Tổng quan về ngân hàng thơng mại cổ phần ngoại thơng Nghệ An
Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Nghệ An
Ngay từ khi thành lập, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đối mặt với thách thức quản lý ngoại hối, điều này có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh quốc gia Nhằm thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, Chính phủ Việt Nam đã quyết định thành lập Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, khởi nguồn từ Sở quản lý ngoại hối.
1.1.1.Sự ra đời Ngân hàng Ngoại thương- Vietcombank
Sau 300 ngày kể từ tháng 5/1955, miền Bắc hoàn toàn giải phóng và miền Nam bước vào giai đoạn mới, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế Sự hòa bình này không chỉ hỗ trợ miền Bắc mà còn thúc đẩy kinh tế miền Nam, đặt ra nhiều yêu cầu mới trong lĩnh vực ngoại thương, bao gồm việc buôn bán giữa các nước trong khu vực XHCN và các quốc gia bên ngoài Để đáp ứng những yêu cầu này, Sở quản lý ngoại hối - tiền thân của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, đã được thành lập theo nghị định 443/TTG của Thủ tướng Chính phủ vào ngày 20/1/1955, với 4 nhiệm vụ chính được quy định trong nghị định.
Quản lý và kinh doanh ngoại hối, không để tiền vốn của quốc gia chạy ra nước ngoài
Quản lý việc mua bán ngoại hối dưới mọi hình thức (trao đổi tiền mặt, chuyển ngân…)
Kiểm soát mọi việc kinh doanh và chuyển vận vàng bạc
Nghiên cứu các vấn đề hối đoái với nước ngoài, đề nghị những thể lệ về ngoại hối
Từ thập kỷ 60 trở đi, lĩnh vực ngoại thương đã cần những thay đổi và chuyên môn hóa trong tổ chức để đáp ứng tình hình mới.
Năm 1960, Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ với 141 ngân hàng tại 34 quốc gia Tuy nhiên, việc kết hợp cả hai chức năng quản lý và kinh doanh ngoại tệ trong cùng một mối quan hệ đã gây khó khăn trong việc giải quyết các mối quan hệ ngày càng đa dạng và phức tạp.
Trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, việc tách bạch giữa chức năng quản lý tiền tệ và hoạt động kinh doanh ngân hàng là rất cần thiết Điều này dẫn đến sự ra đời của các chi nhánh NHNN tại các tỉnh và hai thành phố lớn là Hà Nội và Hải Phòng, nhằm thực hiện vai trò quản lý Nhà nước về tiền tệ và tín dụng Tiếp theo, hệ thống các chi nhánh ngân hàng nghiệp vụ tại thị xã và các chi nhánh cấp 2 tại cấp huyện cũng được hình thành, phục vụ trực tiếp nhu cầu của khách hàng.
Bộ máy NHNN trung ương cần thiết lập một ngân hàng chuyên nghiệp về ngoại hối, với vị trí pháp lý và chức danh giao dịch tại thị trường Việt Nam và quốc tế, nhằm thay thế NHNN Việt Nam trong vai trò quản lý vĩ mô về ngoại hối Đây không chỉ là vấn đề riêng của Việt Nam mà còn phản ánh xu hướng chung của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa thời kỳ đó.
Vào ngày 1-4-1963, sau thời gian chuẩn bị cần thiết, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chính thức ra mắt, trở thành một pháp nhân ngân hàng thương mại hoạt động trên thị trường nội địa và quốc tế Từ đó, thương hiệu Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, với tên gọi tiếng Anh là Bank for Foreign Trade of Vietnam và viết tắt là Vietcombank, đã chính thức ra đời.
Hoạt động kinh doanh của Vietcombank chủ yếu trên 5 nội dung chính:
Quản lý và điều hành tác nghiệp quỹ ngoại tệ của Nhà nước
Việt Nam thống nhất, với sự quản lý của chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã tiến hành hợp nhất ngành ngân hàng Bắc Nam, dẫn đến sự hình thành hệ thống ngân hàng toàn quốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đóng vai trò trung ương tại Hà Nội, cùng với các chi nhánh ngân hàng tại các tỉnh, thành phố, quận, huyện, thị xã Sự phát triển này không chỉ nâng cao vị trí quốc tế của Việt Nam mà còn mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại Vietcombank, dưới sự quản lý của Cục Quản lý Ngoại hối thuộc NHNN, đóng vai trò quan trọng trong việc phục vụ kinh tế đối ngoại và cần xây dựng một hệ thống tổ chức từ cơ sở đến trung ương để đáp ứng yêu cầu mới.
1.1.2.Sự ra đời ngân hàng ngoại thương Nghệ An
Sau khi đất nước thống nhất, đến cuối những năm 80, Vietcombank đã thiết lập một hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp đối ngoại thống nhất trên toàn quốc, với hội sở trung ương tại Hà Nội và 11 chi nhánh chủ yếu Ngân hàng ngoại thương Nghệ An, thành lập theo quyết định số 15/NH-QĐ ngày 01/7/1989, là chi nhánh cấp 1 trực thuộc Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, có trụ sở chính tại 9 Nguyễn Sỹ Sách, TP Vinh, Nghệ An Chi nhánh này thực hiện các chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng theo luật các TCTD, Điều lệ NHNT VN, cùng các quy định pháp luật liên quan NHNT Nghệ An hoạt động với con dấu riêng, được mở tài khoản tại NHNN và các tổ chức tín dụng theo quy định, đồng thời thực hiện chế độ hạch toán kinh tế nội bộ theo quy định của pháp luật.
NHNN và NHNT VN có quyền thành lập một số đơn vị trực thuộc, các đơn vị này được cấp con dấu để thực hiện các hoạt động kinh doanh theo quy định của NHNT VN.
Cơ cấu tổ chức ngân hàng ngoại thương Nghệ An
BAN GIÁM ĐỐC P.NGÂN QUỸ
TỔ KIỂM TRA NỘI BỘ
BP.KẾ TOÁN TỔNG HỢP
BP.THANH TOÁN XNK&BL
BP.QUẢN LÝ NỢ BP.TIN HỌC
BP.THÔNG TIN KHÁCH HÀNG
BP.DỊCH VỤ KHÁCH HÀNG
BP.CHO VAY THỂ NHÂN
BP.TỔ CHỨC CÁN BỘ
BP.HÀNH CHÍNH-QUẢN TRỊ
Mối quan hệ giữa các bộ phận
Các bộ phận và phòng ban tại chi nhánh NHNT Nghệ An hoạt động liên kết chặt chẽ với nhau Ban giám đốc giữ vai trò quyết định tối cao về định hướng phát triển, đồng thời trực tiếp quản lý và giám sát nhằm đảm bảo chi nhánh đạt được những thành công trong quá trình hoạt động và phát triển.
Phòng quản lý rủi ro, phòng hành chính nhân sự và tổ kiểm tra nội bộ đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động liên tục, thông suốt và an toàn cho chi nhánh Các phòng ban này chịu trách nhiệm duy trì cơ sở hạ tầng và kỹ thuật, giúp quá trình kinh doanh diễn ra mà không gặp trở ngại Tổ kiểm tra nội bộ thực hiện thanh tra, kiểm tra để đảm bảo mọi hoạt động tuân thủ quy định ngành, luật pháp và giới hạn cho phép Phòng rủi ro nghiên cứu và lường trước các rủi ro tiềm ẩn để có biện pháp phòng ngừa hiệu quả Tất cả các phòng ban đều có quyền đưa ra ý kiến đóng góp cho giám đốc nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của chi nhánh.
Phòng tổng hợp đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ Ban Giám đốc ngân hàng, mặc dù không trực tiếp tham gia vào hoạt động kinh doanh Phòng này thực hiện nghiên cứu, lập kế hoạch kinh doanh và phân tích kinh tế để cung cấp thông tin chi tiết và cụ thể về các vấn đề liên quan đến hoạt động của chi nhánh, từ đó giúp Ban Giám đốc đưa ra quyết định hiệu quả trong việc điều hành hoạt động kinh doanh.
Phòng quan hệ khách hàng, phòng kế toán thanh toán và phòng kinh doanh dịch vụ là những bộ phận chủ chốt trong việc giao tiếp với khách hàng và tạo ra thu nhập cho chi nhánh thông qua các hoạt động huy động, cho vay, mua bán ngoại tệ và cung cấp dịch vụ ngân hàng Hoạt động của các phòng ban này được giám sát chặt chẽ bởi Ban Giám đốc thông qua Tổ kiểm tra nội bộ và phòng quản lý rủi ro Dữ liệu giao dịch sẽ được gửi về phòng tổng hợp để lập báo cáo tổng hợp, giúp Ban Giám đốc quản lý hiệu quả và có biện pháp điều hành kịp thời.
Phòng ngân quỹ có trách nhiệm quản lý thu chi bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ, cũng như các giấy tờ có giá trị, theo đúng quy định của Nhà nước và chỉ đạo của Ban giám đốc.
Các bộ phận của chi nhánh NHNT Nghệ An có mối quan hệ tương hỗ trong hoạt động và phân phối thu nhập Sự phát triển của một bộ phận không chỉ nâng cao thu nhập của chính họ mà còn tạo điều kiện cho các bộ phận khác hoạt động hiệu quả hơn Điều này góp phần vào sự phát triển bền vững và tăng doanh thu cho toàn chi nhánh.
Thực trạng và giải pháp chất lợng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở ngân hàng thơng mại cổ phần ngoại thơng Nghệ An
Thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Nghệ An
ở ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Nghệ An
2.1.1 Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngoại thương Nghệ An trong những năm vừa qua
2.1.1.1 Tình hình hoạt động huy động vốn của Ngân hàng
Biểu 1: Tình hình nguồn vốn huy động tại CN NHNT Nghệ An. Đơn vị: Tỷ đồng.
Tiêu chí Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
II Phân theo kỳ hạn
1 Tiền gửi có kỳ hạn 2338 85
2 Tiền gửi không kỳ hạn 423 15
III Tổng nguồn vốn huy động 2761 4546.8 3263
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động của CN CNNT Nghệ An 2008-2010 ( Số liệu tính đến ngày 31/12/2010)
Theo số liệu từ biểu 1, tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng đã có nhiều biến động qua các năm Cụ thể, năm 2009, tổng nguồn vốn huy động tăng 1.785,8 tỷ đồng so với năm 2008, tương ứng với tốc độ tăng trưởng 65% Tuy nhiên, đến năm 2010, nguồn vốn huy động lại giảm mạnh 28%, tương đương với mức giảm 1.283,8 tỷ đồng, từ 4.546,8 tỷ xuống còn 3.263 tỷ đồng.
Tỷ trọng các nguồn vốn huy động đã có sự thay đổi đáng kể, với tiền gửi của dân cư liên tục tăng và chiếm tỷ trọng cao hơn trong cơ cấu nguồn vốn Mặc dù tiền gửi có kỳ hạn trong năm 2010 giảm 38% so với năm 2009, xuống còn 1419.1 tỷ, loại tiền gửi này vẫn giữ vai trò quan trọng trong tổng nguồn vốn huy động Điều này thể hiện ưu điểm của ngân hàng trong việc huy động vốn, vì tiền gửi có kỳ hạn rất ổn định, là nguồn tài trợ chính cho nhu cầu vay vốn trung và dài hạn.
Năm 2009, tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng tăng mạnh nhờ vào các giải pháp thúc đẩy như chính sách lãi suất linh hoạt và đa dạng hóa hình thức huy động Mặc dù đến năm 2010, chỉ tiêu này có giảm, nhưng không thể coi đây là dấu hiệu yếu kém của ngân hàng Các doanh nghiệp lớn đã chuyển hướng đầu tư vào lĩnh vực tài chính, ngân hàng và chứng khoán, trong khi người dân do lạm phát đã mạnh tay đầu tư vào bất động sản Bên cạnh đó, sự cạnh tranh lãi suất và mở rộng mạng lưới hoạt động của các ngân hàng thương mại đã giúp chi nhánh Nghệ An duy trì nguồn vốn bình quân ổn định trên 3.500 tỷ đồng, thể hiện nỗ lực lớn của chi nhánh.
Chi nhánh không chỉ tập trung vào việc nghiên cứu và phát triển các sản phẩm tiền gửi đa dạng để thu hút nguồn vốn từ các tổ chức, mà còn chú trọng đến việc tăng cường huy động vốn từ dân cư.
2.1.1.2 Tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng.
Biểu 2: Dư nợ cho vay Đơn vị: Tỷ đồng
2 Cho vay trung dài hạn 900 82% 850 79% -50 -6% 690 63% -160 -19%
II Phân theo tp kinh tế
II Tổng dư nợ cho vay 1100 1070 -30 2.7% 1100 30 2.8%
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động của NHNT Nghệ An năm 2008-2010 ( Số liệu tính đến ngày 31/12/2010)
Trong giai đoạn 2008-2010, tình hình hoạt động cho vay của Chi nhánh khá ổn định Tuy năm 2009 tổng dư nợ cho vay có giảm nhẹ so với 2008, giảm
30 tỷ, với tốc độ 2.7% Nhưng đến năm 2010 tổng dư nợ cho vay lại tăng lên và duy trì ở mức 1100 tỷ đồng.
Cơ cấu dư nợ đã có sự chuyển biến tích cực, với tỷ trọng cho vay ngắn hạn tăng từ 18% vào năm 2005 lên 37% vào năm 2008 Đồng thời, tỷ trọng cho vay khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) cũng giảm từ 80% xuống còn 73%.
Chất lượng tín dụng đã được cải thiện đáng kể nhờ vào quy trình thẩm định và giám sát chặt chẽ Tỷ lệ nợ quá hạn giảm liên tục qua các năm, đạt mức chỉ 0,91% vào năm 2010 Tuy nhiên, nợ tồn đọng từ nhiều năm trước vẫn khó giải quyết, mặc dù các đơn vị đã cam kết trả nợ nhưng không thực hiện.
CN NHNT Nghệ An đã thực hiện hiệu quả nhiều hoạt động như thanh toán, xuất nhập khẩu, dịch vụ và quản lý tiền tệ kho quỹ.
Hoạt động thanh toán đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối các chi nhánh của ngân hàng ngoại thương cũng như các ngân hàng khác trong hệ thống Các dịch vụ liên quan đến thẻ và séc đã được triển khai hiệu quả, ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ qua các năm.
- Hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra khá thuận lợi với doanh số tăng đều qua các năm
Chi nhánh không ngừng cải thiện chất lượng sản phẩm dịch vụ hiện có và tích cực nghiên cứu, triển khai các sản phẩm dịch vụ mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng Các dịch vụ mới bao gồm Internet Banking, dịch vụ thuê két sắt, và lắp đặt thêm nhiều máy ATM tại các khu vực đông dân cư.
Hoạt động tiền tệ kho quỹ được chú trọng để đảm bảo an toàn và tối ưu hóa nguồn tiền gửi trong tài khoản thanh toán của khách hàng.
Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Chi nhánh trong thời gian qua không khả quan, với lợi nhuận kinh doanh năm nay giảm sút.
Năm 2009, lợi nhuận của chi nhánh giảm từ 68 tỷ xuống còn 61 tỷ, chủ yếu do nguồn vốn huy động tăng đột biến trong khi dư nợ và doanh số cho vay lại giảm, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp và thu nhập từ hoạt động cho vay không cao Đây là nguồn thu nhập chính của ngân hàng, ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận toàn chi nhánh Tuy nhiên, đến năm 2010, nhờ vào chính sách kinh doanh hợp lý, lợi nhuận đã dần phục hồi, đạt mức 65 tỷ đồng.
2.1.2 Thực trạng hiệu quả cho vay tại NHNT Nghệ An
2.1.2.1 Đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng đối với DNNVV
Ngân hàng hiện đang quản lý 7 chương trình tín dụng dành cho DNNVV, với điều kiện vay vốn có sự thay đổi tùy theo quy định của từng chương trình Tất cả các chương trình này đều có sự hỗ trợ từ Chính phủ hoặc các tổ chức tài chính, cung cấp ưu đãi về điều kiện vay, lãi suất và thời hạn vay vốn Đây là điểm khác biệt lớn nhất trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Nhà nước so với các ngân hàng thương mại khác.
Chương trình tín dụng Việt Đức (DEG) được khởi động từ năm 1993 với vốn tín dụng ban đầu là 37,5 triệu DM, trong đó có 24 triệu DM vay từ đối tác và 13,5 triệu DM vốn đối ứng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Sau 14 năm triển khai, chương trình đã hỗ trợ gần 7.000 dự án với tổng số tiền cho vay vượt 1.000 tỷ đồng Tính đến ngày 30/6/2009, dư nợ của chương trình đạt khoảng 325 tỷ đồng.
Chương trình JBIC của Nhật Bản cung cấp hạn mức cho vay 165 tỷ đồng với thời hạn 40 năm Đến ngày 30/6/2009, sau 4 năm thực hiện, đã có 161 dự án được giải ngân với tổng số tiền 487 tỷ đồng, trong đó dư nợ đạt 260 tỷ đồng, bao gồm 165 tỷ đồng từ nguồn vốn JBIC và phần còn lại là vốn đối ứng từ Ngân hàng Nhà nước Chương trình này được thiết kế đặc biệt để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) của ngân hàng.
- Chương trình SMEDF - EU với tổng nguồn vốn tài trợ 130 tỷ đồng, bắt đầu thực hiện từ tháng 12/2005 Đến 30/6/2010 đã giải ngân được 63 tỷ đồng.
Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Nghệ An
2.2.1 Định hướng cho vay DNNVV của chi nhánh NHNT NGHỆ AN
Đảng và Nhà nước ta luôn khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế theo hướng cạnh tranh bình đẳng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Số lượng doanh nghiệp mới, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), ngày càng tăng, đóng góp quan trọng vào tốc độ phát triển kinh tế và thu hút nhiều lao động Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của các DNNVV còn hạn chế, gặp nhiều khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm Kết quả khảo sát hơn 63.000 doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành miền Trung cho thấy vốn của các DNNVV còn rất thấp, chỉ khoảng 50%.
DN có vốn dưới 1 tỷ đồng, gần 75% DN có số vốn dưới 2 tỷ đồng và có tới 90%
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có vốn dưới 5 tỷ đồng, theo thông tin từ Cục phát triển đầu tư doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư Điều này dẫn đến nhu cầu lớn về vốn để mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới và nâng cấp trang thiết bị, công nghệ, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) gặp khó khăn trong việc huy động vốn trên thị trường do nguồn vốn ưu đãi từ các tài trợ nước ngoài hạn chế và năng lực của họ chưa đủ để tiếp cận thị trường chứng khoán Để mở rộng sản xuất và phát triển kinh doanh, DNNVV chủ yếu dựa vào nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng, nhưng việc tiếp cận nguồn vốn này cũng không hề dễ dàng.
Từ năm 2005, NHNT Việt Nam đã xác định DNNVV là khách hàng quan trọng và là thị trường tiềm năng Điều này được thể hiện qua các chương trình hành động trong kế hoạch phát triển hàng năm, cũng như kế hoạch 5 và 10 năm nhằm tài trợ cho DNNVV Mục tiêu đến năm 2015 là trở thành ngân hàng thương mại hàng đầu Việt Nam trong việc tài trợ cho DNNVV.
Dựa trên các quan điểm và chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, cùng với việc nhận thức rõ vai trò quan trọng của các doanh nghiệp này trong phát triển kinh tế và tín dụng, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nghệ An đã đề ra những chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận nguồn vốn vay phát triển trong thời gian tới.
- Ngân hàng xác định các DNNVV là các khách hàng tiềm năng với quy mô to lớn trong giai đoạn tới
Ngân hàng cần nâng cao cả số lượng và chất lượng cán bộ tín dụng bằng cách tuyển chọn những nhân viên có trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp Đồng thời, tổ chức các lớp tập huấn để cập nhật kiến thức mới, đặc biệt là các khóa bồi dưỡng về quản lý tài chính doanh nghiệp.
Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án, cần thành lập tổ thẩm định chuyên nghiệp, đặc biệt chú trọng vào việc thẩm định tài chính của doanh nghiệp Hiện nay, quy trình thẩm định tài chính còn khá sơ sài và thường mang tính hình thức, do đó cần cải thiện để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả trong đánh giá.
Triển khai đề án xếp hạng tín dụng và phân loại khách hàng là một quá trình kết hợp giữa khoa học và thực tiễn, nhằm xây dựng cơ sở quản lý rủi ro đồng nhất cho từng khách hàng.
- Tiếp tục chú trọng và đẩy mạnh công tác quản lý rủi ro tín dụng.
2.2.2 Các giải pháp phát triển tín dụng phát triển DNNVV tại chi nhánh NHNT NGHỆ AN
2.2.2.1 Hoàn thiện chính sách tín dụng.
Hoạt động cho vay là chức năng chính của ngân hàng thương mại (NHTM), do đó, cần có một chính sách tín dụng rõ ràng Chính sách tín dụng không chỉ phản ánh cương lĩnh tài trợ của ngân hàng mà còn là hướng dẫn cho cán bộ tín dụng và nhân viên, giúp tăng cường chuyên môn trong phân tích tín dụng Điều này tạo ra sự thống nhất trong hoạt động tín dụng, nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời cho ngân hàng.
Khi xây dựng chính sách tín dụng, cần chú ý đến hai yếu tố quan trọng: nhu cầu tín dụng đa dạng của từng loại khách hàng và khả năng sinh lời cũng như rủi ro tiềm ẩn của họ Chính sách tín dụng cần được thiết lập dựa trên dự đoán tương lai và phân tích diễn biến rủi ro tín dụng trong quá khứ của khách hàng.
Ngoài ra, quá trình xây dựng chính sách tín dụng cũng cần làm rõ những nội dung như:
Ngân hàng Nhà nước Nghệ An tập trung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong các lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ và nông nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
Các ngành công nghiệp sản xuất chế biến xuất khẩu, các ngành công thương nghiệp nhập khẩu tư liệu sản xuất và dược phẩm.
Các ngành công nghiệp năng lượng, điện lực, viễn thông…
Các ngành công nghiệp, dịch vụ ở khu vực đô thị mang tính chất độc quyền hoặc ít bị cạnh tranh.
Các ngành nông nghiệp có khả năng cạnh tranh như đánh bắt cá, nuôi trồng thủy sản
Hạn chế đầu tư vào bất động sản và các ngành hàng có xu hướng bão hòa, kém cạnh tranh nhằm tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh trong bối cảnh hội nhập kinh tế.
Chính sách tín dụng công bằng đảm bảo mọi khách hàng đều được đối xử bình đẳng, không phân biệt hình thức sở hữu Điều này giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, dễ dàng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng hơn.
Chi nhánh ngân hàng cần thực hiện một cuộc điều tra tổng thể để xác định các yếu tố cơ bản như giới hạn cho vay theo từng ngành nghề, quy mô và địa bàn đầu tư, cũng như danh mục đầu tư Việc này sẽ giúp định hướng hoạt động kinh doanh và giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
Trong quá trình cấp tín dụng, ngân hàng cần tuân thủ các điều kiện theo quy định hiện hành, đồng thời nâng cao tiêu chuẩn chất lượng tín dụng.