo nghiên cứu của Cortese và cộng sự (2019), bò đực Charolais được cho ăn với hai mức protein là 15,5% và 13,5% cho thấy rằng mức protein 13,5% có lượng DM ăn vào là 10,1 kg/ngày, trong khi mức 15,5% là 10,7 kg/ngày Đồng thời, tăng khối lượng của bò lần lượt đạt 1,36 kg và 1,47 kg/ngày.
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG LAI GIỐNG ĐỂ NÂNG CAOSỨC SẢN XUẤT CỦA BÒ TRÊN THẾ GIỚI VÀVIỆT NAM
1.5.1 Tình hình nghiên cứu trên thếgiới
1.5.1.1 Nghiên cứu và ứng dụng lai giống để nâng cao năng suất sinh sản củabò
Hầu hết các tính trạng sinh sản ở bò có hệ số di truyền thấp, do đó, lai tạo trở thành giải pháp hiệu quả để cải thiện năng suất sinh sản Mức độ ưu thế lai ở đời con phụ thuộc vào sự khác biệt di truyền giữa các giống/dòng và cách phối hợp giữa chúng (công thức lai) Nghiên cứu và ứng dụng lai tạo nhằm nâng cao năng suất sinh sản của bò đã được thực hiện từ lâu trên nhiều giống ở các quốc gia trên thế giới.
Nghiên cứu của Suyadi và cs (2014) cho thấy bò cái Peranakan Ongole (PO) có tuổi phối giống lần đầu muộn hơn so với bò Limousin × PO, nhưng không có sự khác biệt đáng kể về thời gian động dục và khoảng cách lứa đẻ giữa hai giống Adhikary và cs (2021) đã chỉ ra rằng bò cái lai Brahman × bò bản địa có tuổi phối giống lần đầu và tuổi đẻ lứa đầu sớm nhất, trong khi bò cái bản địa có tuổi đẻ muộn nhất Mặc dù bò cái lai Brahman × bò bản địa sử dụng số liều tinh cao nhất cho một lần đậu thai, nhưng năng suất sinh sản của bò cái lai vẫn tốt hơn so với bò cái thuần chủng, đặc biệt là ở bò cái lai Brahman × bò bản địa Những kết quả này khẳng định rằng quá trình lai tạo đã cải thiện đáng kể năng suất sinh sản của bò cái ở thế hệ con lai.
Nghiên cứu của Khotimah và cộng sự (2018) cho thấy bò cái Lai Brahman ở Indonesia có năng suất sinh sản cao, với trung bình 1,48 liều tinh cho mỗi lần mang thai và tỷ lệ mang thai đạt 88,0% Tỷ lệ sinh bê là 80,7% và khoảng cách lứa đẻ là 14,2 tháng Alvarado và cộng sự (2015) chỉ ra rằng ở Mexico, tỷ lệ máu bò Bos Taurus cao giúp bò cái đẻ lứa đầu sớm hơn và có khối lượng cai sữa cao hơn Madalena và Hinojosa (1976) cho biết bò cái Zebu có thời gian động dục lại sau khi đẻ dài hơn 57,8 ngày, trong khi bò cái lai Charolais × Zebu có tỷ lệ xuất hiện động dục theo chu kỳ là 72,9%, cao hơn so với 63,1% của bò Zebu Thời gian mang thai của bò cái Zebu và bò cái lai Charolais × Zebu lần lượt là 288,8 và 283,1 ngày Những kết quả này cho thấy việc lai tạo giữa bò ôn đới và bò nhiệt đới đã nâng cao năng suất sinh sản của đàn bò nhiệt đới.
Peacock và Koger (1980) đã nghiên cứu tác động của giống và ưu thế lai đến năng suất sinh sản của bò cái thuộc các giống Angus, Brahman, Charolais, cũng như các giống lai giữa chúng như Angus × Brahman, Angus × Charolais và Brahman × Charolais khi được phối giống với Angus, Brahman và Charolais.
Bò cái khi phối giống với các giống Brahman, Charolais và Angus có tỷ lệ đẻ lần lượt là 90%, 83% và 80%, trong khi tỷ lệ bê sống sau 24 giờ lần lượt là 93%, 91% và 94% Tỷ lệ đẻ cao nhất thuộc về bò cái Angus × Brahman với 92%, trong khi bò cái Angus và Angus × Charolais có tỷ lệ thấp nhất là 82% Bò mẹ Angus có tỷ lệ bê sống sau sinh là 86%, thấp hơn so với các giống khác dao động từ 92% đến 96% Nghiên cứu của Newman và Deland (1991) cho thấy bò cái phối giống với Charolais và Simmental có khối lượng sơ sinh cao hơn nhưng tỷ lệ đẻ thấp hơn so với bò cái phối giống Sahiwal và Brahman Các giống bò Heroford × Holstein và Hereford × Jersey có tuổi động dục lần đầu sớm hơn và tỷ lệ đẻ cao hơn so với bò cái Heroford × Shorthorn Williams và cộng sự (1990) đã chỉ ra rằng các tổ hợp lai giữa các giống bò như Angus, Brahman, Charolais và Hereford có xu hướng vượt trội hơn về khối lượng bê sơ sinh, tỷ lệ sinh bê và tỷ lệ bê sống sau 24 giờ so với nhân giống thuần chủng Điều này cho thấy lai giữa các giống bò mang lại ưu thế về năng suất sinh sản cho thế hệ sau nhờ vào ưu thế lai của cả bố và mẹ.
1.5.1.2 Nghiên cứu và ứng dụng lai giống nâng cao sinh trưởng, năng suất, chấtlượng thịtbò
Nâng cao chất lượng con giống là yếu tố quan trọng hàng đầu để cải thiện khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt bò Lai tạo giữa giống bò chuyên thịt và bò cái địa phương là giải pháp tối ưu để phát triển giống bò thịt phù hợp với điều kiện từng quốc gia Các giống bò thịt như Brangus và Droughtmaster được hình thành từ lai tạo, với Brangus có 5/8 máu bò Angus và 3/8 máu bò Brahman, trong khi Droughtmaster có 5/8 máu bò Shorthorn và 3/8 máu bò Brahman Qua quá trình lai tạo, nhiều giống bò thịt đã được phát triển, giúp nâng cao khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt, phù hợp với khí hậu và trình độ chăn nuôi của mỗi quốc gia.
Flowers và cộng sự (2018) đã nghiên cứu khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt của các tổ hợp bò lai Angus × 75% Brahman, Angus × 50% Brahman, Angus × 25% Brahman, cùng với bò Angus và Brahman thuần chủng Kết quả cho thấy rằng các tổ hợp bò lai có sự khác biệt về khối lượng sơ sinh, khối lượng cai sữa, khối lượng trưởng thành, tỷ lệ thịt xẻ, diện tích cơ thăn, điểm mỡ dắt và lực cắt, trong đó tất cả các chỉ tiêu này đều giảm khi tỷ lệ máu Brahman tăng lên, ngoại trừ tỷ lệ thịt xẻ và lực cắt Thịt cơ thăn của các tổ hợp lai có tỷ lệ máu Brahman cao hơn ít mỡ giắt, hàm lượng axit béo bão hòa và axit béo không bão hòa đơn thấp hơn, nhưng hàm lượng axit béo không bão hòa đa tương đương với bò Angus thuần chủng Haque và cộng sự (2016) cũng cho biết bò lai 50% và 25% Brahman nuôi ở Bangladesh có khối lượng sơ sinh lần lượt là 21,4 và 19,8 kg, cùng khối lượng lúc 12 tháng là 229,6 và 172,6 kg, với mức tăng khối lượng trung bình hằng ngày là 570,5 và 530 gam/con/ngày Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng tỷ lệ máu của giống tham gia lai tạo ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng thịt của bò.
Faverovà cs (2019) đã chỉ ra rằng đàn bò lai giữa mẹ Nellore và bố Red Angus, Caracu có năng suất sinh trưởng vượt trội so với đàn bò Nellore thuần chủng, với khối lượng sơ sinh và khối lượng cai sữa cao hơn Cụ thể, khối lượng sơ sinh cao nhất thuộc về con lai Red Angus × Nellore với 34,0 kg, tiếp theo là Caracu × Nellore với 32,0 kg và Nellore với 31,5 kg Tăng khối lượng hàng ngày của các con lai này lần lượt là 0,80; 0,80; và 0,73 kg/con/ngày Độ dày mỡ lưng của các con lai cũng thấp hơn so với con thuần chủng Pesonen (2020) cho thấy lai tạo ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng thịt của bò đực Heroford và Charolais, trong đó bò đực Charolais tăng khối lượng nhanh hơn và có tỷ lệ thịt xẻ cao hơn, nhưng bò đực Heroford lại có độ mềm và độ ngọt thịt tốt hơn Bò đực lai Heroford × Charolais có thân thịt nặng hơn và chất lượng thịt được người tiêu dùng ưa chuộng hơn Rudder và cs (2014) cho biết bò lai Charolais × Brahman có mức tăng khối lượng hàng ngày cao hơn 0,280 kg/con/ngày so với bò Brahman trong giai đoạn trước và sau cai sữa.
Nghiên cứu của Rezagholivand và cộng sự (2021) chỉ ra rằng bê lai giữa các giống bò như Charolais × Holstein, Limousin × Holstein và INRA 95 × Holstein có mức tăng khối lượng trung bình hàng ngày cao hơn đáng kể so với bê Holstein thuần Bên cạnh đó, bê lai Charolais và bê Holstein có hệ số chuyển hóa thức ăn tốt hơn so với các nhóm khác Tỷ lệ thịt xẻ của các giống lai này cũng cao hơn so với bò Holstein thuần và bò lai Angus × Holstein Những kết quả này cho thấy việc sử dụng giống lai có thể cải thiện đáng kể các chỉ số sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt Hơn nữa, cùng một giống bò mẹ và điều kiện chăm sóc, nhưng khi lai tạo với các giống đực khác nhau, thế hệ con có khả năng sinh trưởng và năng suất khác nhau Việc chọn giống bò đực tốt sẽ tạo ra thế hệ con cháu có chất lượng tốt hơn nhờ vào ưu thế lai.
Nghiên cứu của Kapitula và cộng sự (2016) chỉ ra rằng việc lai tạo giữa các giống bò như Holstein × Limousine, Holstein × Charolais và Holstein × Hereford có ảnh hưởng đáng kể đến hàm lượng collagen, lực cắt và mức độ hài lòng của người tiêu dùng đối với thịt bò Cụ thể, lực cắt có mối tương quan nghịch với hàm lượng collagen hòa tan trong nước, với thịt cơ thăn của bò Holstein × Limousine và Holstein × Hereford có giá trị lực cắt thấp hơn so với bò Holstein × Charolais Domingo và cộng sự (2015) cũng cho thấy rằng thịt cơ thăn của bò lai Holstein × Rubia Gallega có màu đỏ hơn và nhạt hơn so với các giống bò lai khác Đối với axit béo trong cơ thăn, axit béo bão hòa là loại phong phú nhất, tiếp theo là axit béo không bão hòa đơn và không bão hòa đa.
1.5.2 Tình hình nghiên cứu ở ViệtNam
1.5.2.1 Nghiên cứu và ứng dụng lai giống để nâng cao năng suất sinhsản
Năng suất sinh sản của bò cái là yếu tố quyết định năng suất trong chăn nuôi bò thịt, vì vậy nâng cao chất lượng con giống là ưu tiên hàng đầu Hai phương pháp chính để cải thiện di truyền là chọn lọc và lai tạo Mặc dù chọn lọc mang lại tiến bộ di truyền, nhưng thường diễn ra chậm và hiệu quả chỉ khi tính trạng có hệ số di truyền cao Đối với các tính trạng sinh sản có hệ số di truyền thấp, lai tạo trở thành giải pháp nhanh chóng và hiệu quả hơn Do đó, lai tạo đã được áp dụng rộng rãi trong chăn nuôi bò sinh sản ở Việt Nam và trên thế giới trong nhiều thập kỷ, nhằm nâng cao năng suất sinh sản thông qua việc tận dụng ưu thế lai và ảnh hưởng bổ sung của các giống.
Giống bò Vàng Việt Nam nổi bật với sức khỏe tốt, khả năng thích nghi với khí hậu nhiệt đới và khả năng chịu đựng điều kiện kham khổ, nhưng lại có nhược điểm về kích thước nhỏ và năng suất sữa thấp Để cải thiện tầm vóc và năng suất, Việt Nam đã tiến hành lai tạo bò cái Vàng với bò đực Red Sindhi, dẫn đến việc bò Lai Sind chiếm khoảng 30% tổng đàn bò vào năm 2003 Từ năm 1985, đàn cái nền Lai Sind đã trở thành nguồn nguyên liệu quý cho việc lai tạo bò sữa, và từ năm 1995 cho bò thịt (Đinh Văn Cải, 2007a) Nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Hà (2003) cho thấy sự khác biệt trong năng suất sinh sản giữa bò Vàng và bò Lai Sind, đặc biệt là độ tuổi động dục lần đầu.
Tỷ lệ bò phối giống có chửa đạt 55,3% ở bò Lai Sind và 51,4% ở bò Vàng, với số bò đẻ trên số bò có chửa lần lượt là 87,9% và 84,1% Bò Vàng có tỷ lệ động dục lại sau đẻ trước 4 tháng là 75,2%, trong khi bò Lai Sind là 70,0%, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê Kết quả này tương tự như nghiên cứu của Trần Văn Tường và Phan Đình Thắm (1999) về năng suất sinh sản của bò Red Sindhi × bò Vàng tại Thái Nguyên Theo Nguyễn Hữu Văn và cộng sự (2009), khối lượng sơ sinh của bò Vàng là 12,0 kg, trong khi bò Lai Sind là 18,3 kg, cho thấy lai tạo đã cải thiện năng suất sinh sản của đàn bò địa phương.
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Bả và cộng sự (2015) cho thấy đàn bò Lai Sind, Brahman × Lai Sind và Lai Brahman tại vùng Duyên hải miền Trung có tuổi động dục lần đầu trung bình là 24,6 tháng, tuổi phối giống lần đầu là 24,8 tháng, thời gian động dục lại sau đẻ là 157 ngày, thời gian phối giống thành công sau đẻ là 163 ngày và khoảng cách giữa các lứa đẻ là 437 ngày Trong khi đó, Nguyễn Trung Trực (2013) ghi nhận rằng đàn bò cái Lai Sind, Brahman × Lai Sind và Lai Brahman ở tỉnh Tiền Giang có tuổi phối giống lần đầu trung bình là 16,8 tháng, tuổi đẻ lứa đầu trung bình là 25,8 tháng, thời gian phối giống lại sau đẻ trung bình là 2,6 tháng và khoảng cách giữa hai lứa đẻ là 12,8 tháng Ngô Thị Diệu (2016) cũng chỉ ra rằng bò cái lai Brahman × Lai Sind và Lai Sind nuôi ở Quảng Bình có tuổi động dục lần đầu là 25,0 tháng, tuổi phối giống lần đầu là 25,5 tháng, tuổi đẻ lứa đầu là 35,0 tháng, thời gian động dục lại sau đẻ là 138 ngày, thời gian phối giống thành công sau đẻ là 147 ngày và khoảng cách giữa các lứa đẻ là 430 ngày.
Nhu cầu về thịt bò tại Việt Nam đang gia tăng cả về số lượng lẫn chất lượng, thúc đẩy việc áp dụng các công thức lai tạo và giống bò chuyên thịt cao sản Phạm Văn Quyến (2001) đã nghiên cứu việc phối giống bò Charolais, Hereford và Simental với đàn bò cái Lai Sind, cho thấy tỷ lệ thụ thai trong lần phối giống đầu tiên đạt trung bình 63,75%, với dao động từ 55% đến 65% tùy thuộc vào từng giống Tỷ lệ bò đẻ trên số bò đã thụ thai đạt 98,6%.