1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

SỰ VẬN ĐỘNG CỦA TIỂU THUYẾT VÀ TRƯỜNG CA TRONG VĂN HỌC QUỐC NGỮ VIỆT NAM ĐỀ TÀI SO SÁNH SỰ VẬN ĐỘNG CỦA HAI TÁC PHẨM TIỂU THUYẾT VÀ TRƯỜNG CA

47 67 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Sự Vận Động Của Tiểu Thuyết Và Trường Ca Trong Văn Học Quốc Ngữ Việt Nam Đề Tài So Sánh Sự Vận Động Của Hai Tác Phẩm Tiểu Thuyết Và Trường Ca
Tác giả Nhóm 6
Người hướng dẫn PGS. TS. GVCC. Nguyễn Thành Thi
Trường học Trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Ngữ Văn
Thể loại đề tài
Năm xuất bản 2020
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 47
Dung lượng 81,36 KB

Cấu trúc

  • PHẦN 1: SO SÁNH SỰ VẬN ĐỘNG CỦA HAI TÁC PHẨM TIỂU THUYẾT “DẤU CHÂN NGƯỜI LÍNH” CỦA NGUYỄN MINH CHÂU VÀ “NỖI BUỒN CHIẾN TRANH” CỦA BẢO NINH

    • 1.1. Những vấn đề chung về thể loại tiểu thuyết

      • 1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết

      • 1.1.2. Các giai đoạn phát triển của tiểu thuyết

      • 1.1.3. Các tác phẩm tiểu thuyết tiêu biểu qua các giai đoạn văn học Quốc ngữ Việt Nam

      • 1.1.4. Các xu hướng vận động của tiểu thuyết trong văn học Quốc ngữ Việt Nam

      • 1.2.1. Tác phẩm “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu

        • 1.2.1.1. Tác giả

        • 1.2.1.2. Tác phẩm

      • 1.2.2. Tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh

        • 1.2.2.1. Tác giả

        • 1.2.2.2. Tác phẩm

        • 1.2.2.3. Bối cảnh lịch sử

    • 1.3. Một số xu hướng vận động của tiểu thuyết qua hai tác phẩm “Dấu chân người lính” (Nguyễn Minh Châu, 1972) và “Nỗi buồn chiến tranh” (Bảo Ninh, 1987)

      • 1.3.1. Xu hướng tổng hợp yếu tố của nhiều thể loại

      • 1.3.2. Xu hướng nhạt dần kiểu tư duy sử thi và đậm dần tư duy tiểu thuyết

        • 1.3.2.1. Dấu ấn sử thi trong tác phẩm “Dấu chân người lính” – Nguyễn Minh Châu (1969)

        • 1.3.2.2. Tư duy tiểu thuyết trong “Nỗi buồn chiến tranh” – Bảo Ninh (1987)

  • PHẦN 2: SO SÁNH SỰ VẬN ĐỘNG CỦA HAI TÁC PHẨM TRƯỜNG CA “BÀI CA CHIM CHƠ – RAO” CỦA THU BỒN VÀ “GỌI TÌM XÁC ĐỒNG ĐỘI” CỦA TRẦN VÀNG SAO

    • 2.1. Những vấn đề chung

      • 2.1.1. Khái niệm trường ca

    • 2.1.2. Các giai đoạn phát triển của trường ca

    • 2.1.3. Các xu hướng vận động của trường ca trong văn học Quốc ngữ Việt Nam

    • 2.1.4. Các tác phẩm trường ca tiêu biểu qua các giai đoạn văn học Quốc ngữ Việt Nam

      • 2.1.4.1. Giới thiệu chung về tác giả Thu Bồn và tác phẩm “Bài ca chim Chơ – rao”

      • 2.1.4.2. Giới thiệu chung về tác giả Trần Vàng Sao và tác phẩm “Gọi tìm xác đồng đội”

    • 2.2. Một số dấu hiệu vận động của trường ca qua hai tác phẩm “Bài ca chim Chơ – rao” (Thu Bồn, 1962) và “Gọi tìm xác đồng đội” (Trần Vàng Sao, 2012)

  • KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

MỤC LỤCPHẦN 1: SO SÁNH SỰ VẬN ĐỘNG CỦA HAI TÁC PHẨM TIỂU THUYẾT “DẤU CHÂN NGƯỜI LÍNH” CỦA NGUYỄN MINH CHÂU VÀ “NỖI BUỒN CHIẾN TRANH” CỦA BẢO NINH...1 1.1.. PHẦN 1: SO SÁNH SỰ VẬN ĐỘNG CỦ

Những vấn đề chung về thể loại tiểu thuyết

Khái niệm tiểu thuyết

Theo Trần Đình Sử trong quyển “Lí luận văn học - tác phẩm và thể loại văn học”, tiểu thuyết đã xuất hiện từ sớm trong thư tịch Trung Quốc, phản ánh những đạo lý và sự kiện trong đời sống thường nhật Ông nhấn mạnh rằng, chỉ khi có sự kiện mới có truyện, và khi có truyện thì mới có người kể, từ đó hình thành nên tiểu thuyết.

Theo Lại Nguyên Ân trong cuốn “150 thuật ngữ văn học” nhận định:

Tiểu thuyết là một thể loại văn học tự sự, tập trung vào số phận và quá trình phát triển của một cá nhân Qua việc sử dụng không gian và thời gian nghệ thuật, tiểu thuyết truyền đạt sâu sắc "cơ cấu" của nhân cách, giúp người đọc hiểu rõ hơn về nhân vật và bối cảnh của họ.

Belinski đã nhận định rằng "tiểu thuyết là sử thi của đời tư", điều này cho thấy tiểu thuyết là một hình thức tự sự tập trung vào số phận cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của họ.

Tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi hư cấu, sử dụng nhân vật, bối cảnh và sự kiện để phản ánh xã hội và các vấn đề của cuộc sống con người Nó thể hiện tính chất tường thuật và kể chuyện thông qua ngôn ngữ văn xuôi, xoay quanh những chủ đề cụ thể.

Các giai đoạn phát triển của tiểu thuyết

Lịch sử phát triển tiểu thuyết đã mang đến cho nền văn học thế giới nhiều thành tựu nổi bật, đặc biệt là những kiệt tác tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa.

“Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung, “Thủy hử” của Thi Nại Am, “Tây du ký” của Ngô Thừa Ân, và “Hồng Lâu Mộng” của Tào Tuyết Cần, cùng với tác phẩm vĩ đại về kị sĩ “Don Quixote” của Miguel de Cervantes Saavedra, đều là những tác phẩm nổi bật từ thế kỷ XV – XVI, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của thể loại tiểu thuyết.

Tiểu thuyết Việt Nam xuất hiện muộn hơn so với thế giới, chịu ảnh hưởng từ nền văn minh thực dân và phong kiến Tuy nhiên, Việt Nam đã khéo léo biến đổi những yếu tố văn hóa đó thành bản sắc riêng Sự ra đời của chữ quốc ngữ và sự phát triển đô thị đã tạo điều kiện cho việc tiếp nhận các tác phẩm tiểu thuyết dịch từ tiếng Pháp Cùng với sự xuất hiện của nhà in và ảnh hưởng từ thơ Nôm cũng như tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc, tiểu thuyết Việt Nam đã bước vào giai đoạn hoàng kim từ những năm 1930 đến 1945, để lại dấu ấn sâu sắc trong văn học trung đại và hiện đại.

Vào những năm 30 của thế kỷ XX, văn học Việt Nam bắt đầu xuất hiện tiểu thuyết hiện đại, tập trung vào việc tái hiện các sự kiện quan trọng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Thời kỳ này không chỉ tôn vinh những anh hùng dân tộc mà còn phản ánh sự phát triển vượt bậc của tiểu thuyết, song hành cùng phong trào Thơ Mới Các tác giả như Nhất Linh, Khái Hưng, và Thạch Lam đã góp phần hình thành thể loại tiểu thuyết nổi tiếng của Tự Lực văn đoàn, trong khi Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, và Nguyên Hồng đại diện cho xu hướng hiện thực phê phán trong văn học.

Trong 2 cuộc chiến tranh vệ Tổ quốc chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, đội ngũ các nhà tiểu thuyết Việt Nam đã ngày càng đông đảo như:Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh

Tiểu thuyết Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đặc biệt là trong thể loại tiểu thuyết - sử thi với đề tài hoành tráng và nội dung phong phú Một trong những tác phẩm tiêu biểu trong thể loại này là “Vỡ bờ” của Nguyễn Đình Thi.

Sau năm 1986, tiểu thuyết Việt Nam bước vào giai đoạn mới với những tác phẩm nổi bật của Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, mang đến nội dung sâu sắc về thân phận con người Đồng thời, các tác phẩm này cũng thể hiện những dấu hiệu đầu tiên của văn chương hậu hiện đại.

Các tác phẩm tiểu thuyết tiêu biểu qua các giai đoạn văn học Quốc ngữ Việt Nam

Cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, "Thầy Lazaro Phiền" (1887) của Nguyễn Trọng Quản được xem là tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam viết bằng chữ Quốc ngữ Tác phẩm này đã được Giáo sư Trần Hữu đánh giá cao trong nền văn học Việt Nam.

Tác phẩm được ví như “con chim lạ từ trời Tây” đã đánh dấu sự khởi đầu cho thời kỳ bùng nổ của tiểu thuyết hiện đại, mang đến những đổi mới và sáng tạo trong văn học.

Giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến năm 1932, tiểu thuyết Quốc ngữ phát triển mạnh mẽ ở Bắc Kỳ, nổi bật với tiểu thuyết lãng mạn "Tố Tâm" của Hoàng Ngọc Phách (1925), được xem là tác phẩm văn học hiện đại đầu tiên tại miền Bắc Việt Nam Nội dung tác phẩm xoay quanh mối tình bi kịch giữa Đạm Thủy, một sinh viên khoa văn tại Cao đẳng Sư phạm, và cô gái xinh đẹp Tố Tâm.

Mặc dù tiểu thuyết Quốc ngữ ở miền Nam gặp nhiều khó khăn trong sáng tác và lưu truyền do bối cảnh lịch sử, nhưng sự phát triển của thể loại này vẫn có dấu hiệu tích cực Các tác phẩm tiêu biểu của Hồ Biểu Chánh như “Hoàng Tố Anh hàm oan” (1910), “Ai làm được” (1912) và “Chúa tàu Kim qui” (1913) cho thấy sự manh nha của tiểu thuyết miền Nam trong giai đoạn này.

Trong giai đoạn 1932 – 1945, văn học Việt Nam chứng kiến sự xuất hiện của tiểu thuyết hiện đại với nhiều tác phẩm tiêu biểu Các nhà văn nổi bật thuộc Tự Lực văn đoàn đã thể hiện rõ khuynh hướng lãng mạn qua những tác phẩm như "Đôi bạn" (1936), góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển của thể loại này.

1937), “Lạnh lùng” (1935 – 1936) của Nhất Linh; “Hồn bướm mơ tiên”

Trong giai đoạn những năm 1930, các tác phẩm như “Nửa chừng xuân” (1934) của Khái Hưng và “Nắng trong vườn” (1938) của Thạch Lam phản ánh những câu chuyện tình yêu và sự giao thoa giữa cái cũ và cái mới Đồng thời, khuynh hướng phê phán hiện thực cũng được thể hiện rõ nét qua tiểu thuyết “Tắt đèn” (1937) của Ngô Tất Tố và “Sống mòn” (viết 1944, xuất bản sau đó), cho thấy những vấn đề xã hội nhức nhối của thời kỳ này.

1956), “Truyện người hàng xóm” (1944) của Nam Cao; “Số đỏ” (1936),

“Giông tố” (1936) của Vũ Trọng Phụng; “Bước đường cùng” (1938) của Nguyễn Công Hoan.

Giai đoạn 1945 - 1985, đội ngũ nhà tiểu thuyết Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ Nổi bật trong thời kỳ này là tác phẩm "Sống mãi với thủ đô" (1960) của Nguyễn Huy Tưởng, thể hiện tinh thần yêu nước và khát vọng độc lập của dân tộc.

Trong giai đoạn văn học này, các tác phẩm như “Bên bờ Thiên Mạc” (1967) và “Tổ quốc kêu gọi” (1972) của Hà Ân, cùng với “Núi rừng Yên Thế” (1981) của Nguyên Hồng, đều thể hiện đề tài hoành tráng và có dung lượng đồ sộ Nổi bật trong số đó là tiểu thuyết “Vỡ bờ” của Nguyễn Đình Thi, phản ánh sâu sắc những vấn đề xã hội và tâm tư của con người trong bối cảnh lịch sử đặc biệt.

Từ năm 1986, tiểu thuyết Việt Nam đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ với các tác phẩm tiêu biểu như “Người thắng cuộc” của Nguyễn Trọng Oánh, phản ánh chân thực cuộc sống của cán bộ công chức trong Đảng trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội Bên cạnh đó, “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng và “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh cũng góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn học Việt Nam trong giai đoạn này.

Sau năm 1986, các tác phẩm văn học tập trung vào việc khắc họa cuộc sống và phẩm chất của con người Việt Nam trong bối cảnh hậu chiến, phản ánh những tàn dư và hệ lụy mà chiến tranh để lại.

Các xu hướng vận động của tiểu thuyết trong văn học Quốc ngữ Việt Nam

Trong nền văn học Quốc ngữ Việt Nam, tiểu thuyết thường biểu hiện một số xu hướng vận động như sau:

1 Xu hướng ổn định về kích cỡ tác phẩm.

2 Xu hướng tổng hợp yếu tố của nhiều thể loại.

3 Xu hướng gia tăng tính đa dạng về kĩ thuật, phong cách, khuynh hướng nghệ thuật.

4 Xu hướng phá vỡ đường biên, ranh giới thể loại.

5 Xu hướng nhạt dần kiểu tư duy sử thi và đậm dần tư duy tiểu thuyết.

1.2 Khái quát về tác phẩm “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu và “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh

Tác phẩm “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu

Nguyễn Minh Châu (20/10/1930 – 23/01/1989) là một nhà văn có tầm ảnh hưởng lớn trong nền văn học Việt Nam, sinh ra tại xã Huỳnh Hải, huyện Lưu Ninh, tỉnh Nghệ An Ông trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, điều này đã giúp ông có nguồn cảm hứng sâu sắc về nỗi đau của đất nước bị chia cắt Với sự trăn trở và tìm tòi trong từng tác phẩm, Nguyễn Minh Châu luôn nỗ lực thể hiện chân thật hơi thở của lịch sử, đồng thời ghi lại những trải nghiệm sâu sắc qua từng giai đoạn phát triển của đất nước Ông viết một cách cẩn thận, không bao giờ vội vàng, phản ánh đúng sự vận động của xã hội.

Trước Cách mạng tháng Tám, ông theo học tại Trường Kỹ nghệ Huế và tốt nghiệp bậc Thành Chung vào năm 1945, sau đó tiếp tục học chuyên khoa tại trường Huỳnh Thúc Kháng ở Hà Tĩnh Năm 1950, ông gia nhập quân đội và theo học tại trường Sĩ quan Trần Quốc Tuấn Từ năm 1952 đến 1956, ông làm việc tại Ban Tham mưu Tiểu đoàn 772, 706 thuộc Sư đoàn 320.

Năm 1958, ông đảm nhận vị trí Trợ lý văn hóa tại Trung đoàn 64 thuộc sư đoàn 320 Đến năm 1962, ông chuyển sang làm việc tại phòng Văn nghệ Quân đội và sau đó là Tạp chí Văn nghệ Quân đội Ông trở thành hội viên Hội nhà văn Việt Nam vào năm 1972.

Sự nghiệp sáng tác: Năm 1960, Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn đầu tay Sau một buổi tập Trong sự nghiệp sáng tác kéo dài ba thập kỷ (1960-

Năm 1989, tác giả Phiên chợ Giát kết thúc sự nghiệp văn chương với 13 tập văn xuôi và một tiểu luận phê bình Các tác phẩm nổi bật của ông bao gồm tiểu thuyết "Cửa sông" (1966), "Dấu chân người lính" (1972), "Miền cháy" (1977), và "Mảnh đất tình yêu" (1987) Ngoài ra, ông cũng viết nhiều truyện ngắn như "Những vùng trời khác nhau" (1970), "Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành" (1983), và "Bến quê" (1985), cũng như tác phẩm "Cỏ lau" (1989).

Cuốn tiểu thuyết được tác giả Nguyễn Minh Châu khởi thảo vào năm 1969 và sau khi được trích đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1970, đã nhanh chóng thu hút sự chú ý và nhận được nhiều lời khen ngợi Tác phẩm này đánh dấu một bước tiến mới trong sự nghiệp sáng tác của ông, khi cảm xúc đã hòa quyện với suy nghĩ, tạo ra những hình tượng nghệ thuật hấp dẫn.

17 chương, chia ra thành 3 phần: phần 1 là Hành quân, phần 2 là Chiến dịch bao vây, phần 3 là Đất giải phóng.

Tiểu thuyết "Dấu chân người lính" ghi lại những khoảnh khắc tàn khốc của cuộc chiến tranh, khắc họa hình ảnh người lính cách mạng với nhiều nhân vật từ các thế hệ khác nhau, tất cả đều mang trong mình lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm với Tổ quốc Tác phẩm đặc biệt nổi bật với thế hệ trẻ, những người trưởng thành trong chế độ mới ưu việt Qua "Dấu chân người lính", độc giả có thể cảm nhận những giây phút sinh tử trong chiến tranh, tinh thần trách nhiệm cao độ và tình cảm đồng điệu của những trái tim yêu nước.

Bối cảnh lịch sử những năm 1969-1970

Sau thất bại của chiến lược “chiến tranh cục bộ”, vào năm 1969, Mỹ đã triển khai chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” Đây là một hình thức xâm lược mới của Mỹ, chủ yếu dựa vào quân đội tay sai, với sự hỗ trợ từ lực lượng chiến đấu Mỹ và các cố vấn.

Mỹ đã chỉ huy và cung cấp vũ khí, phương tiện chiến tranh trong bối cảnh rút dần quân viễn chinh cùng quân đội các nước đồng minh khỏi miền Nam Việt Nam Đồng thời, Mỹ tăng cường xây dựng và viện trợ cho quân ngụy, mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc và tiến hành chiến tranh xâm lược tại Lào, Campuchia, với lực lượng xung kích chủ yếu là quân ngụy, sử dụng người Đông Dương để chiến đấu chống lại người Đông Dương.

Vào ngày 6 tháng 6 năm 1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập, nhận được sự ủng hộ từ nhân dân trong nước và quốc tế Đến tháng 4 năm 1970, Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương được tổ chức, thể hiện sự đoàn kết trong cuộc chiến chống kẻ thù chung Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là học sinh và sinh viên, ngày càng phát triển mạnh mẽ, đặc biệt tại các thành phố như Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn.

Vào Tết năm 1969, quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã phát động một loạt các cuộc tấn công mạnh mẽ vào lực lượng Hoa Kỳ, bắt đầu từ ngày 22 tháng 2 Những cuộc tấn công này chủ yếu diễn ra xung quanh Sài Gòn, nhằm vào nhiều thành phố và căn cứ quân sự Mặc dù phải rút lui do bị phản công, quân giải phóng đã gây ra thương vong nặng nề cho phía Hoa Kỳ, với 1.140 lính Mỹ thiệt mạng trong đợt tấn công này.

Tình hình xã hội Việt Nam những năm 1969-1970

Trong giai đoạn 1965-1970, miền Bắc kiên cường xây dựng chủ nghĩa xã hội và hỗ trợ tiền tuyến trong bối cảnh chiến tranh ác liệt, với sản lượng lương thực đạt 5.278.900 tấn vào năm 1970, tăng hơn nửa triệu tấn so với năm 1969 Năng suất lúa bình quân đạt 43,11 tạ trên 1 ha, trong đó tỉnh Thái Bình và thành phố Hà Nội đạt trên 5 tấn thóc/ha 30 huyện và 2.265 hợp tác xã cũng đạt năng suất bình quân 5 tấn thóc/ha, đồng thời thu nhập bình quân đầu người của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng 20% so với năm 1965.

Sự phát triển kinh tế đã nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân So với năm 1957, quỹ tiêu dùng bình quân đầu người tăng 82,8%; thu nhập bình quân của gia đình công nhân viên chức tăng 48,5%; và thu nhập của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng 73,8%.

Hoạt động giáo dục và y tế đã đạt được những thành tựu to lớn trong suốt thời gian qua Số lượng người đi học tăng mạnh từ 1.288.000 người vào năm 1955 lên 6.796.900 người vào năm 1975, tương ứng với mức tăng gấp 5,3 lần Đặc biệt, số học sinh trung học chuyên nghiệp đã tăng từ 2.800 lên 83.500 người, tức là gấp 29,8 lần, trong khi số sinh viên đại học cũng tăng từ 1.200 lên 61.100 người, tương đương với mức tăng gấp 50,9 lần Tính bình quân cho mỗi 10.000 dân, số người đi học năm 1955 là 949 người, cho thấy sự phát triển vượt bậc của hệ thống giáo dục.

1975 có 2.769 người, tăng gấp 2,9 lần, trong đó trung học chuyên nghiệp và đại học là 2,9 người và 59 người, tăng gấp 20,3 lần.

Tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh

Bảo Ninh tên thật là Hoàng Ấu Phương, sinh tại huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ

An, quê ở xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, là con trai của Giáo sư Hoàng Tuệ, nguyên Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học Ông gia nhập bộ đội năm 1969 và đã tham gia chiến đấu tại mặt trận B-3 Tây Nguyên trong tiểu đoàn 5, trung đoàn 24, sư đoàn.

10 Năm 1975, ông giải ngũ Từ 1976-1981 học đại học ở Hà Nội, sau đó làm việc ở Viện khoa học Việt Nam Từ 1984-1986 học khoá 2 Trường viết văn Nguyễn Du Làm việc tại báo Văn nghệ Trẻ Là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ 1997.

Tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, xuất bản lần đầu năm 1987, đã gây tiếng vang lớn và nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam Câu chuyện xoay quanh nhân vật Kiên, một người lính, với những hồi ức về chiến tranh và mối tình đầu với Phương, thể hiện một góc nhìn cá nhân sâu sắc về chiến tranh, khác biệt so với những tác phẩm sử thi trước đó Nhà văn Nguyên Ngọc đã ca ngợi tác phẩm là thành tựu nghệ thuật cao nhất của văn học đổi mới Mặc dù bị cấm trong hơn 10 năm do tính nhạy cảm, "Nỗi buồn chiến tranh" vẫn giữ được sức hấp dẫn và được yêu thích trong bối cảnh đổi mới ở Việt Nam.

Cuốn sách "The Sorrow of War", được dịch sang tiếng Anh bởi Frank Palmos và Phan Thanh Hảo vào năm 1994, đã nhận được nhiều lời khen ngợi và được coi là một trong những tiểu thuyết cảm động nhất về chiến tranh Bản dịch này được phát hành rộng rãi và thu hút sự chú ý của du khách nước ngoài Đây là một trong số ít tác phẩm nói về chiến tranh từ góc nhìn của Việt Nam được xuất bản ở phương Tây Đáng chú ý, tác giả Bảo Ninh đã thể hiện quan điểm này mà không lên án bên kia, mang đến một cái nhìn nhân văn và sâu sắc về cuộc chiến.

Vào năm 2005, tác phẩm nổi tiếng này được tái bản với tên gọi ban đầu "Thân phận của tình yêu" Đến năm 2006, nó tiếp tục được phát hành lại với nhan đề "Nỗi buồn chiến tranh", một cái tên đã trở thành biểu tượng trong văn học.

Tác phẩm khắc họa cuộc chiến trong tâm trí nhân vật Kiên, mô tả chi tiết và sống động về chiến tranh, đồng thời thể hiện hành trình tìm về trong tâm tưởng của nhân vật.

Cuộc hành trình của Kiên là một cuộc sống ngược dòng, đối diện với sự sống tự nhiên, nơi mà anh chỉ đang tồn tại Thời gian trở nên lộn xộn, không gian đổ nát và trở thành những mảnh ghép vụn vỡ, phản ánh trí nhớ của Kiên Những trận đánh, con người và kỷ niệm đẹp đẽ lần lượt hiện lên rồi tan vỡ theo sự sụp đổ của chính bản thân anh.

"Nỗi buồn chiến tranh" là hành trình tìm kiếm quá khứ và cuộc sống đã mất, thể hiện sự ám ảnh về chiến tranh và cái chết Cuốn sách mô tả "thì quá khứ tiếp diễn" của nỗi buồn trong thời bình, đặc biệt qua nhân vật Kiên, người phải đối mặt với những ký ức đau thương sau giải phóng Tác phẩm này khắc họa tiếng gọi của quá khứ, những người đã nằm lại dưới lớp cát bụi chiến tranh và những miền đất cằn cỗi mà nhân vật đã trải qua, cho thấy rằng những ký ức đã tắt nhưng vẫn sống mãi trong tâm trí nhân vật chính.

Tiểu thuyết thể hiện cuộc đấu tranh nội tâm đầy day dứt của Kiên, người phải đối mặt với cái chết, tình yêu, tiếc nuối và tội lỗi Dưới bề mặt của sự chết chóc và đau thương của chiến tranh, tác giả khéo léo lồng ghép vẻ đẹp sống động và tươi sáng, qua cái nhìn chân thực nhưng cũng mờ ảo của Kiên, tạo nên một bức tranh sâu sắc về tâm hồn con người.

Kiên không thể quên sự vẫy gọi đầy mê hoặc từ quá khứ Khi anh đào sâu vào những kỷ niệm xưa, hiện tại dần trở nên mờ nhạt, và mặc dù anh cố gắng gắn bó với thực tại, anh lại càng bị cuốn vào những hồi ức Thời gian trôi qua, ký ức trở nên mạnh mẽ và sống động hơn bao giờ hết.

"Nỗi buồn chiến tranh" là một tiểu thuyết thể hiện cái nhìn chân thực và nghiệt ngã về chiến tranh từ một góc độ khác Tác giả chọn kiểu người kể chuyện tự ý thức, cho phép tiếng nói tự ý thức bộc lộ những suy nghĩ về bản thân và người khác Kiểu tiếng nói này không chỉ quan trọng trong cấu trúc kĩ thuật của truyện mà còn thể hiện đặc điểm cá tính và phẩm chất của người kể, đồng thời liên kết các yếu tố trong văn bản để làm nổi bật tính cách nhân vật, tư tưởng và chủ đề của tác phẩm.

Nhìn từ khía cạnh lịch sử và văn hóa, có thể khẳng định rằng văn học Việt Nam từ sau 1975, đặc biệt là tiểu thuyết, sẽ rất thiếu sức sống nếu không có Bảo Ninh và tác phẩm "Nỗi buồn chiến tranh" Tác phẩm này không chỉ tiếp nối những trăn trở và nỗi đau của các nhà văn miền Bắc từ thời Nhân văn giai phẩm, mà còn là minh chứng sống động cho việc các mệnh lệnh chính trị cứng nhắc không thể kiềm hãm được tư tưởng và tình cảm của những nghệ sĩ chân chính.

Một số xu hướng vận động của tiểu thuyết qua hai tác phẩm “Dấu chân người lính” (Nguyễn Minh Châu, 1972) và “Nỗi buồn chiến tranh” (Bảo Ninh, 1987)

Xu hướng tổng hợp yếu tố của nhiều thể loại

Tiểu thuyết là một thể loại văn học đa dạng, thường kết hợp các yếu tố như nghị luận, hư cấu, phi hư cấu, hồi ký, nhật ký và tự truyện Mỗi tác phẩm tiểu thuyết, đặc biệt qua các giai đoạn khác nhau, thể hiện sự biến đổi trong cách sử dụng những yếu tố này So sánh hai tác phẩm "Dấu chân người lính" của Nguyễn Minh Châu và "Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh, chúng ta có thể nhận thấy sự khác biệt rõ rệt trong cách mà các yếu tố này được thể hiện.

Trong tiểu thuyết “Dấu chân người lính”, yếu tố trữ tình, phi hư cấu, nhật ký và thư từ được thể hiện rõ nét Nhiều bài thơ xuất hiện, là sáng tác của nhân vật hoặc được họ đọc lại từ tác giả yêu thích Khi giao lưu với nhà thơ Thái Văn, các chiến sĩ tiểu đoàn 1, trung đoàn 5 đã gọi chính ủy Kinh là “nhà thơ của chúng ta”, và ông đã đọc vang bài thơ của mình.

“Lớp lớp quân đi reo bốn phương Trường Sơn ca tiếp khúc lên đường

Ve kêu bên võng ran rừng khách

Sư đoàn nối sư đoàn vào chiến trường”

Hay khi nhân vật Đàm hy sinh, Lữ tìm thấy cuốn sổ tay giấy trắng mỏng trong đó có một vài đoạn thơ “sinh hoạt” do anh làm:

“Hôm qua “môn thục”, hôm nay “tai voi”, Nấu với ca suối ăn tươi ra trò

Bống chạch câu bắt về kho,

Lá lốt xào ốc tha hồ trôi cơm.

Còn trời còn nước còn non.

Còn rừng, còn suối, chúng ta vẫn giữ được sức sống tươi trẻ Ban ngày, nước suối trong vắt, mang lại sự bình yên, trong khi ban đêm, cái lạnh khiến ta co ro, run rẩy Dù phải hành quân qua những cơn mưa và những thác dữ, chúng ta vẫn vượt qua những con dốc ngược và đèo cao, nơi mây phủ kín Trường Sơn.

Dù nắng gắt mưa tuôn,

Dù thiếu muối đói cơm,

Ta vẫn bước dưới lá cờ Quyết thắng

Ta nguyện làm mầm non trên cành xuân của Đảng Làm chiến binh gang thép của đoàn quân…”

Yếu tố của thể loại phi hư cấu cũng thể hiện rất rõ trong tác phẩm

"Dấu chân người lính" là tác phẩm ghi lại hiện thực cuộc chiến một cách trung thực và nguyên vẹn Nguyễn Minh Châu đã đồng hành cùng các đơn vị chủ lực, lắng nghe câu chuyện của các chiến sĩ và tham gia tổng kết chiến dịch Ông miêu tả chân thực những chặng đường hành quân gian khổ và cuộc tổng tấn công khép chặt vòng vây tại thung lũng Khe Sanh.

Trong tiểu thuyết “Dấu chân người lính”, Nguyễn Minh Châu khéo léo sử dụng yếu tố nhật ký để thể hiện tâm tư của nhân vật Lữ Những trang nhật ký không chỉ phản ánh lí tưởng sống, tình yêu quê hương, gia đình mà còn ghi lại những kỷ niệm về bạn bè Một đoạn trong nhật ký của Lữ cho thấy sự đau đớn khi nhìn về quê hương bị tàn phá bởi chiến tranh: “Đứng ở đây nhìn rộng sang cả hai bên bờ Nam và bờ Bắc chỉ thấy nhức mắt một vùng bãi hố bom đỏ loét…” Cảm xúc mãnh liệt của Lữ, khi phải đối mặt với thực tại khắc nghiệt, thể hiện sâu sắc nỗi đau và tình yêu đất nước trong trái tim tuổi trẻ của anh.

Trong tác phẩm “Dấu chân người lính”, thể loại thư từ được thể hiện rõ nét qua những bức thư đầy cảm xúc Một trong số đó là bức thư của vợ chính ủy Kinh gửi cho anh, trong đó cô kể về cậu con trai đầu được nhà nước cho ra nước ngoài học và nhắn nhủ anh cố gắng gặp gỡ cậu con trai thứ hai đang ở mặt trận Ngoài ra, bức thư của Khuê giới thiệu Lượng cho chị gái mình cũng là một điểm nhấn quan trọng, thể hiện tình cảm gia đình và sự gắn kết giữa các nhân vật.

Tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh nổi bật với các yếu tố hồi ký, thư từ và tự truyện Tác phẩm thể hiện ký ức và hồi tưởng của nhân vật Kiên về thời chiến, những tháng ngày ngột ngạt, gian khổ và phần nào tuyệt vọng, cùng với tình yêu dành cho những cô gái mà anh từng phải lòng Câu chuyện không tuân theo một trình tự thời gian cố định, mà phụ thuộc vào dòng hồi tưởng của Kiên, tạo nên nét đặc trưng của thể loại hồi ký trong tác phẩm này.

Trong tiểu thuyết, nhân vật Kiên nhận được một bức thư từ sư 2 của mặt trận khu 5, không phải từ miền Bắc Nội dung bức thư thể hiện sự bối rối của nhóm nhân vật: “Cả lũ chúng mình sững sờ Hồi ấy tuy đã là cán bộ nhưng bọn mình còn sữa cả, đã biết ăn nói xử sự cho phải nhẽ đâu.” Họ cảm thấy hối hận và muốn khuyên giải, nhưng sự hiện diện của súng khiến họ không dám hành động.

Tác phẩm này mang yếu tố của thể loại tự truyện, với nhân vật Kiên dường như là hình ảnh của tác giả, khi anh kể về cuộc đời mình và chia sẻ những suy nghĩ, cảm xúc cá nhân Qua việc so sánh "Dấu chân người lính" của Nguyễn Minh Châu và "Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh, ta nhận thấy sự khác biệt trong cách sử dụng thể loại "Dấu chân người lính" có nhiều yếu tố thơ ca, phản ánh tinh thần chiến đấu trong bối cảnh chiến tranh, trong khi "Nỗi buồn chiến tranh" lại tập trung vào nỗi đau và mất mát, với ít đề cập đến thơ ca Bên cạnh đó, "Nỗi buồn chiến tranh" sử dụng yếu tố hồi ký để ghi lại ký ức của người lính sau chiến tranh, trong khi "Dấu chân người lính" được viết trong thời điểm cuộc chiến đang diễn ra.

Xu hướng nhạt dần kiểu tư duy sử thi và đậm dần tư duy tiểu thuyết

Thể hiện qua các phương diện chính như sau:

Thứ nhất, qua việc tác giả xây dựng hình tượng nhân vật mang đậm nét sử thi:

Nguyễn Minh Châu khắc họa hình ảnh những nhân vật sử thi vĩ đại và đáng ngưỡng mộ như Kinh, Nhẫn, Lượng, Khuê, già Phang, Hiền và Nết Đặc biệt, nhân vật Lượng, một đại đội trưởng đại đội trinh sát mới chỉ 23 tuổi nhưng đã có nhiều kinh nghiệm trong quân đội Lượng được miêu tả là một chiến sĩ tháo vát, tự lập từ nhỏ, với tính cách hiền lành, ít nói và hơi khó tính, thể hiện sự chín chắn như người đã trưởng thành Khi bước vào chiến trận, hình ảnh của Lượng hiện lên đầy oai phong và lẫm liệt.

Lượng cùng chiến sĩ Kinh chiếm một gò đất giữa bãi tranh, nơi những cây mù u chỉ còn lại gốc Anh cởi áo trải xuống đất, trịnh trọng bày lựu đạn Mỹ vừa cướp được Kinh, với vẻ nghiêm nghị của một lãnh đạo, bị thương nhưng vẫn chỉ huy đồng đội chiến đấu Lượng thấy máu từ mắt Kinh rơi xuống, nhưng ông vẫn kiên cường xốc đồng chí bị thương lên lưng, vừa bắn yểm hộ Những người lính được miêu tả với nét tinh nghịch, thể hiện sự lạc quan giữa khói lửa chiến tranh, như anh nhanh nhẹn nằm võng hay những người khác bắt cá, ghi chép Mỗi nhân vật đều mang một tính cách riêng nhưng chung lý tưởng giải phóng dân tộc Nguyễn Minh Châu đã khéo léo xây dựng hình ảnh những người anh hùng, thể hiện sức mạnh và ý chí của cộng đồng trong cuộc chiến.

Con người sử thi thời đó đặt lợi ích cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân, thể hiện sự hy sinh và lý tưởng cao đẹp Họ sống với tinh thần đoàn kết, trong đó cái tôi cá nhân dường như trở nên nhỏ bé trước cái ta chung Những con người này mang trong mình lý tưởng và niềm tin vững chắc, khiến cho những giá trị riêng tư khó có thể tìm thấy trong tâm hồn họ.

Thứ hai, xu hướng sử thi còn bộc lộ mạnh mẽ qua cách tác giả xây dựng và giải quyết các mối quan hệ trong tiểu thuyết:

Tình yêu trai gái hòa quyện với tình yêu đất nước, thể hiện rõ trong bức thư của vợ chính ủy Kinh gửi cho chồng, cho thấy sự gắn bó giữa tình cảm cá nhân và trách nhiệm chung Dù đã có tuổi, bà vẫn thể hiện sự quan tâm đến cuộc sống của mọi người ở nhà, nhấn mạnh rằng họ đang tích cực sản xuất để hỗ trợ tiền tuyến trong cuộc chiến chống Mỹ Điều này cho thấy những người vợ không chỉ viết thư cho chồng mà còn cho cả đồng chí của chồng, thể hiện tinh thần đoàn kết Tình yêu trai gái cũng được tác giả khắc họa qua mối quan hệ giữa nhân vật Lữ và Hiền, là minh chứng cho sự kết nối giữa tình yêu cá nhân và lý tưởng cao cả.

Tình đồng đội là mối quan hệ chủ yếu mà tác giả muốn nhấn mạnh, vượt lên trên tất cả các tình cảm khác như tình cha con, tình anh em hay tình yêu đôi lứa Trong bối cảnh chiến tranh, tình cảm gia đình, dù thiêng liêng và quý giá, trở nên nhỏ bé trước vận mệnh quốc gia Nhân vật Khuê trong tác phẩm "Dấu chân người lính" khi nhận được tin dữ về gia đình, bao gồm cái chết của em trai và mẹ bị thương nặng, đã quyết định giữ im lặng để không làm ảnh hưởng đến tinh thần của đồng đội trong đại đội.

Cách tác giả giải quyết các mâu thuẫn trong các mối quan hệ:

Trong mối quan hệ phức tạp giữa Lượng, Xiêm và Kiếm, tình cảm của Lượng dành cho Xiêm ngày càng sâu đậm, nhưng Xiêm đã có chồng là Kiếm, kẻ thù của Lượng Nguyễn Minh Châu đã khéo léo xử lý mối quan hệ tình cảm này theo cách sử thi, khi Lượng luôn đặt lợi ích của cách mạng lên trên lợi ích cá nhân Anh không muốn bị đồn rằng “Một cán bộ giải phóng đã cướp vợ của một tên lính Ngụy”, và trong một lần tấn công đồn giặc, Lượng còn chủ động tìm kiếm kẻ thù để bảo vệ Xiêm, người mà anh yêu thương.

Trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, cuộc xung đột chính trị trong gia đình giữa già Phang và thằng Kiếm được giải quyết theo hướng sử thi Tác giả đã đưa Kiếm trở về với cuộc sống làm ăn lương thiện, chấm dứt mâu thuẫn cha con và vợ chồng Kết thúc tác phẩm là sự thắng lợi của cách mạng, với một vùng đất rộng lớn được giải phóng và lòng người tràn đầy hy vọng trước những thành công, do đó, tác phẩm vẫn mang âm hưởng hùng ca, thể hiện rõ nét tính chất sử thi.

Xu hướng sử thi trong tác phẩm thể hiện rõ qua không gian chiến trường hoành tráng, với những tri thức sâu sắc về chiến tranh như các loại binh chủng, tổ chức quân đội và tinh thần chiến đấu Khung cảnh được miêu tả vừa cụ thể, vừa sống động, như “Khe Sanh là một thung lũng ngang dọc, mỗi bề khoảng chừng mười cây số” và hệ thống phòng ngự vững chắc của bộ chỉ huy viễn chinh Mỹ Điều này tạo nên một hơi hướng sử thi hào hùng, bi tráng xuyên suốt toàn bộ tác phẩm.

Không gian thiên nhiên bao gồm núi non, sông ngòi, cây cỏ, và động vật, trong khi không gian xã hội phản ánh bản làng và hoạt động lao động, sản xuất, và chiến đấu Cảnh vật hiện lên với hình ảnh “một dải rừng núi âm u rậm rạp,” nơi thỉnh thoảng xuất hiện “vài bông hoa chuối rừng đỏ nở trên những thân cây gầy khẳng.” Tiếp giáp với bìa rừng là “bãi lau hoang vu” và những cánh rừng khác, dẫn đến con đường số 9 rải sỏi, hướng tới một thị trấn và khu vực đồn địch.

Nguyễn Minh Châu đã khéo léo tái hiện không gian hậu phương trong cuộc chiến như một hiện thực mang đậm chất sử thi, nơi mà hậu phương luôn hướng về tiền tuyến với tinh thần và vật chất Tác phẩm miêu tả hình ảnh nông thôn với ruộng đồng, bờ bãi và trường học, nơi Lữ cắp sách đến trường, cùng những người vợ, mẹ của những chiến sĩ nơi tiền tuyến xa xôi Không gian chiến trường và hậu phương được kết nối, tạo nên một bức tranh rộng lớn và sâu sắc, phản ánh sự gắn bó bền chặt giữa những con người ở những miền đất xa xôi.

Thứ tư, trình tự thời gian của tác phẩm – thời gian tuyến tính:

Thời gian trong tác phẩm gắn liền với các giai đoạn của cuộc cách mạng dân tộc, phản ánh những sự kiện trọng đại và biến cố lịch sử Nó như một dòng chảy liên tục, kết nối quá khứ với hiện tại và tương lai Cả hiện tại và quá khứ đều được thể hiện từ một góc nhìn chung, tạo cảm giác mọi sự kiện như đang diễn ra ngay trước mắt chúng ta.

Thứ năm, khuynh hướng sử thi thể hiện qua âm hưởng và giọng điệu của tác phẩm:

Tác phẩm thể hiện âm hưởng hùng tráng, khích lệ tình cảm mạnh mẽ của người đọc với tinh thần lạc quan và niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước Những hình tượng và nhân vật trong tác phẩm thường mang tính khẳng định, ngợi ca và tự hào về thắng lợi vẻ vang của dân tộc.

Trong tiểu thuyết “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu, các nhân vật được kết nối mạnh mẽ bởi lý tưởng cách mạng, sống trong một không gian cộng đồng và luôn gắn liền với bối cảnh lịch sử Những hình tượng cá thể được thể hiện như một phần của quần chúng, tạo nên những hình ảnh sống động về một thời đại oanh liệt, ghi dấu ấn sự hồi sinh của nhân dân qua sức mạnh tập thể.

1.3.2.2 Tư duy tiểu thuyết trong “Nỗi buồn chiến tranh” – Bảo Ninh (1987)

Thứ nhất, tính tiểu thuyết thể hiện qua cách tác giả xây dựng hình tượng nhân vật

Trong tác phẩm của Bảo Ninh, những người lính được thể hiện dưới góc nhìn cá nhân, không phải là những anh hùng mang trọng trách của cả dân tộc, mà là những con người bình thường, gần gũi Tác giả tập trung vào bi kịch tinh thần của Kiên và những người lính khác sau chiến tranh, khi mà chiến tranh trở thành nỗi ám ảnh, một tấn bi kịch trong cuộc sống Ký ức đau thương dễ dàng bị khơi dậy, khiến họ không thể quên những trải nghiệm đã qua Khác với hình tượng anh hùng trong "Dấu chân người lính", Bảo Ninh khắc họa con người như nạn nhân của chiến tranh, với tâm hồn bị biến dạng và nhân tính bị tước đoạt Đối với Kiên, hòa bình chỉ là cái giá phải trả bằng nhiều sinh mạng, và ông cảm thấy mình đang mắc kẹt trong cuộc sống, không còn tương lai Nhân vật của Bảo Ninh được khám phá trong dòng chảy cá nhân hóa, với cái nhìn đa diện và phức tạp về tâm hồn con người.

Trong cuộc chiến khốc liệt, cái chết và nỗi đau luôn hiện hữu Nhân vật Can, trong sự tuyệt vọng với cuộc sống và nỗi lo cho mẹ già không ai chăm sóc, đã quyết định đào ngũ Tuy nhiên, sự lựa chọn này không mang lại cho anh sự sống, mà chỉ kết thúc bằng một cái xác với hốc mắt sâu hoắm khi người ta tìm thấy anh.

SO SÁNH SỰ VẬN ĐỘNG CỦA HAI TÁC PHẨM TRƯỜNG CA “BÀI CA CHIM CHƠ – RAO” CỦA THU BỒN VÀ “GỌI TÌM XÁC ĐỒNG ĐỘI” CỦA TRẦN VÀNG SAO

Những vấn đề chung

Trường ca là một thể loại văn học bao gồm các tác phẩm thơ có dung lượng lớn với cốt truyện tự sự hoặc sườn truyện trữ tình Thể loại này thường được sử dụng để chỉ các tác phẩm sử thi từ thời cổ đại đến trung đại, có thể là khuyết danh hoặc có tên tác giả Các thể loại trường ca đa dạng bao gồm trường ca anh hùng, trường ca giáo huấn, trường ca châm biếm, trường ca lãng mạn và trường ca mang tính kịch - trữ tình.

Trong bài nghiên cứu mang tên “Trường ca hiện đại Việt Nam nhìn từ sự vận động, tương tác thể loại”, PGS TS Nguyễn Thành Thi đã chỉ ra rằng trường ca được coi là một thể loại “thơ dài”, thể hiện sự phong phú và đa dạng trong văn học Việt Nam hiện đại.

“Thơ dài” là một thể loại đặc biệt, đáp ứng đầy đủ các tiêu chí của thơ dài Theo phân loại nhị phân, “thơ dài” bao gồm ít nhất hai phần: trường ca và phần còn lại của thơ dài, trong đó phần còn lại phải có vị thế ngang hàng với trường ca Trường ca được xem là một bộ phận quan trọng trong thể loại thơ dài này.

Thơ dài, khác biệt với thơ ngắn, được phân loại thành hai thể loại chính: trường ca và thơ trữ tình trường thiên Sự phân nhánh này tạo nên một sơ đồ rõ ràng cho việc hiểu và phân tích các dạng thơ dài trong văn học hiện đại.

Trường ca là một thể loại thuộc thơ dài, mang đặc trưng của hình thức tự sự và trữ tình.

Trường ca là một hình thức nghệ thuật lớn, có khả năng bao gồm nhiều chủ đề khác nhau Nó có kết cấu đa tuyến, đa tầng và sử dụng nhiều chất liệu, thường mang tính phức điệu.

2.1.2 Các giai đoạn phát triển của trường ca

Trường ca, một thể loại thơ có dung lượng lớn với cốt truyện tự sự hoặc trữ tình, thường xoay quanh các đề tài lịch sử cộng đồng Qua thời gian, trường ca đã mở rộng sang các chủ đề cá nhân, triết lý và đạo đức, đồng thời khai thác mạnh mẽ các yếu tố kịch và trữ tình Thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của trường ca diễn ra vào đầu thế kỷ 19 với chủ nghĩa lãng mạn, và đến thế kỷ 20, thể loại này chuyển hướng sang trữ tình, nhấn mạnh các khía cạnh tâm lý, triết lý và cảm xúc tâm linh.

Giai đoạn 1932-1975: là giai đoạn ra đời của trường ca, nó vẫn mang nặng tính sử thi của anh hùng ca.

Giai đoạn sau 1975: xuất hiện xu hướng thiên về tính trữ tình, mang đậm dấu ấn cái tôi cá nhân.

Giai đoạn 1932-1975 gồm những trường ca gây ấn tượng lớn, có tầm ảnh hưởng, hoặc cắm mốc quan trọng đối với sự phát triển của thể loại như:

“Những người trên cửa biển” (1956) của Văn Cao, “Bài ca chim Chơ - rao”

(1962) của Thu Bồn, “Mặt đường khát vọng” (1971) của Nguyễn Khoa Điềm,

"Khúc hát người anh hùng" (1974) của Trần Đăng Khoa thể hiện nỗ lực của các nhà thơ trong việc sử dụng trường ca để tái hiện lịch sử hào hùng của dân tộc, nhằm cạnh tranh với tiểu thuyết Trong giai đoạn này, trường ca Việt hiện đại vẫn giữ được dấu ấn sử thi mạnh mẽ.

Từ năm 1975 đến nay, chất sử thi vẫn để lại dấu ấn quan trọng trong một số tác phẩm trường ca nổi bật như “Những người đi tới biển” (1977) của Thanh Thảo, “Đường tới thành phố” (1979) của Hữu Thỉnh, và “Con đường của những vì sao” (1981) của Nguyễn Trọng Tạo Ngoài ra, các tác phẩm “Trầm tích” và “Long mạch” (1999) của Hoàng Trần Cương, cùng “Mỗi loài hoa một mặt trời” (1999) của Trần Anh Thái cũng thể hiện rõ nét ảnh hưởng của chất sử thi trong văn học đương đại.

2.1.3 Các xu hướng vận động của trường ca trong văn học Quốc ngữ Việt Nam

Trong nền văn học Quốc ngữ Việt Nam, thơ ca nói chung và trường ca nói riêng thường biểu hiện một số xu hướng vận động như sau:

1 Xu hướng gia tăng độ co giãn, phân cực về lượng thơ và kích cỡ tác phẩm

2 Xu hướng mờ hóa ranh giới giữa (bài) thơ dài và (bản) trường ca

3 Xu hướng hoàn nguyên tính trữ tình (từ tổng hợp các yếu tố tự sự, trữ tình, kịch, … vào tác phẩm thơ đến xu hướng hoàn nguyên tính tính trữ tình)

4 Xu hướng tự do – văn xuôi hóa ngôn ngữ thơ cùng với việc gia tăng tính mới lạ của biểu tượng và sự đa dạng độc đáo của hình ảnh tượng trưng siêu thực [9]

2.1.4 Các tác phẩm trường ca tiêu biểu qua các giai đoạn văn học Quốc ngữ Việt Nam

Trong nền văn học Quốc ngữ Việt Nam, thể loại trường ca đã phát triển qua nhiều giai đoạn với nhiều tác phẩm tiêu biểu Mặc dù không thể liệt kê toàn bộ các tác phẩm trường ca, chúng ta có thể nhấn mạnh một số tác phẩm nổi bật như "Việt Bắc" của Tố Hữu (1954) và "Bài ca chim Chơ – rao" của Thu Bồn Những tác phẩm này không chỉ phản ánh tâm tư, tình cảm của nhân dân mà còn góp phần làm phong phú thêm di sản văn học Việt Nam.

Nhiều tác phẩm trường ca nổi bật đã được sáng tác qua các giai đoạn văn học khác nhau, bao gồm "Đường tới thành phố" của Hữu Thỉnh (1979), "Khối vuông Rubic" của Thanh Thảo (1984), "Trầm tích" của Hoàng Trần Cương (1999), "Gọi tìm xác đồng đội" của Trần Vàng Sao (2012), và "Thời tái chế" của Mai Văn Phấn (2019).

2.1.4.1 Giới thiệu chung về tác giả Thu Bồn và tác phẩm “Bài ca chim Chơ – rao”

Thu Bồn, tên thật là Hà Đức Trọng, sinh năm 1935 tại xã Điện Thắng (nay là Điện Thắng Nam), thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam và mất năm 2003 Ông gia nhập bộ đội từ năm 12 tuổi và là thiếu sinh quân trong đơn vị biệt động chiến đấu Dù sử dụng nhiều bút danh khác nhau như Hà Đức Trọng và Bờ Lốc, nhưng tên tuổi Thu Bồn vẫn nổi bật nhất, được đặt theo tên dòng sông quê hương Là một nhà thơ cách mạng, ông không ngừng sáng tác trong suốt cuộc đời, ngay cả khi đang hành quân hay trong những trận chiến khốc liệt.

Trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước, Thu Bồn hoạt động như một phóng viên chiến trường tại Liên khu 5, sau đó gia nhập Tạp chí Văn nghệ Quân đội thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam Ông là ủy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ miền Trung Trung Bộ và Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV Đặc biệt, trong số 13 nhà văn quân đội được cử vào chiến trường năm 1962, Thu Bồn là một trong 3 người còn sống sót sau chiến tranh.

Một số dấu hiệu vận động của trường ca qua hai tác phẩm “Bài ca chim Chơ – rao” (Thu Bồn, 1962) và “Gọi tìm xác đồng đội” (Trần Vàng Sao, 2012)

chim Chơ – rao” (Thu Bồn, 1962) và “Gọi tìm xác đồng đội” (Trần Vàng

Các xu lựa chọn hướng vận động

“Bài ca chim Chơ – rao”

“Gọi tìm xác đồng đội”

1.Xu hướng gia tăng độ co giãn, phân cực về lượng thơ và kích cỡ tác phẩm

- Hình thức: bài thơ có số dòng cỡ lớn (920 dòng)

+ Số dòng thơ trong bài thơ chưa có sự thay đổi so với giai đoạn trước, vẫn còn giữ được kích cỡ lớn về số dòng;

- Hình thức: bài thơ có số dòng cỡ vừa (526 dòng):

+ Số dòng thơ trong bài thơ giảm đi 1,75 lần so với bài thơ thuộc giai đoạn trước đó – “Bài ca chim Chơ – rao”;

Mỗi dòng trong bài viết đều có số chữ tương đối đồng đều, với độ dài tối thiểu là 6 chữ như “Trời tây xạc xào gió gọi” và tối đa là 12 chữ như “Bao giờ nước lại về liếc dao trên những hòn đá cũ”.

Khoảng cách chênh lệch số chữ giữa dòng thơ dài nhất và dòng thơ ngắn nhất là gấp 2 lần.

Bài thơ vẫn giữ nguyên số lượng cỡ lớn, không có nhiều thay đổi về số dòng thơ; số chữ trong mỗi dòng và tổng số dòng đều tương đối đồng đều.

- Nội dung: bài thơ chỉ xoay quanh một nội dung chính là tố cao tội ác của đế quốc trên mảnh đất quê hương mình – mảnh đất Tây

+ Số chữ trong mỗi dòng cũng có sự thay đổi, không đều nhau, có dòng chỉ có 01 chữ:

“giết”, có dòng lên đến

24 chữ (gồm chữ và số):

Vào tháng 6 năm 1965, một người đã bị bắt và vượt ngục lên núi, nơi có những tiếng xì xào bàn tán về lý lịch không rõ ràng của người này Sự chênh lệch số chữ giữa dòng thơ dài nhất và dòng thơ ngắn nhất trong tác phẩm là gấp 24 lần, tạo nên sự độc đáo trong cách thể hiện.

=> Đã có sự thay đổi nhiều về số lượng các dòng thơ trong bài thơ, số chữ trong một dòng thơ

- Nội dung: bài thơ có sự kết hợp của nhiều nhân vật, mỗi nhân vật là một hoàn cảnh khác

Nguyên kiên cường, không hàm chứa nhiều cốt truyện khác nhau; các nhân vật trung tâm được đề cập đến khá cụ thể, chi tiết trong bài thơ

Mạch truyện của tác phẩm "Hùng, Rin, Sao" diễn ra theo hướng đơn tuyến, tập trung vào những nhân vật đã hy sinh cho nền độc lập dân tộc và là nạn nhân của cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa Trong khi đó, mạch truyện đa tuyến lại xuất hiện với nhiều nhân vật, nhưng hình ảnh của họ chưa được miêu tả cụ thể và chân thực, chỉ dừng lại ở mức điểm danh sơ bộ Các mốc thời gian trong câu chuyện cũng được đề cập một cách khác nhau, tạo nên sự đa dạng trong cách tiếp cận nội dung.

Lê Văn Một, người quê Thái Bình, đã trải qua một cuộc đời đầy bi thương Ông sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn khi mẹ đẻ rơi ngoài ruộng trong lúc đi mót lúa Năm 1964, ông bị bắt vào lính và đã bị thương tại A-bia Sau Tết Mậu Thân 1968, ông qua đời trên đường được chuyển ra Bắc, khi xác đã có mùi, nằm một mình trên võng giữa rừng.

Độ co giãn về mặt nội dung của bài viết được duy trì ổn định, không xảy ra tình trạng chồng chéo Bên cạnh đó, việc phong liệt sĩ được thực hiện thông qua việc treo bằng tại Văn phòng Ủy ban nhân dân xã.

Con tôi tên là Phan Văn Tốt, đã phục vụ với cấp bậc trung sĩ và hy sinh vào năm 1968 tại Quảng Trị Tôi mong ai biết thông tin về nơi chôn cất của con tôi hãy cho tôi biết, vì tôi chỉ còn một mình và con là tất cả đối với tôi Tôi là Phan Văn Sáu.

72 tuổi ăn mày ở thị xã Phú Thọ”

Tác phẩm này có sự giãn nở rõ rệt với nhiều nhân vật và các mốc thời gian khác nhau Trong khi "Bài ca chim Chơ- rao" chỉ có 3 đến 5 nhân vật chính, thì ở đây, số lượng nhân vật xuất hiện rất phong phú và đa dạng.

Bài viết giới thiệu từ 10 đến 20 nhân vật, mỗi nhân vật đại diện cho một hoàn cảnh đặc biệt khác nhau Mặc dù vậy, tất cả họ đều cùng hướng tới một nội dung chính, đó là tạo nên bức tranh về “xác người”, nhằm tố cáo những tội ác của đế quốc xâm lược.

2 Xu hướng tự do – văn xuôi hóa ngôn ngữ thơ cùng với việc gia tăng tính mới lạ của biểu tượng và sự đa dạng độc đáo của hình ảnh tượng trưng siêu thực.

Hình thức thơ tự do vẫn chưa phát triển mạnh mẽ, mặc dù các câu thơ không bị giới hạn về số lượng chữ như các thể thơ Đường luật Tuy nhiên, chúng vẫn có sự hiệp vần và giữ được tính thi ca Ngôn ngữ thơ vẫn còn mờ nhạt và chưa thể hiện rõ nét, trong khi cảm xúc của nhân vật được bộc lộ một cách gián tiếp qua ngôn ngữ thơ.

Hình thức của bài thơ thể hiện xu hướng tự do và văn xuôi hóa rõ nét, với cấu trúc câu có sự co giãn không đều, từ những câu dài lên tới 24 chữ cho đến những câu ngắn chỉ 1 chữ Bài thơ giống như những trang nhật ký ghi lại các sự kiện thường nhật, ngôn ngữ không còn mang tính chất thi ca mà chuyển dần sang ngôn ngữ tự sự, đôi khi còn có sự kết hợp với ngôn ngữ đời thường.

● “Máy rú, xe từ từ lăn bánh

Hai chiến sĩ điềm nhiên đến pháp trường

Hùng, Rin nhìn trời mây cây cỏ

Lần cuối cùng vĩnh biệt quê hương.”

● “Tấm áo mẹ, con không bao giờ mặc nữa Ðể dành cho em con mặc buổi ra khơi

Tấm áo quê nhà che bao nắng gió

Vững mái chèo, bão táp chớ buông rơi.”

● “Xe cuốn bụi mờ sương đục

Sao dang tay muốn bứt dây xiềng

Cô muốn bẻ rào ly song sắt

Bốn phía tường giam cây lá ngả nghiêng.”

Sao hát như xé toang ngữ sinh hoạt, thể hiện cảm xúc trực tiếp của nhân vật trữ tình trong tác phẩm, tương tự như lời ăn tiếng nói hàng ngày.

"Pháo sáng nổ trên đầu, tôi bò qua hàng rào kẽm gai và nghe tiếng mìn nổ cùng với tiếng la hét của mọi người Sau đó, tôi không còn nhớ gì nữa về đơn vị của mình: B4 K15 tại chiến trường Tây Nguyên."

Một mụ già tội nghiệp thường xuất hiện ở chợ Mía Sơn Tây vào giữa trưa, ngồi bệt xuống đất và thể hiện nhiều cảm xúc khác nhau như khóc, cười và la hét Hai con mắt của mụ như đứng tròng khi gọi tên Lê Thị Cam, thể hiện nỗi đau và sự mất mát trong lòng.

Bài ca đất nước anh hùng

Tiếng hát đau thương cháy khát

Của con tim nức nở đang rung.”

● “Bến thuyền xa gió kéo dài ngọn lửa

Chớp xé trời tung thuyền lên nghiêng ngửa bão dông

Con cá Kình lao mình trong đảo sóng

Lướt đá ghềnh bọt trắng nước mênh mông.”

-Nội dung: Hình ảnh tượng trưng siêu thực trong bài thơ chính là

Chơ – rao”, tượng trưng cho sức mạnh, dũng mãnh của con người Tây

Ngày đăng: 27/02/2022, 15:13

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1]. Trần Đình Sử (2018). Lý luận văn học – Tác phẩm và thể loại văn học, Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận văn học – Tác phẩm và thể loại văn học
Tác giả: Trần Đình Sử
Nhà XB: Nhàxuất bản Đại học Sư Phạm
Năm: 2018
[2]. Hoài Anh (2001), Tìm hoa quá bước, NXB Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hoa quá bước
Tác giả: Hoài Anh
Nhà XB: NXB Văn học
Năm: 2001
[3]. Lại Nguyên Ân (3/2017). 150 thuật ngữ văn học. Nhà xuất bản Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: 150 thuật ngữ văn học
Nhà XB: Nhà xuất bản Văn học
[4]. Nguyễn Minh Châu (2004). Dấu chân người lính, Nhà xuất bản Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dấu chân người lính
Tác giả: Nguyễn Minh Châu
Nhà XB: Nhà xuất bản Văn học
Năm: 2004
[5]. Bảo Ninh (2017), Nỗi buồn chiến tranh, Nhà xuất bản trẻ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nỗi buồn chiến tranh
Tác giả: Bảo Ninh
Nhà XB: Nhà xuất bản trẻ
Năm: 2017
[7]. Nguyễn Thành Thi. “Trường ca hiện đại Việt Nam nhìn từ sự vận động, tương tác thể loại”, Sài Gòn tháng 7 năm 2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Trường ca hiện đại Việt Nam nhìn từ sự vận động,tương tác thể loại”
[9]. Nguyễn Thành Thi. “Bài giảng về các xu hướng vận động của trường ca”, Youtube Nguyễn Thành Thi, năm 2020 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Bài giảng về các xu hướng vận động của trường ca”
[10]. thivien.net. Bài thơ “Bài ca chim Chơ – rao” (Thu Bồn – 1962), bài đăng năm 2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Bài ca chim Chơ – rao”
[11]. thivien.net. Bài thơ “Gọi tìm xác đồng đội” (Trần Vàng Sao – 2012), bài đăng năm 2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Gọi tìm xác đồng đội”
[12]. Lại Thị Hồng Vân (2001). Chất sử thi và chất trữ tình trong tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu, Luận án Thạc sĩ Ngữ văn. Trường Đại học sư phạm TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chất sử thi và chất trữ tình trong tiểu thuyếtNguyễn Minh Châu
Tác giả: Lại Thị Hồng Vân
Năm: 2001
[13]. Nguyễn Minh Châu (2004). Dấu chân người lính. Nhà xuất bản Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dấu chân người lính
Tác giả: Nguyễn Minh Châu
Nhà XB: Nhà xuất bản Văn học
Năm: 2004
[14]. Nguyễn Thành Thi (2008). “Lược đồ” văn học quốc ngữ Việt Nam trước 1945 nhìn từ quá trình hình thành và tương tác thể loại. Tạp chí khoa học ĐHSP TP.HCM, 15, 21-36 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Lược đồ” văn học quốc ngữ Việt Nam trước1945 nhìn từ quá trình hình thành và tương tác thể loại
Tác giả: Nguyễn Thành Thi
Năm: 2008
[15]. Nguyễn Thanh Tú (26/09/2013). Cảm hứng sử thi kỳ 2. Báo quân đội nhân dân Việt Nam, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cảm hứng sử thi kỳ 2
[8]. Nguồn báo mạng. https://www.nhandan.com.vn/cuoituan/item/35079702-su-phat-trien-cua truong-ca.html Link

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w