Khái quát về đăng ký kinh doanh
Khái niệm, đặc điểm của đăng ký kinh doanh
Kinh doanh, hay còn gọi là business trong tiếng Anh, đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhân loại, gắn liền với sự ra đời và phát triển của thương nhân cũng như các phường hội buôn bán Hiện nay, khái niệm kinh doanh được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào từng góc độ tiếp cận.
Theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, thuật ngữ “kinh doanh” được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất là “mở mang thêm”, và thứ hai là “tổ chức sản xuất, buôn bán, dịch vụ nhằm mục đích sinh lời”.
Kinh doanh được định nghĩa là hoạt động liên tục thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường, với mục tiêu chính là tạo ra lợi nhuận.
Hành vi kinh doanh có các dấu hiệu như sau:
Hành vi trong thương trường cần phải mang tính chất nghề nghiệp, thể hiện qua các đặc điểm của chủ thể tham gia theo sự phân công lao động xã hội Những hành vi này diễn ra thường xuyên, ổn định và đều đặn, đồng thời có tính chuyên nghiệp cao, đóng góp vào nguồn thu nhập chính của người thực hiện.
Hành vi kinh doanh cần được thực hiện độc lập, với các chủ thể tự đại diện cho bản thân trong quá trình hoạt động Họ có quyền tự quyết định và phải chịu trách nhiệm về mọi vấn đề phát sinh liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình.
Hành vi có mục đích sinh lợi
Bên cạnh đó có cách hiểu kinh doanh là để kiếm tiền theo một nghĩa rộng hơn
Ví như kinh doanh để mang lại lợi ích cho cộng đồng (hay kinh doanh xã hội)
1.1.1.2 Đăng ký kinh doanh và hậu quả pháp lý của đăng ký kinh doanh Để thực hiện hoạt động kinh doanh trên thị trường, chủ thể phải tiến hành hoạt động ĐKKD với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ĐKKD là thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp, theo đó có thể nhìn nhận dưới các góc độ sau:
Về mặt kinh tế-xã hội, đăng ký kinh doanh (ĐKKD) là bước đầu tiên mà doanh nghiệp cần thực hiện để gia nhập thị trường Quá trình ĐKKD không chỉ giúp thành lập doanh nghiệp mà còn công khai thông tin về các lĩnh vực kinh doanh, thu hút sự quan tâm từ cộng đồng doanh nghiệp và xã hội Mặc dù doanh nghiệp chưa hoạt động thực sự trong giai đoạn này, nhưng chi phí phát sinh trong quá trình ĐKKD vẫn được xem là hợp lý và có thể khấu trừ khi tính thuế.
ĐKKD là thủ tục pháp lý quan trọng nhằm xác nhận địa vị pháp lý của các chủ thể kinh doanh trên thị trường Nhà đầu tư cần khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hoạt động kinh doanh dự kiến và được cấp Giấy Chứng nhận ĐKKD, qua đó hợp pháp hóa sự tồn tại của doanh nghiệp Tùy thuộc vào luật pháp từng quốc gia, ĐKKD có thể thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính hoặc tư pháp Tại Việt Nam, Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thực hiện ĐKKD.
ĐKKD là hoạt động pháp lý liên quan đến việc đăng ký kinh doanh giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chủ thể kinh doanh Chủ thể kinh doanh cần khai báo đúng quy định pháp luật, trong khi cơ quan nhà nước sẽ ghi tên vào sổ ĐKKD và cấp Giấy Chứng Nhận Đăng Ký Doanh Nghiệp (GCN ĐKDN) GCN ĐKDN là bằng chứng pháp lý xác nhận hoạt động kinh doanh hợp pháp, được nhà nước công nhận và bảo hộ.
Trong quản lý nhà nước, việc đăng ký kinh doanh (ĐKKD) là một thủ tục hành chính bắt buộc mà doanh nghiệp và thương nhân phải hoàn tất để đáp ứng yêu cầu của nhà nước trong việc quản lý hoạt động kinh doanh Chỉ những hình thức kinh doanh có Giấy chứng nhận ĐKKD mới được coi là hợp pháp tại Việt Nam ĐKKD không chỉ là một biện pháp quản lý nhà nước về kinh tế mà còn là hoạt động quản lý đầu tiên của nhà nước đối với doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các hoạt động quản lý tiếp theo khi doanh nghiệp bắt đầu sản xuất và kinh doanh.
Về phương diện chính trị-pháp lý, ĐKKD được coi là quyền tự do kinh doanh, là một phần của quyền tự do dân chủ của nhân dân Quyền này cần được hiểu trong khuôn khổ của dân chủ tập trung và bình đẳng trước pháp luật, đồng thời cũng là nghĩa vụ cần thực hiện Quyền tự do kinh doanh của công dân bao gồm quyền tự do lựa chọn ngành nghề, hình thức kinh doanh và quyền ĐKKD Tất cả các tổ chức đáp ứng đủ điều kiện đều có quyền đăng ký kinh doanh với nhà nước để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mà không bị ngăn cản trái phép.
Theo pháp luật doanh nghiệp, ĐKDN là quá trình ghi nhận sự ra đời và cập nhật các thay đổi pháp lý trong suốt vòng đời của doanh nghiệp ĐKKD bao gồm việc đăng ký doanh nghiệp và đăng ký thuế cho các loại hình doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp, với các nội dung chính là đăng ký thành lập mới và thay đổi nội dung ĐKKD.
Khái niệm ĐKDN được quy định tại Khoản 1, Điều 3 chỉ áp dụng cho việc đăng ký các loại hình doanh nghiệp có vốn trong nước theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 Nội dung này không bao gồm việc đăng ký doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo Luật Đầu tư, cũng như các loại hình doanh nghiệp khác được thành lập và hoạt động theo các luật chuyên ngành khác nhau, như doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu chế xuất, tổ chức tài chính tín dụng, chứng khoán và bảo hiểm.
Hậu quả pháp lý của ĐKKD: có hai hậu quả pháp lý đối với hành vi ĐKKD là:
Doanh nghiệp được cấp GCN ĐKKD: Để được cấp GCN ĐKKD, doanh nghiệp phải thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau đây:
- Ngành, nghề ĐKKD không bị cấm đầu tư kinh doanh;
- Tên của doanh nghiệp được đặt theo đúng quy định của pháp luật;
- Có hồ sơ đăng ký doanh nghiệp hợp lệ theo quy định;
- Nộp đủ lệ phí đăng ký doanh nghiệp theo quy định pháp luật về phí và lệ phí;
Doanh nghiệp không được cấp GCN ĐKKD: nếu không thỏa mãn một trong những điều kiện ở trên
Phân biệt Đăng ký kinh doanh với Đăng ký doanh nghiệp
Thuật ngữ ĐKKD được sử dụng phổ biến trước đây nhưng đã có điều chỉnh qua những chặng đường phát triển của quản lý nhà nước về ĐKKD
Trong Luật Doanh nghiệp năm 2005, thuật ngữ ĐKKD được sử dụng Sau đó, từ Nghị định 43/2010/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp, Nghị định 102/2010/NĐ-
Luật Doanh nghiệp năm 2014, cùng với Nghị định số 78/2015/NĐ-CP, đã chính thức thay thế thuật ngữ "Luật doanh nghiệp" bằng "đăng ký doanh nghiệp".
Hai thuật ngữ ĐKKD (Đăng ký kinh doanh) và ĐKDN (Đăng ký doanh nghiệp) thường được sử dụng thay thế cho nhau, nhưng chúng có sự khác biệt về mặt ngữ nghĩa ĐKKD chủ yếu liên quan đến mục đích quản lý nhà nước, trong khi ĐKDN tập trung vào các hậu quả pháp lý trực tiếp đối với doanh nghiệp Quy trình ĐKKD được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhằm trao quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể kinh doanh theo quy định pháp luật.
Hình thức, quy trình đăng ký kinh doanh
a Hình thức đăng ký kinh doanh
Theo tính chất ĐKDN, có các hình thức đăng ký doanh nghiệp như sau:
- Đăng ký thành lập mới các loại hình doanh nghiệp;
- Đăng ký thay đổi các loại hình doanh nghiệp;
- Đăng ký chuyển đổi các loại hình doanh nghiệp b Quy trình đăng ký kinh doanh
STT Người thực hiện Nội dung công việc thực hiện
- Tiếp nhận: kiểm tra mục lục hồ sơ ĐKDN và tiếp nhận vào Hệ thống
- Thu phí, ghi giấy hẹn trả kết quả
- Bàn giao hồ sơ cho Phòng ĐKKD
Phân công hồ sơ cho cán bộ thụ lý và Phó trưởng Phòng ủy quyền ký duyệt hồ sơ
3 Cán bộ thụ lý hồ sơ ĐKDN
- Kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ
- Xử lý hồ sơ đối với các trường hợp: hồ sơ hợp lệ, hồ sơ không hợp lệ, chưa có kết quả giải quyết gửi yêu cầu
Mã số doanh nghiệp sang Cơ quan Thuế
- Duyệt ký Kết quả ĐKDN (Giấy CN ĐKDN, Thông báo sửa đổi bổ sung hồ sơ)
- Phô tô đóng dấu, vào số
- Trả hồ sơ và kết quả ĐKDN
- Lập danh sách hồ sơ giao cho Phòng ĐKKD
- Gửi Bản sao Giấy CN ĐKDN cho các cơ quan QLNN
- Bàn giao hồ sơ lưu trữ cho Văn phòng
Bảng 1.1 Quy trình đăng ký kinh doanh
(Theo tài liệu của Sở KH&ĐT TP Hà Nội )
Với quy trình ĐKKD như trên, ta thấy có một số đặc điểm như sau:
Quy trình triển khai được thực hiện qua 7 bước theo quy định của phòng ĐKKD – Sở KH&ĐT Hà Nội Mặc dù quy trình này đảm bảo tính chính xác, nhưng nó tương đối phức tạp và tốn nhiều thời gian.
Quy trình đăng ký kinh doanh tại TP Hà Nội có sự tham gia của nhiều nhân sự như cán bộ tiếp nhận, trưởng phòng, cán bộ thụ lý và cán bộ văn thư Sự tham gia đông đảo này có thể dẫn đến việc tiến trình đăng ký bị trì hoãn và kéo dài.
Quy trình đăng ký kinh doanh (ĐKKD) tại Việt Nam không đồng nhất giữa các địa phương, mỗi nơi áp dụng một quy trình riêng để thực hiện công tác này Sự thiếu quy chuẩn chung dẫn đến sự khác biệt trong cách thức triển khai ĐKKD giữa các khu vực, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc nắm bắt và tuân thủ các quy định.
Nội dung đăng ký kinh doanh
Hoạt động ĐKKD bao gồm các nội dung sau:
- Đăng ký thành lập doanh nghiệp mới: đối với doanh nghiệp tư nhân; công ty
Công ty TNHH một thành viên, công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty cổ phần và công ty hợp danh đều phải thực hiện đăng ký doanh nghiệp (ĐKDN) Quy trình ĐKDN áp dụng cho các công ty được thành lập từ việc chia, tách, hợp nhất cũng như đối với các công ty nhận sáp nhập.
Đăng ký chuyển đổi loại hình doanh nghiệp là quy trình quan trọng, cho phép doanh nghiệp chuyển từ công ty TNHH một thành viên sang công ty TNHH hai thành viên trở lên và ngược lại Ngoài ra, doanh nghiệp tư nhân có thể chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn, trong khi công ty trách nhiệm hữu hạn cũng có khả năng chuyển đổi thành công ty cổ phần và ngược lại.
Đăng ký thay đổi nội dung ĐKDN bao gồm việc điều chỉnh tên doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính, vốn điều lệ hoặc vốn đầu tư, cũng như thay đổi người đại diện theo ủy quyền, thành viên hoặc cổ đông công ty Ngoài ra, cần thực hiện thay đổi người đại diện theo pháp luật, chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc chủ sở hữu công ty và cập nhật thông tin đăng ký thuế.
- Đăng ký bổ sung, cập nhật thông tin ĐKDN và đăng ký thuế;
Đăng ký thành lập mới và thay đổi nội dung hoạt động của các đơn vị phụ thuộc doanh nghiệp, bao gồm chi nhánh, văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh, là quy trình quan trọng giúp doanh nghiệp mở rộng hoạt động và đảm bảo tuân thủ pháp luật.
- Đăng ký tạm ngừng kinh doanh, hoạt động trở lại của doanh nghiệp và các đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp;
Đăng ký giải thể doanh nghiệp là quy trình cần thiết khi doanh nghiệp bị chia, hợp nhất hoặc sáp nhập Ngoài ra, cũng có những trường hợp cần đăng ký chấm dứt hoạt động của các đơn vị phụ thuộc trong doanh nghiệp.
- Đăng ký cấp đổi sang Giấy CN ĐKDN, cấp lại Giấy CN ĐKDN, Giấy CN đăng ký hoạt động chi nhánh/văn phòng đại diện;
- Đăng ký cấp GCN ĐKDN thay thế nội dung ĐKKD trong Giấy phép đầu tư,
Giấy chứng nhận đầu tư
1.1.5 Đặc trƣng cơ bản pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam
Tính pháp chế trong tổ chức thực hiện quy định về ĐKDN tại Việt Nam hiện còn thấp, mặc dù hệ thống pháp luật tương đối đồng bộ, ngoại trừ việc chưa ban hành văn bản hướng dẫn Luật Doanh nghiệp 2014 Vấn đề thực thi các quy định pháp luật chưa được đề cao, ảnh hưởng lớn đến mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
QLNN về ĐKKD tại Việt Nam được giao cho cơ quan quản lý KH&ĐT trực thuộc Chính phủ, tương tự như nhiều quốc gia ở Châu Á-Thái Bình Dương, Châu Phi và Trung Đông Tuy nhiên, ở Châu Âu và Châu Mỹ, ngoài việc giao cho Chính phủ, quản lý nhà nước còn được thực hiện thông qua các Ủy ban thương mại theo mô hình hợp tác công tư.
(Public Private Partnership), Tòa án tư pháp (Court of Justice) và các cơ quan khác
Thứ ba, thẩm quyền quản lý được phân công và phân cấp cho nhiều cơ quan
Hiện nay, hoạt động đăng ký kinh doanh (ĐKKD) được quản lý bởi nhiều cơ quan khác nhau Tại Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) đảm nhận chức năng quản lý nhà nước về ĐKKD Bộ KH&ĐT tổ chức quản lý thông qua hai cục: Cục Quản lý ĐKKD và Cục Phát triển doanh nghiệp.
Cục Quản lý ĐKKD: giúp Bộ trưởng Bộ KH&ĐT QLNN về ĐKKD;
Cục Phát triển doanh nghiệp hỗ trợ Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện chức năng quản lý nhà nước về phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng như phát triển doanh nghiệp nhà nước.
Đặc trưng cơ bản pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam
Đặc trưng tập quyền và phân quyền của Việt Nam cũng xuất hiện ở nhiều quốc gia khác trên thế giới Cụ thể, tại Châu Phi và Trung Đông, tỷ lệ tập quyền là 83% và phân quyền là 17%; trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, tỷ lệ này là 70% tập quyền và 30% phân quyền; tại Châu Âu, con số là 67% tập quyền và 33% phân quyền; còn ở Châu Mỹ, tỷ lệ tập quyền lên đến 86%, trong khi phân quyền chỉ chiếm 14%.
Quá trình phát triển cơ quan ĐKKD tại Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn Ban đầu, việc quản lý ĐKKD được giao cho Trọng Tài Kinh tế Nhà nước, được thành lập theo Pháp lệnh ngày 10/01/1990 Tuy nhiên, sau khi Trọng Tài Kinh tế Nhà nước bị giải thể vào năm 1994, nhiệm vụ quản lý nhà nước về ĐKKD đã được chuyển giao cho hệ thống cơ quan Khoa học và Đầu tư theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Cơ sở lý luận và vai trò của hoạt động đăng ký kinh doanh
Cơ sở lí luận, bản chất và hiệu lực của hoạt động đăng ký kinh doanh
1.2.1.1 Đối với nhà nước ĐKKD là một trong những công cụ để nhà nước thực hiện chức năng quản lý đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân Việc cấp GCN ĐKDN là sự ghi nhận về mặt pháp lý của Nhà nước đối với sự ra đời và tư cách chủ thể của một chủ thể kinh doanh Theo khoản 2 Điều 47, khoản 2 Điều 73, khoản 2 Điều 110, khoản 2 điều
Theo Điều 172 của Luật Doanh nghiệp 2014, các loại hình doanh nghiệp như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty cổ phần và công ty hợp danh sẽ có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (GCN ĐKKD) Ngoài ra, Khoản 2, Điều 10 của Luật Doanh nghiệp nhà nước cũng quy định rằng công ty nhà nước có tư cách pháp nhân từ thời điểm nhận GCN ĐKKD.
Sự ghi nhận về mặt pháp lý của Nhà nước được thể hiện qua một số nội dung sau đây:
Trước khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (GCN ĐKKD), chủ thể kinh doanh không có đủ năng lực pháp luật để tham gia vào các quan hệ dân sự và kinh tế Các hoạt động kinh doanh diễn ra trước thời điểm này chỉ được xem là hành động cá nhân, không đại diện cho chủ thể kinh doanh Theo Điều 19 của Luật Doanh nghiệp 2014, người thành lập doanh nghiệp có thể ký các hợp đồng phục vụ cho việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp trong quá trình đăng ký, nhưng doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ từ các hợp đồng này sau khi được cấp GCN ĐKKD Nếu doanh nghiệp không được đăng ký thành lập, người ký hợp đồng sẽ phải chịu trách nhiệm Điều này khẳng định rằng, trước khi có GCN ĐKKD, chủ thể kinh doanh không đủ tư cách để ký kết và thực hiện các thỏa thuận nhân danh chính mình, và các quy định trong điều lệ chỉ có giá trị ràng buộc đối với các thành viên sau khi được cấp GCN ĐKKD.
Kể từ khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (GCN ĐKKD), chủ thể kinh doanh sở hữu đầy đủ quyền và nghĩa vụ đối với tài sản của tổ chức đã đăng ký Theo Khoản 1, Điều 36 Luật Doanh nghiệp 2014, các thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và cổ đông công ty cổ phần phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty Đối với các công ty nhà nước, việc tiếp nhận vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước hoặc huy động vốn để đầu tư và xây dựng doanh nghiệp chỉ được thực hiện sau khi có GCN ĐKKD (Khoản 2 Điều 36).
Sau khi nhận Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (GCN ĐKKD), doanh nghiệp nhà nước có quyền sử dụng tài sản của mình để thực hiện hoạt động kinh doanh Họ sẽ được hưởng lợi từ các hoạt động này và đồng thời chịu trách nhiệm về các cam kết đã thực hiện dưới danh nghĩa của chính mình.
- Thông qua việc cấp GCN ĐKKD, Nhà nước điều tiết và định hướng hoạt động kinh doanh của chủ thể kinh doanh
Quyền tự do kinh doanh là quyền cơ bản của công dân theo Hiến pháp 2013, tuy nhiên, các chủ thể kinh doanh phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng và quyền lợi của người khác, như quy định trong Bộ luật Dân sự Điều này không chỉ bảo vệ lợi ích của chính các chủ thể kinh doanh mà còn đảm bảo an toàn cho toàn xã hội, ngăn chặn hành vi lừa đảo trong sản xuất kinh doanh Nhà nước khuyến khích hoạt động sản xuất kinh doanh qua hệ thống pháp luật ĐKKD, đồng thời cấm hoặc hạn chế một số ngành nghề có thể gây hại đến an ninh, quốc phòng và trật tự xã hội Thông qua việc quản lý và theo dõi tình hình kinh doanh, Nhà nước có thể điều chỉnh chính sách kinh tế, ưu tiên hoặc hạn chế đầu tư vào các lĩnh vực nhất định, nhằm đảm bảo sự phát triển đồng bộ và ổn định cho nền kinh tế quốc dân.
- Cấp GCN ĐKKD là một trong những phương thức để nhà nước kiểm tra và giám sát hoạt động kinh doanh của chủ thể kinh doanh
Liên quan đến hoạt động kinh doanh thực tiễn, quản lý nhà nước (QLNN) bao gồm các công việc kiểm tra và giám sát, có thể được phân loại thành nhiều nhóm khác nhau.
QLNN đối với chủ thể kinh doanh qua ĐKKD;
Quản lý nhà nước (QLNN) đối với chủ thể kinh doanh được thực hiện thông qua chế độ báo cáo và kiểm tra Theo Điều 10, QLNN có quyền trực tiếp kiểm tra hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện kiểm tra doanh nghiệp dựa trên nội dung trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp Bên cạnh đó, theo Điều 209 của Luật Doanh nghiệp 2014, QLNN có thể yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về việc tuân thủ các quy định của luật khi thấy cần thiết, đồng thời đôn đốc việc thực hiện nghĩa vụ báo cáo của doanh nghiệp Ngoài ra, QLNN còn áp dụng các biện pháp khác để quản lý hiệu quả các chủ thể kinh doanh.
1.2.1.2 Đối với doanh nghiệp ĐKKD là việc (các) chủ sở hữu tiến hành để bắt đầu kinh doanh tuân theo một quy trình chuẩn bắt buộc Quy trình này được tiến hành trong cả hai trường hợp; thành lập doanh nghiệp mới và chính thức hóa việc sửa đổi một số thông tin của doanh nghiệp đang hoạt động ĐKKD là một thủ tục có vai trò quan trọng với sự hình thành của công ty vì nó mang tính chất pháp lý, thể hiện sự công nhận của Nhà nước với sự ra đời của một thực thể kinh doanh:
Quá trình thành lập công ty đánh dấu sự ra đời của một thực thể được pháp luật công nhận, tham gia vào nền kinh tế với đầy đủ quyền và nghĩa vụ Công ty sẽ được cấp tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản ngân hàng, mã số thuế và mã số hải quan riêng biệt.
Thứ hai, sự kiện này đánh dấu sự kết thúc của quá trình thảo luận và thống nhất giữa các sáng lập viên, đồng thời mở ra sự công nhận chính thức từ Nhà nước Các thành viên sáng lập sẽ chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của công ty cũng như tài sản liên quan đến công ty.
Thứ ba, giai đoạn ký kết Điều lệ của Công ty là rất quan trọng, đánh dấu sự công nhận của Nhà nước Từ đây, mọi hoạt động của công ty sẽ phải tuân thủ theo Điều lệ đã ban hành, bao gồm cơ cấu tổ chức, hình thức quản lý và cách thức ra quyết định.
Vào thứ tư, việc tạo lập nền tảng tài chính và vật chất là rất quan trọng để duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh của công ty Các thành viên sáng lập sẽ đóng góp vốn và sẽ được ghi nhận thông qua Giấy chứng nhận góp vốn do công ty cấp.
1.2.1.3 Bản chất và hiệu lực của hoạt động đăng ký kinh doanh
Về bản chất pháp lý
Bản chất pháp lý của hoạt động đăng ký kinh doanh (ĐKKD) là sự công nhận chính thức từ phía nhà nước đối với sự hình thành và hoạt động của doanh nghiệp.
Sự công nhận pháp lý đầu tiên của doanh nghiệp diễn ra khi thực hiện ĐKKD, khi đó doanh nghiệp được chính thức gọi tên, cấp mẫu dấu, mở tài khoản riêng và chỉ định người đại diện theo pháp luật Mặc dù có nhiều hình thức công nhận pháp lý khác như thủ tục thuế, hải quan và các thủ tục khác tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng ĐKKD vẫn là bước quan trọng nhất để doanh nghiệp được công nhận chính thức.
Vai trò, ý nghĩa của đăng ký kinh doanh
Đăng ký doanh nghiệp là thủ tục cần thiết để xác nhận tư cách pháp lý và phát sinh quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp Việc này không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với cơ quan nhà nước trong việc bảo hộ và quản lý hoạt động kinh doanh, mà còn giúp doanh nghiệp được thừa nhận về mặt pháp lý, từ đó có quyền thực hiện các hoạt động kinh doanh dưới sự bảo vệ của pháp luật Đăng ký kinh doanh (ĐKKD) cho phép nhà nước kiểm soát và điều chỉnh các hoạt động kinh tế, đảm bảo sự phát triển bền vững và phù hợp với chính sách của Đảng Đồng thời, việc có Giấy chứng nhận ĐKKD là cơ sở vững chắc để doanh nghiệp yêu cầu bảo vệ quyền lợi hợp pháp và đảm bảo tính pháp lý cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình, góp phần vào việc thực hiện quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật.
Đăng ký kinh doanh (ĐKKD) đóng vai trò quan trọng trong việc công khai hoạt động của doanh nghiệp trước công chúng, giúp xã hội tiếp cận thông tin và xác thực tư cách pháp lý của doanh nghiệp Điều này tạo dựng niềm tin cho khách hàng trong quá trình giao dịch, đồng thời là yếu tố tiên quyết để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển bền vững.
Doanh nghiệp, với vai trò là thành viên trong các cơ cấu kinh tế, không chỉ tham gia vào sản xuất kinh doanh mà còn đóng góp tích cực vào sự phát triển xã hội Các hoạt động của doanh nghiệp không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển bền vững cho cộng đồng.
Đăng ký kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích doanh nghiệp gia nhập thị trường, qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Việc đăng ký thành lập doanh nghiệp không chỉ bảo đảm quyền lợi cho doanh nghiệp mà còn phản ánh tính cạnh tranh của môi trường kinh doanh địa phương và quốc gia, đồng thời bảo vệ lợi ích của các chủ thể kinh doanh trong xã hội Do đó, đây là một nhu cầu thiết yếu và nghĩa vụ của mỗi doanh nghiệp khi gia nhập thị trường Đặc biệt, việc xây dựng quy định quản lý ĐKKD hiệu quả là rất quan trọng trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam đã tham gia nhiều diễn đàn kinh tế như ASEAN, APEC và đạt được thỏa thuận sáng lập TPP, yêu cầu tuân thủ quy tắc chung và chịu trách nhiệm pháp lý nếu vi phạm Hệ thống ĐKKD hiệu quả sẽ giúp Việt Nam được đánh giá cao và đối xử công bằng trong cộng đồng kinh tế quốc tế.
Pháp luật về đăng ký kinh doanh và cơ quan đăng ký kinh doanh
Pháp luật về đăng ký kinh doanh
1.3.1.1 Khái niệm pháp luật về Đăng ký kinh doanh
Hiện tại, chưa có định nghĩa pháp luật chính thức về ĐKKD, nhưng có thể hiểu rằng pháp luật về ĐKKD bao gồm các quy định điều chỉnh hoạt động nhằm công nhận sự tồn tại hợp pháp, tổ chức và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp, cũng như các chủ thể kinh doanh và tổ chức liên quan.
Pháp luật về ĐKKD quy định các mối quan hệ pháp lý liên quan đến quy trình và thủ tục đăng ký doanh nghiệp, đồng thời quản lý nhà nước về việc đăng ký các loại hình doanh nghiệp và theo dõi các biến động của doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động của nó.
1.3.1.2 Nội dung cơ bản của pháp luật đăng ký kinh doanh
Pháp luật về ĐKKD bao gồm những quy định sau:
Cơ quan ĐKKD có quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng trong việc cấp, điều chỉnh và thu hồi Giấy Chứng Nhận ĐKKD Bên cạnh đó, cơ quan này cũng phải chịu trách nhiệm trong công tác quản lý và áp dụng chế tài khi xảy ra các vi phạm liên quan đến hoạt động đăng ký kinh doanh.
Điều kiện về chủ thể kinh doanh bao gồm quy định các loại chủ thể có quyền đăng ký kinh doanh và thành lập doanh nghiệp tương ứng với từng loại hình doanh nghiệp Ngoài ra, cần lưu ý đến những trường hợp hạn chế quyền, tước bỏ quyền và các trường hợp đặc thù khác liên quan đến chủ thể kinh doanh.
Quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể ĐKKD được quy định rõ ràng, bao gồm các hành vi được phép thực hiện và những hành vi bị cấm Đồng thời, chế tài cũng được áp dụng nghiêm khắc trong trường hợp vi phạm liên quan đến ĐKKD, nhằm đảm bảo tính nghiêm minh và công bằng trong hoạt động kinh doanh.
Để được cấp mới, điều chỉnh hoặc thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (GCN ĐKKD), các doanh nghiệp cần tuân thủ trình tự, thủ tục và thời hạn cụ thể theo quy định của Luật Doanh nghiệp Mỗi loại hình doanh nghiệp sẽ có những điều kiện riêng biệt cần đáp ứng để đảm bảo tính hợp pháp và hiệu quả trong quá trình đăng ký.
- Quyền và nghĩa vụ thông tin của chủ thể kinh doanh trong suốt thời gian hoạt động.
Cơ quan đăng ký kinh doanh
Cơ quan ĐKKD là cơ quan nhà nước được phân công chức năng, quyền hạn trong lĩnh vực quản lý hoạt động ĐKKD
Mức độ can thiệp của cơ quan nhà nước trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh (ĐKKD) phụ thuộc vào chính sách của từng quốc gia Một số quốc gia có thể chỉ yêu cầu ghi nhận thông tin từ doanh nghiệp, trong khi những quốc gia khác lại thực hiện kiểm soát chặt chẽ ở tất cả các giai đoạn, từ quá trình đăng ký cho đến hậu đăng ký.
Thực thi pháp luật về đăng ký kinh doanh
Khái niệm và đặc điểm của thực thi pháp luật
Thực thi pháp luật có thể được hiểu là quá trình biến các quy định pháp luật thành hiện thực trong đời sống, tức là làm cho pháp luật trở thành sự thật thông qua các hoạt động cụ thể.
Vì thế, thực thi pháp luật phải là hành vi hợp pháp
Tuy nhiên, nhà nước ban hành ra pháp luật chỉ để điều chỉnh hành vi hay xử sự của các chủ thể có khả năng nhận thức
Thực thi pháp luật là hành động hợp pháp của cá nhân hoặc tổ chức có năng lực pháp lý, bao gồm cả hành động và không hành động.
Thực thi pháp luật được chia thành bốn hình thức chính dựa trên yêu cầu của các quy phạm pháp luật, bao gồm tuân theo pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Tuân theo pháp luật ĐKKD là việc các chủ thể đăng ký, cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan liên quan thực hiện nghĩa vụ không thực hiện các hành vi bị pháp luật cấm Ví dụ, các chủ thể không được đăng ký kinh doanh các ngành nghề như mại dâm hay buôn ma túy Đây là hình thức thực thi các quy định pháp luật cấm đoán thông qua việc kiềm chế hành động, thể hiện sự tuân thủ pháp luật trong thực tế.
Thi hành pháp luật ĐKKD là quá trình thực thi các quy định pháp lý liên quan đến đăng ký kinh doanh, trong đó các chủ thể như người đăng ký, cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan liên quan thực hiện nghĩa vụ của mình một cách tích cực Ví dụ, cơ quan quản lý nhà nước có thể thông báo về tính không hợp lệ của hồ sơ đăng ký Hình thức này không chỉ đảm bảo việc thực hiện các quy phạm pháp luật bắt buộc mà còn thể hiện sự tương tác giữa các bên liên quan thông qua hành động cụ thể.
Pháp luật ĐKKD được thực thi qua hai hình thức chính: vận dụng và áp dụng Vận dụng pháp luật ĐKKD cho phép các chủ thể đăng ký thực hiện quyền của mình trong các ngành nghề không bị cấm, nghĩa là họ có thể lựa chọn thực hiện hoặc không thực hiện quyền này Ngược lại, áp dụng pháp luật ĐKKD là sự can thiệp của nhà nước, trong đó các cơ quan có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể đăng ký thực hiện các quy định pháp luật, như việc tiếp nhận và xử lý hồ sơ đăng ký kinh doanh Hình thức áp dụng này luôn có sự hiện diện của nhà nước, đảm bảo rằng các quy định được thực hiện đúng theo luật định.
Việc phân chia các hình thức thực hiện pháp luật mang tính tương đối và chủ yếu phục vụ cho nghiên cứu lý luận Trong thực tế, các thuật ngữ như tuân theo, thi hành, sử dụng và áp dụng pháp luật thường được sử dụng đồng nghĩa, nhằm nhấn mạnh rằng pháp luật cần được tôn trọng và thực hiện nghiêm túc bởi tất cả các chủ thể trong xã hội.
Trước hết, thực thi pháp luật phải là hành vi xác định hay xử sự thực tế của con người
Pháp luật chỉ có khả năng điều chỉnh hành vi và xử sự của con người, mà không thể can thiệp vào suy nghĩ hay tư tưởng của họ Điều này bởi vì không ai có thể "đọc" hay dự đoán chính xác ý nghĩ của người khác khi chúng chỉ tồn tại trong tâm trí, tức là chưa được thể hiện ra thành hành vi cụ thể để có thể điều chỉnh.
Hành vi thực thi pháp luật của các chủ thể có thể được thể hiện qua hành động cụ thể như đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông, ký kết hợp đồng mua bán, hoặc không hành động như việc không vượt đèn đỏ và không đi vào đường ngược chiều Những hành động và không hành động này đều góp phần quan trọng trong việc tuân thủ pháp luật và đảm bảo an toàn trong xã hội.
Thứ hai, thực thi pháp luật phải là hành vi hợp pháp
Hợp pháp bởi thực thi pháp luật là quá trình hiện thực hóa các quy định pháp luật, biến các yêu cầu của nhà nước thành hành động cụ thể của các chủ thể trong quan hệ pháp luật Điều này có nghĩa là các quy định pháp luật cần được áp dụng và thực hiện trong thực tiễn, trong khi những hành vi trái pháp luật không bao giờ được xem là hợp pháp.
Thứ ba, thực thi pháp luật phải là xử sự của các chủ thể có năng lực hành vi pháp luật
Các quy định pháp luật không có hiệu lực đối với những chủ thể không có khả năng nhận thức Tuy nhiên, không phải tất cả các chủ thể có khả năng nhận thức đều được công nhận là có năng lực hành vi pháp luật Một chủ thể chỉ được coi là có năng lực hành vi pháp luật khi đáp ứng đủ các điều kiện nhất định, và những điều kiện này sẽ khác nhau tùy thuộc vào từng loại chủ thể.
Thực thi pháp luật về đăng ký kinh doanh
Sau khi xem xét các văn bản pháp luật và nghiên cứu hiện có, tác giả không phát hiện khái niệm "thực hiện pháp luật về ĐKKD" trong tài liệu.
Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm ĐKKD và thực thi pháp luật ở các phần trên, chung ta có thể xây dựng khái niệm này như sau:
Thực thi pháp luật về đăng ký kinh doanh là hành động hợp pháp của các chủ thể có năng lực pháp lý trong lĩnh vực này Hành vi này có thể bao gồm cả hành động tích cực và những hành động không thực hiện, nhằm đảm bảo việc tuân thủ quy định pháp luật trong quá trình đăng ký kinh doanh.
Hoạt động thực thi pháp luật đăng ký kinh doanh ở một số nước trên thế giới và
Những kinh nghiệm cho Việt Nam đối với việc thực thi pháp luật về đăng ký kinh doanh
Các nền kinh tế có môi trường kinh doanh tốt thường kết hợp quy trình hiệu quả với hệ thống pháp lý vững mạnh để bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư Các quốc gia OECD thu nhập cao có hệ thống quản lý thân thiện nhất Trong khi đó, các khu vực Đông Á, châu Á Thái Bình Dương, Trung Đông và Bắc Mỹ có quy trình pháp lý hiệu quả nhưng thiếu nền tảng pháp lý cho quản lý doanh nghiệp Nhiều chính phủ đã áp dụng các quy định tiến bộ để cải thiện môi trường kinh doanh Đa số các quốc gia cần tổ chức một hệ thống cơ quan ĐKKD thống nhất, hoặc một cơ quan duy nhất chuyên trách cho lĩnh vực này Đặc biệt ở các nước có cấu trúc nhà nước đơn nhất, việc thành lập một cơ quan ĐKKD mạnh mẽ ở Trung ương là cần thiết để quản lý và xử lý nghiệp vụ quốc gia Hệ thống này nên thuộc bộ máy hành chính nhà nước, hoạt động chủ yếu bằng ngân sách nhà nước, đây là bài học quý cho Việt Nam.
Nhiều quốc gia đang nỗ lực tạo điều kiện gia nhập thị trường dễ dàng hơn bằng cách áp dụng quy trình đăng ký trực tuyến, bỏ quy định về vốn tối thiểu và xây dựng hệ thống đăng ký một cửa Những cải cách này giúp thu hút đầu tư và khuyến khích khởi nghiệp, đồng thời nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký quyền sở hữu, cần áp dụng Cơ sở dữ liệu điện tử, cung cấp thông tin trực tuyến và triển khai quy trình thủ tục một cách nhanh chóng.
Bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư là rất quan trọng, bao gồm việc cho phép hủy bỏ các giao dịch gây thiệt hại từ bên liên quan và quy định chấp thuận các giao dịch này Cần yêu cầu công khai chi tiết và đảm bảo nhà đầu tư có quyền tiếp cận tất cả thông tin của doanh nghiệp trong thời gian xét xử Ngoài ra, việc yêu cầu kiểm tra độc lập các giao dịch của bên liên quan và cho phép tiếp cận tất cả tài liệu của doanh nghiệp trước khi xét xử cũng rất cần thiết Cuối cùng, cần xác định rõ nghĩa vụ của giám đốc để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư một cách hiệu quả.
Tạo điều kiện nộp thuế dễ dàng: Cho phép tự đánh giá; Cho phép nộp hồ sơ và thanh toán trực tuyến; Xây dựng cơ sở một thuế/thuế
Để tạo điều kiện giao thương qua biên giới dễ dàng, cần cho phép nộp và xử lý hồ sơ điện tử, áp dụng các biện pháp thanh tra dựa trên đánh giá rủi ro và triển khai cơ chế một cửa.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc thực hiện hợp đồng, cần đưa ra tất cả phán quyết thương mại tại các tòa án xét xử công khai hiện có Đồng thời, duy trì các tòa án và thẩm phán chuyên về thương mại cũng như cho phép nộp khiếu nại điện tử.
Để cải thiện tình trạng không đòi được nợ, cần tạo điều kiện cho chủ nợ tham gia ý kiến trong quyết định xử lý, đồng thời ban hành quy định yêu cầu người quản lý nợ phải có bằng cấp chuyên ngành Cần xác định rõ thời gian cho các quy trình giải quyết nợ và xây dựng cơ sở pháp lý cho quy trình xử lý ngoài tòa án.
Việc tìm hiểu các vấn đề liên quan đến ĐKKD là rất quan trọng trong bối cảnh hiện nay, vì nó giúp hình thành kiến thức cơ bản về lĩnh vực này Điều này tạo điều kiện cho việc đánh giá thực trạng quản lý một cách chính xác và khách quan Hơn nữa, nó cũng là nền tảng để tiếp thu một cách chủ động và sáng tạo những thành tựu quản lý pháp luật về ĐKKD từ các quốc gia đã có kinh nghiệm phát triển lâu dài.
Việc xây dựng và thực thi pháp luật về đăng ký kinh doanh (ĐKKD) tại Việt Nam vẫn còn ở giai đoạn đầu Để rút ngắn khoảng cách phát triển, việc học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, nơi có quá trình điều chỉnh và thực thi pháp luật lâu dài, là cần thiết.
Qua việc nghiên cứu quy định pháp luật của một số quốc gia, Việt Nam có thể học hỏi nhiều kinh nghiệm quý báu Bằng cách tiếp cận đúng đắn, việc áp dụng những kiến thức này sẽ mang lại hiệu quả cao cho hệ thống pháp luật của nước ta.
THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Hệ thống pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam
2.1.1 Các quy định của pháp luật hiện hành về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam
Quy định pháp luật về ĐKKD hướng dẫn thủ tục đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác như cá nhân và hộ kinh doanh Các văn bản này liên quan đến mọi lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm đăng ký thành lập, tổ chức quản lý, nguyên tắc hoạt động, tổ chức lại, chuyển đổi, giải thể và phá sản Hiện nay, hệ thống văn bản về ĐKDN rất phong phú và đa dạng.
1 Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 gồm 10 Chương 213 Điều, được Quốc Hội thông qua và ban hành ngày 26/11/2014 Luật này quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp, bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân; quy định về nhóm công ty (Điều 1) Luật này thay thế Luật Doanh nghiệp 60/2005/QH11 được Quốc Hội thông qua và ban hành ngày 29/11/2005
2 Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp được Chính phủ ban hành ngày 14/09/2015 Nghị định này quy định chi tiết về hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp; đăng ký hộ kinh doanh; quy định về cơ quan đăng ký kinh doanh và quản lý nhà nước về đăng ký doanh nghiệp Nghị định này thay thế Nghị định số 43/2010/NĐ–CP về đăng ký doanh nghiệp được Chính phủ ban hành ngày 15/04/2010
3 Nghị định 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 hướng dẫn Luật Doanh nghiệp Nghị định này quy định chi tiết Điều 10, Điều 44, Điều 189 và Điều 208 của Luật Doanh nghiệp Nghị định này thay thế Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính Phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật
Doanh nghiệp liên quan đến thành lập, tổ chức quản lý, hoạt động, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp [9];
4 Nghị định 05/2013/NĐ-CP sửa đổi quy định về TTHC của Nghị định 43/2010/NĐ-CP về ĐKDN được Chính phủ thông qua ngày 09/01/2013 [10]
5 Nghị định số 155/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực KH&ĐT [11] Nghị định này quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KH&ĐT
6 Nghị định 116/2008/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 14/11/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ KH&ĐT [12]
7 Nghị quyết 59/NQ-CP năm 2015 triển khai thi hành Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư do Chính phủ ban hành và có hiệu lực từ ngày 07/08/2015 [13];
8 Quyết định 10/2007/QĐ-TTg ban hành hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 23/01/2007 và có hiệu lực kể từ ngày 26/02/2007 [32];
9 Quyết định 337/QĐ-BKH năm 2007 quy định nội dung hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam do Bộ trưởng Bộ KH&ĐT ban hành và có hiệu lực ngày 10/04/2007 [4];
10 Quyết định số 1659/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Cục Quản lý ĐKKD trực thuộc Bộ KH&ĐT [34];
11 Quyết định số 1908/QĐ-BKH ngày 8/11/2010 về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Cục Phát triển doanh nghiệp;
12 Thông tư 01/2013/TT-BKHĐT hướng dẫn về ĐKDN do Bộ KH&ĐT ban hành [5] Thông tư này hướng dẫn chi tiết về:
Để đăng ký thành lập và thay đổi nội dung đã đăng ký cho công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân, cần thực hiện các bước hồ sơ, trình tự và thủ tục cụ thể Việc tuân thủ đúng quy định sẽ giúp doanh nghiệp hoạt động hợp pháp và hiệu quả.
Để đăng ký thành lập hoặc thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh, doanh nghiệp cần thực hiện hồ sơ và trình tự thủ tục theo quy định Việc này bao gồm việc chuẩn bị các tài liệu cần thiết, nộp hồ sơ tại cơ quan chức năng và theo dõi tiến trình xử lý để đảm bảo hoạt động kinh doanh diễn ra hợp pháp và hiệu quả.
Hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng ký thành lập và đăng ký thay đổi nội dung đăng ký đối với hộ kinh doanh
Để tiến hành giải thể công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh, cần thực hiện hồ sơ và trình tự thủ tục theo quy định Quá trình này bao gồm việc chấm dứt hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh Việc tuân thủ đúng quy trình sẽ đảm bảo giải thể diễn ra hợp pháp và hiệu quả.
13 Công văn 4211/BKHĐT-ĐKKD năm 2015 hướng dẫn áp dụng quy định về ĐKDN do Bộ KH&ĐT ban hành và có hiệu lực ngày 26/06/2015 [6]
Các quy định pháp luật hiện hành về ĐKDN tại Việt Nam đã trở nên hoàn chỉnh và đồng bộ, đồng thời chất lượng của hệ thống văn bản pháp lý cũng được cải thiện Điều này giúp các quy định này tiếp cận với thông lệ quốc tế và đáp ứng dần yêu cầu hội nhập.
2.1.2 Nội dung cơ bản của pháp luật về đăng ký kinh doanh Việt Nam
2.1.2.1 Chủ thể quan hệ pháp luật đăng ký kinh doanh a Cơ quan QLNN về ĐKKD:
Cơ quan quản lý nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tham gia vào quan hệ pháp luật về đăng ký kinh doanh tại Việt Nam, với nhiệm vụ đại diện cho quyền lực nhà nước nhằm quản lý và kiểm soát Hệ thống quản lý hoạt động đăng ký kinh doanh tại Việt Nam được tổ chức theo mô hình dọc thống nhất, từ cấp trung ương đến địa phương.
Tại Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) được giao thẩm quyền quản lý Đăng ký Kinh doanh (ĐKKD), bao gồm Cục Quản lý ĐKKD và Cục Phát triển doanh nghiệp, chịu trách nhiệm về chuyên môn trong lĩnh vực này.
Tại địa phương: Thẩm quyền QLNN về ĐKKD được giao cho UBND tỉnh,
TP trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm về chuyên môn thông qua các Sở Khoa học và Đầu tư, cụ thể là phòng Đăng ký Kinh doanh Quy định này đã được duy trì ổn định qua các giai đoạn phát triển của pháp luật liên quan đến quản lý hoạt động đăng ký kinh doanh.
Chủ thể đăng ký doanh nghiệp tại Việt Nam có thể là cá nhân hoặc tổ chức, tuy nhiên, pháp luật hiện hành đặt ra một số hạn chế đối với một số chủ thể đặc biệt Cụ thể, những tổ chức và cá nhân sau đây không được phép thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam.
Cơ quan nhà nước và đơn vị vũ trang nhân dân có thể sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp nhằm tạo ra lợi nhuận cho chính cơ quan và đơn vị của mình.
Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức;
Giới thiệu cơ quan thực thi pháp luật đăng ký kinh doanh tại TP Hà Nội
Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội là cơ quan thực thi pháp luật về đăng ký kinh doanh tại Hà Nội, thuộc UBND thành phố Cơ quan này có tư cách pháp nhân, con dấu riêng và tài khoản ngân hàng theo quy định pháp luật Sở chịu sự quản lý về tổ chức và biên chế từ UBND, đồng thời được hướng dẫn chuyên môn bởi Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trụ sở chính của Sở Kế hoạch và Đầu tư hiện đang hoạt động tại Hà Nội.
TP Hà Nội tại số 16 Cát Linh, Quận Đống Đa
Sự ra đời của Ủy ban Kế hoạch Quốc gia, tiền thân của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư), đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong công tác quy hoạch và phát triển kinh tế tại thành phố Hà Nội.
Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội được thành lập vào ngày 8/10/1955, ban đầu mang tên Ủy ban Kế hoạch Đến đầu năm 1958, cơ quan này được đổi tên thành Ủy ban Kế hoạch TP Hà Nội Vào ngày 23/8/1996, UBND TP Hà Nội ban hành Quyết định số 2743/QĐ-UB, thành lập Sở KH&ĐT TP Hà Nội trên cơ sở tổ chức lại Ủy ban Kế hoạch cũ và tiếp nhận nhiệm vụ đầu tư, hợp tác viện trợ kinh tế từ Sở Kinh tế Đối ngoại Ngày 18/01/2005, UBND TP Hà Nội tiếp tục ban hành Quyết định số 05/2005/QĐ-UB, quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Sở KH&ĐT TP Hà Nội, sau khi điều chỉnh địa giới hành chính của thành phố.
Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội được thành lập từ việc hợp nhất Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Tây và Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội cũ, theo Quyết định số 38/QĐ-UBND.
02/8/2008 của UBND TP Hà Nội [38]
Cơ quan ĐKKD thuộc Sở KH&ĐT Hà Nội được chia thành 03 phòng dựa trên địa bàn quản lý, nhưng việc bố trí tại 03 địa điểm khác nhau đã gây khó khăn cho người dân trong việc thực hiện thủ tục và xử lý hồ sơ Để khắc phục tình trạng này, Sở đã thực hiện mô hình một cửa liên thông, cải cách mạnh mẽ TTHC bằng cách tập trung tất cả các bộ phận và địa điểm ĐKKD về một trụ sở duy nhất Từ tháng 7/2011, các Phòng ĐKKD, Bộ phận một cửa Văn phòng Sở và Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp đã được sắp xếp làm việc tại Tầng 3 Tòa nhà B10A Khu đô thị Nam Trung Yên (Quận Cầu Giấy) Việc này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản lý mà còn mang lại nhiều lợi ích cho người dân.
Hiện trạng nhân sự tại các phòng ĐKKD thuộc Sở KH&ĐT Hà Nội cho thấy Phòng ĐKKD số 01 có tổng cộng 15 cán bộ, bao gồm 11 công chức và 4 lao động hợp đồng Tương tự, Phòng ĐKKD số 02 cũng có tổng số 15 cán bộ, trong đó có 12 công chức.
Tính đến tháng 9 năm 2013, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội có tổng cộng 280 cán bộ, trong đó có 12 công chức, viên chức và 1 lao động hợp đồng Ban Giám đốc Sở nhiệm kỳ 2011-2015 bao gồm Giám đốc Sở và 5 Phó giám đốc, cùng với 17 đơn vị thuộc Sở, gồm 15 phòng và 2 đơn vị sự nghiệp.
Nội dung, thực trạng thực thi pháp luật về đăng ký kinh doanh trên địa bàn TP Hà Nội
2.3.1 Xây dựng kế hoạch về đăng ký kinh doanh Đối với Sở KH&ĐT TP Hà Nội mục tiêu thực thi pháp luật về ĐKKD là hướng tới tăng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (Provincial Competitiveness Index - PCI) (trong đó có các chỉ số chi phí gia nhập thị trường; chỉ số dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp; chỉ số tính minh bạch và tiếp cận thông tin; chỉ số chi phí không chính thức)
Nhận thức rõ về các quan điểm cải cách đăng ký doanh nghiệp quốc gia và dự báo tình hình biến động trong ĐKDN của Thành phố, Ban giám đốc Sở KH&ĐT TP Hà Nội đã chủ động xây dựng chính sách, quy định và thực hiện các biện pháp nhằm chỉ đạo công tác thi hành pháp luật về ĐKDN Các hoạt động của Sở KH&ĐT Hà Nội bao gồm việc xây dựng kế hoạch chi tiết về đăng ký kinh doanh.
2.3.1.1 Tuyên truyền, phổ biến, quán triệt nội dung, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác ĐKKD nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tạo sự thống nhất ý chí và hành động của từng cán bộ, công chức
Việc tuyên truyền đã được triển khai thành một hoạt động thường xuyên của
Sở KH&ĐT Hà Nội Nội dung tuyên truyền gồm có:
- Tuyên truyền về pháp luật doanh nghiệp (trong đó có pháp luật về ĐKKD) đối với các doanh nghiệp, các chủ thể có nhu cầu ĐKKD;
- Tuyên truyền về quy trình thủ tục của Phòng ĐKKD;
- Tuyên truyền về các lĩnh vực có liên quan
2.3.1.2 Rà soát, ban hành các văn bản chỉ đạo, điều hành đưa văn bản pháp luật vào thực tiễn
Trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp các văn bản quy phạm pháp luật Sở KH&ĐT
Hà Nội đã xây dựng các văn bản hướng dẫn theo nguyên tắc triệt để tôn trọng tính thượng tôn của pháp luật
Các văn bản về ĐKKD trên địa bàn TP Hà Nội đã được ban hành bao gồm:
Các quy định về quản lý hoạt động ĐKKD của Sở:
Quy chế tổ chức và hoạt động của bộ phận tiếp nhận và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) của Sở được ban hành lần đầu theo Quyết định số 66/QĐ-KH&ĐT vào ngày 26 tháng 3 năm 2007, và đã được sửa đổi, bổ sung vào tháng 10 năm 2009.
Quy định về xử lý vi phạm trong giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) của Sở được ban hành lần đầu theo Quyết định số 263/QĐ-KH&ĐT vào ngày 24/10/2006 và đã được sửa đổi, bổ sung vào tháng 9/2010.
- Quy định về công tác lưu trữ Sở ban hành theo Quyết định số 275/QĐ-
- Quy định về phân công thực hiện công tác ĐKKD của Sở ban hành theo Quyết định số 150/QĐ-KH&ĐT ngày 06/10/2008 [20];
- Quy chế phối hợp thực hiện công tác ĐKKD trong nội bộ Sở ban hành theo Quyết định số 144/QĐ-KH&ĐT ngày 29/05/2014 [21];
Quyết định số 84/2009/QĐ-UBND ngày 01/07/2009 của UBND TP Hà Nội quy định về việc thực hiện cơ chế một cửa liên thông, nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết công việc cho tổ chức và cá nhân tại các cơ quan quản lý hành chính nhà nước thuộc thành phố.
Quyết định số 100/2009/QĐ-UBND, được ban hành vào ngày 11/09/2009 bởi UBND TP Hà Nội, quy định về quản lý doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và hộ kinh doanh trên địa bàn thành phố.
Các quy trình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO về ĐKDN
- Sổ tay quản lý chất lượng của Sở, ban hành năm 2010 [23];
- Quy trình tiếp nhận và giải quyết TTHC về ĐKDN (ban hành vào năm 2006 và sửa đổi lần 1 vào tháng 4/2007 và sửa đổi lần thứ 2 vào tháng 8/2013) [24];
Quy trình tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) về cung cấp thông tin đăng ký doanh nghiệp (ĐKDN) được ban hành vào tháng 8 năm 2013, bao gồm ba phần chính cho ba trường hợp ĐKDN khác nhau Quy trình này áp dụng cho hồ sơ thành lập mới doanh nghiệp hoặc các trường hợp phát sinh mã số doanh nghiệp mới, hồ sơ thay đổi nội dung ĐKDN mà không dẫn đến thay đổi mã số doanh nghiệp, và giải quyết hồ sơ ĐKDN cho các trường hợp khác.
Quy trình xử lý các hành vi vi phạm hành chính liên quan đến Đăng ký Doanh nghiệp được quy định trong Luật Doanh nghiệp, ban hành năm 2007 và sửa đổi lần đầu vào tháng 4 năm 2010 Các doanh nghiệp hoạt động theo luật này cần tuân thủ các quy định để tránh các hình thức xử lý vi phạm.
- Quy trình tiếp nhận và giải quyết khiếu nại tố cáo của Sở, ban hành vào tháng 8/2013 [25]
Các quy định về cơ cấu, tổ chức bộ máy quản lý ĐKDN:
- Quy định chức năng nhiệm vụ của các đơn vị thuộc Sở ban hành theo Quyết định số 125/QĐ-KH&ĐT ngày 24/04/2014 [27];
- Quy chế làm việc của Sở [29], ban hành theo Quyết định số 271/QĐ-
- Quy chế văn hóa công sở của Sở, ban hành theo Quyết định số 272/QĐ- KH&ĐT ngày 29/5/2009 [30];
Các quy chế hoạt động của các đơn vị thuộc Sở bao gồm: Quy chế hoạt động của Phòng ĐKKD số 1, Phòng ĐKKD số 2, Phòng ĐKKD số 3, Văn Phòng Sở, Thanh tra Sở và Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp Những quy chế này quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và quy trình làm việc của từng đơn vị, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hoạt động.
2.3.1.3 Chuẩn bị phương án nhân sự phục vụ cho công tác thực thi pháp luật về Đăng Ký Kinh Doanh
Hà Nội đã tiến hành thi tuyển để lựa chọn những ứng viên có trình độ chuyên môn cao, nhằm nâng cao hiệu quả công tác đăng ký doanh nghiệp (ĐKDN).
Phòng ĐKKD thuộc Sở KH&ĐT TP Hà Nội có chỉ tiêu biên chế được UBND Thành phố giao hàng năm Tính đến tháng 11 năm 2013, đội ngũ cán bộ của 3 Phòng ĐKKD gồm tổng cộng 44 cán bộ chuyên viên, trong đó có 22 nam và 22 nữ Cụ thể, Phòng ĐKKD số 1 có 15 cán bộ, Phòng ĐKKD số 2 có 16 cán bộ và Phòng ĐKKD số 3 có 13 cán bộ.
Phòng ĐKKD số 1 Phòng ĐKKD số 2 Phòng ĐKKD số 3
Trình độ sau đại học 14 4 8 2 Đảng viên 35 11 14 10
Nguồn: (Theo tài liệu của Sở KH&ĐT TP Hà Nội )
Bảng 2.1: Đội ngũ cán bộ chuyên viên ĐKKD của Sở KH&ĐT TP Hà Nội
Đội ngũ cán bộ ĐKKD của Sở có trình độ chuyên môn cao, bao gồm cử nhân các chuyên ngành Luật học và quản lý kinh tế, đáp ứng tốt nhiệm vụ ĐKDN Tất cả cán bộ đều có trình độ học vấn đại học và sau đại học, trong đó gần 30% là thạc sỹ Ngoài ra, 100% cán bộ có trình độ lý luận chính trị trung và cao cấp, đảm bảo chất lượng và hiệu quả trong công việc.
Đội ngũ cán bộ ĐKKD cần đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về năng lực chuyên môn, bao gồm kiến thức chuyên môn vững vàng (kiến thức chung, pháp luật, nghiệp vụ ĐKDN), kỹ năng thực hành chuyên môn (kỹ năng làm việc nhóm, giao tiếp, báo cáo, tổng hợp và tham mưu) và thái độ, đạo đức nghề nghiệp tích cực (thái độ cầu tiến, đạo đức nghề nghiệp và nhu cầu hoàn thiện bản thân).
Điểm mạnh nhất trong thực thi ĐKKD của Sở hiện nay là năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, góp phần quan trọng vào hiệu quả quản lý ĐKDN Đội ngũ này có phẩm chất đạo đức tốt, kỹ năng chuyên môn vững vàng và tinh thần trách nhiệm cao Tuy nhiên, vẫn còn một số cán bộ nhận thức chưa đầy đủ về công việc ĐKDN, trách nhiệm trong quản lý nhà nước chưa cao, và có tâm lý ngại va chạm với doanh nghiệp Bên cạnh đó, một số trường hợp giao tiếp và hướng dẫn chưa đúng mực đã gây bức xúc cho cá nhân, tổ chức.
Đánh giá việc thực thi pháp luật về đăng ký doanh nghiệp tại TP Hà Nội
Việc thực thi pháp luật về ĐKKD tại Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu tích cực, thể hiện nỗ lực của cả cộng đồng Dựa trên đánh giá ở mục 2.3, luận văn sẽ phân tích những ưu điểm và nhược điểm trong công tác thực thi pháp luật về ĐKKD, làm cơ sở cho việc xem xét, đánh giá và hoàn thiện trong chương 3.
TP Hà Nội đã ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực thi pháp luật ĐKKD, từ đó làm cho việc thực thi trở nên rõ ràng hơn và góp phần đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính tại địa bàn thành phố.
Công tác xử lý hồ sơ ĐKKD tại TP Hà Nội đã đạt được những kết quả tích cực, với việc thực thi pháp luật ngày càng quy củ hơn Số lần ra thông báo và hồ sơ bị chậm trả lời đã giảm, đồng thời tình trạng khiếu nại của công dân cũng giảm đáng kể, cho thấy sự cải thiện trong quy trình này.
Đội ngũ nhân sự của Sở KH&ĐT Hà Nội đã được hình thành với trình độ chuyên môn cao, tất cả cán bộ đều có bằng đại học và trên đại học, tạo thành nòng cốt cho việc thực thi pháp luật về ĐKKD Nhờ vào sự chú trọng trong công tác bồi dưỡng, trình độ, kiến thức và kinh nghiệm của đội ngũ này ngày càng được nâng cao, đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tiễn.
Thứ tư, đã tạo ra hệ thống công nghệ thông tin phần nào đáp ứng yêu cầu
Tại Hà Nội, các công việc thực thi pháp luật về ĐKKD được triển khai trên hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, với sự phối hợp giữa Sở KH&ĐT TP Hà Nội và Cục quản lý ĐKKD trong việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về ĐKDN Cơ sở dữ liệu này chứa toàn bộ thông tin pháp lý về doanh nghiệp trên toàn quốc, khẳng định vai trò tổng hợp thông tin về ĐKDN, phản ánh kịp thời tình trạng pháp lý của doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu thống kê của các cơ quan và phục vụ báo cáo kinh tế xã hội Sau 8 năm, TP Hà Nội đã đạt được mục tiêu của Chương trình cải cách ĐKKD quốc gia với việc tin học hóa toàn bộ quy trình nghiệp vụ ĐKKD.
Vào thứ năm tại TP Hà Nội, Sở KH&ĐT đã tạo ra cơ chế kiểm tra doanh nghiệp về ĐKKD, đánh dấu một nỗ lực lớn trong việc nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp Hành động này không chỉ mang ý nghĩa quan trọng trong việc thực thi quy định pháp luật mà còn góp phần cải thiện môi trường kinh doanh tại Hà Nội.
Thứ sáu, tạo ra cơ chế phối hợp trong quá trình thực thi pháp luật về ĐKKD
Cơ chế phối hợp liên thông giữa các cơ quan như thuế, ĐKKD, và công an ngày càng nhịp nhàng, giúp giản tiện thủ tục và rút ngắn thời gian xử lý hành chính Sở KH&ĐT TP Hà Nội chủ trì việc thực hiện quy chế phối hợp liên ngành trong cấp GCN ĐKDN, và điều này đã được doanh nghiệp đánh giá cao về tinh thần tích cực của cơ quan ĐKKD.
Thứ nhất, rườm rà trong thủ tục làm kéo dài thời gian xử lý
Thủ tục khởi sự kinh doanh tại Việt Nam, đặc biệt là ở TP Hà Nội, vẫn còn phức tạp và tốn kém về thời gian và chi phí so với các nước khác Theo Ngân hàng Thế giới, Việt Nam xếp hạng 109/189 quốc gia về thủ tục khởi nghiệp vào năm 2013 Báo cáo từ CIEM cho thấy, để khởi sự kinh doanh ở Việt Nam cần thực hiện 10 bước và mất khoảng 34 ngày, trong khi Malaysia chỉ cần 3 thủ tục trong 6 ngày, và Thái Lan hoàn thành trong 4 bước với thời gian hơn 27 ngày.
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, thủ tục xử lý hồ sơ ĐKDN là 05 ngày làm việc Tuy nhiên, Sở KH&ĐT Hà Nội đã nỗ lực rút ngắn thời gian này xuống còn 03 ngày theo quy định của Luật mới Mặc dù vậy, việc ra thông báo yêu cầu sửa đổi hồ sơ nhiều lần cho thấy nỗ lực này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, văn bản hướng dẫn chưa đáp ứng yêu cầu
Sở KH&ĐT TP Hà Nội đã quan tâm đến việc thành lập Ban chỉ đạo xây dựng quy trình ISO, nhưng hoạt động của Ban chỉ đạo này vẫn còn hạn chế Nội dung và quy chế hoạt động chưa được xây dựng đầy đủ và rõ ràng, không quy định được quy trình và trình tự công việc trong việc xây dựng kế hoạch Ngoài ra, chưa có chế tài và quy định trách nhiệm cho các đơn vị liên quan Việc sửa đổi và bổ sung “Quy trình tiếp nhận và giải quyết TTHC về ĐKDN” cũng chưa kịp thời, kéo dài thời gian, gây khó khăn cho công tác giám sát và đánh giá tình hình ĐKDN của Sở.
Việc xây dựng Quy chế hoạt động của các Phòng ĐKKD hiện chưa hợp lý, thiếu đầy đủ và thống nhất, dẫn đến tình trạng khác biệt trong thực thi pháp luật ĐKDN Chẳng hạn, cùng một ngành nghề, có phòng cấp GCN ĐKDN nhưng cũng có phòng không cấp, và tại cùng một địa chỉ doanh nghiệp, một số phòng cấp phép trong khi một số khác lại không Thực tế cho thấy, quy trình và quy định về ĐKDN của Sở KH&ĐT TP Hà Nội đang gặp nhiều khó khăn chủ yếu do cách hiểu khác nhau về quy định pháp luật giữa các phòng ĐKKD và chuyên viên xử lý hồ sơ Ngoài ra, cơ chế chính sách của Nhà nước và thành phố đối với việc thực thi pháp luật ĐKDN cũng chưa hoàn thiện và chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ ba, bất cập về nhân sự thực thi đăng ký kinh doanh và chủ thể đăng ký
Sự biến động pháp luật đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến khối lượng công việc của Sở KH&ĐT Hà Nội, khi hàng loạt viên chức hợp đồng bị cho nghỉ việc, dẫn đến tình trạng thiếu hụt nhân sự Hệ quả là nhiều chuyên viên phải làm thêm giờ với cường độ cao, thậm chí cả ngày nghỉ, nhằm đáp ứng yêu cầu công việc và giảm thiểu hồ sơ bị chậm Tuy nhiên, với khối lượng công việc lớn, không thể tránh khỏi sai sót trong xử lý hồ sơ Hơn nữa, việc làm thêm giờ mà không có chế độ thưởng hay ưu đãi hợp lý đã khiến nhiều cán bộ cảm thấy chán nản và mệt mỏi, ảnh hưởng đến hiệu quả thụ lý hồ sơ, làm gia tăng số lượng hồ sơ chậm và cần hiệu đính, từ đó giảm lòng tin của doanh nghiệp vào hệ thống pháp luật về ĐKKD.
Tình trạng cán bộ xử lý hồ sơ đăng ký doanh nghiệp thiếu trách nhiệm và nghiệp vụ không chỉ gây khó khăn cho nhà đầu tư trong việc đăng ký kinh doanh mà còn làm tăng thời gian và chi phí phát sinh Điều này dẫn đến sự giảm sút lòng tin của nhà đầu tư vào tính minh bạch của pháp luật, đồng thời cản trở tiến trình khởi nghiệp và ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội đầu tư cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trình độ và ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người dân và doanh nghiệp còn thấp, dẫn đến việc nhiều hồ sơ phải làm đi làm lại Một số hồ sơ được thực hiện cẩu thả, với tình trạng kê khai không trung thực về số vốn đăng ký và địa chỉ trụ sở, thậm chí có trường hợp giả mạo chữ ký để chiếm đoạt vốn Điều này gây khó khăn cho hoạt động thực thi pháp luật ĐKKD, khiến cán bộ phải tốn nhiều thời gian để tìm hiểu và giải quyết các vụ việc liên quan, bao gồm việc mời doanh nghiệp họp, yêu cầu báo cáo và gửi hồ sơ sang Công an để giám định chữ ký giả mạo.
Thứ tư, hệ thống mạng công nghệ thông tin chưa hoàn thiện
Hệ thống thông tin ĐKKD quốc gia đã thực hiện đăng ký doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp, nhưng còn nhiều thiếu sót do dữ liệu được các địa phương quản lý độc lập và theo tiêu chí khác nhau Dữ liệu doanh nghiệp chưa được công khai và thiếu sự giám sát, dẫn đến việc thông tin không được cập nhật thường xuyên Hơn nữa, sự không đồng bộ giữa cơ quan ĐKKD và cơ quan thuế đã gây ra tình trạng trùng lặp và lệch thông tin khi chuyển đổi sang Cơ sở dữ liệu quốc gia Kết quả là tỷ lệ thông tin doanh nghiệp cần rà soát và hiệu đính vẫn còn lớn so với tổng số dữ liệu hiện có.