Quan niệm và nhận dạng về nghèo đói
Quan niệm về nghèo đói
Nghèo được định nghĩa bởi Wikipedia là tình trạng thiếu cơ hội để sống một cuộc sống đạt tiêu chuẩn tối thiểu Các tiêu chuẩn này và nguyên nhân dẫn đến nghèo đói có sự khác biệt theo từng địa phương và thời gian.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), nghèo được định nghĩa là tình trạng thu nhập thấp, cụ thể là những người có thu nhập hàng năm dưới một nửa mức thu nhập bình quân đầu người (PCI) của quốc gia.
Vào tháng 9 năm 1993, tại hội nghị do Uỷ ban Kinh tế xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Bangkok, Thái Lan, các quốc gia tham gia đã thống nhất rằng nghèo đói là tình trạng mà một bộ phận dân cư không thể đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người Những nhu cầu này chịu ảnh hưởng bởi trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của từng vùng, được xã hội công nhận.
Khái niệm nghèo không chỉ đơn thuần là thiếu thốn về vật chất mà còn bao gồm các khía cạnh khác như giáo dục, sức khỏe và khả năng dễ bị tổn thương Theo Ngân hàng Thế giới, nghèo là một khái niệm rộng, phản ánh sự phụ thuộc vào nhu cầu của con người ở mỗi giai đoạn phát triển và sự khác biệt văn hóa giữa các vùng miền Nhu cầu cơ bản của con người thay đổi theo nền văn hóa và giai đoạn kinh tế, vì vậy nghèo không chỉ được đo bằng thu nhập mà còn liên quan đến dinh dưỡng, sức khỏe, quyền phát ngôn và quyền lực.
Quan niệm về nghèo ở Việt Nam được hiểu là tình trạng mà một bộ phận dân cư chỉ có khả năng đáp ứng một phần các nhu cầu cơ bản, với mức sống thấp hơn mức tối thiểu của cộng đồng Đói được định nghĩa là mức sống dưới ngưỡng tối thiểu, không đủ để duy trì cuộc sống Khái niệm nghèo đói không có sự khác biệt lớn giữa các quốc gia hay nhóm dân cư, với tiêu chí chính là mức thu nhập hoặc chi tiêu cho các nhu cầu thiết yếu như ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hóa, và giao tiếp xã hội Sự khác biệt chỉ nằm ở mức độ thỏa mãn các nhu cầu này, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của từng vùng, quốc gia Có hai loại nghèo được phân loại là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Roberd McNamara định nghĩa nghèo tuyệt đối là tình trạng sống ở ranh giới tồn tại, nơi những người nghèo phải vật lộn để sinh tồn trong điều kiện thiếu thốn tồi tệ Họ trải qua sự bỏ bê và mất phẩm giá, điều này vượt xa những gì mà giới trí thức có thể tưởng tượng về hoàn cảnh của mình.
Ngân hàng Thế giới xác định chuẩn nghèo tuyệt đối là mức thu nhập 1 đô la Mỹ mỗi ngày, tính theo sức mua tương đương, nhằm đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu.
Nghèo tương đối, theo từ điển Bách khoa toàn thư Wikipedia, được định nghĩa là tình trạng thiếu hụt các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những nhóm xã hội nhất định so với mức độ sung túc chung của xã hội Tình trạng này có thể được xem là khách quan, nghĩa là nó tồn tại độc lập với cảm nhận của những người trong cuộc Ngược lại, nghèo tương đối chủ quan xảy ra khi những cá nhân cảm thấy mình nghèo dù không có sự xác định khách quan Ngoài việc thiếu thốn về vật chất, sự thiếu hụt tài nguyên phi vật chất ngày càng trở nên quan trọng hơn trong bối cảnh hiện nay.
Quan niệm đơn giản cho rằng
Nghèo tuyệt đối là tình trạng mà một bộ phận dân cư không thể đáp ứng những nhu cầu tối thiểu thiết yếu cho cuộc sống, bao gồm ăn uống, mặc áo, chăm sóc sức khỏe và giáo dục.
+ Nghèo tương đối: Là sự so sánh tình trạng kinh tế của người/nhóm cá nhân này với người/nhóm cá nhân khác.
Chuẩn nghèo và phương pháp xác định
Chuẩn nghèo là một thước đo để xác định ai nghèo, ai không nghèo, điều đó cũng có nghĩa quan trọng cho việc:
+ Xác định đối tượng cần trợ giúp phù hợp
+ Hoạch định chính sách và các giải pháp trợ giúp
+ Tổ chức thực hiện giúp đối tượng tiếp cận với các chính sách trợ giúp
Có hai phương pháp xác định chuẩn nghèo:
- Phương pháp dựa vào nhu cầu chi tiêu ;
- Phương pháp so sánh với thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình;
1.2.1 Phương pháp xác định chuẩn nghèo dựa vào nhu cầu chi tiêu: Đây là phương pháp do các chuyên gia Ngân hàng thế gới (WB) khởi xướng và cũng là phương pháp được nhiều quốc gia cũng như các tổ chức Quốc tế công nhận và sử dụng trong việc xác định chuẩn nghèo ở cấp quốc gia hoặc sử dụng trong các dự án lớn Nội dung cơ bản của phương pháp này là dựa vào nhu cầu chi tiêu để bảo đảm các nhu cầu cơ bản của con người về ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hoá, đi lại và giao tiếp xã hội.
Tổng chi tiêu bao gồm chi tiêu cho lương thực thực phẩm (LTTP) và chi tiêu cho phi lương thực thực phẩm Phương pháp này có nhiều ưu điểm như cơ sở khoa học đáng tin cậy, độ chính xác cao và phản ánh thực trạng cuộc sống Nhiều quốc gia đã công nhận và áp dụng phương pháp này, tạo điều kiện cho việc so sánh với các quốc gia khác Đặc biệt, khi điều chỉnh chuẩn nghèo hàng năm, chỉ cần điều chỉnh giá cả của rổ hàng hóa.
Công thức tính: CNj = (CLTTPj-1 * CSG + CLTTPj –1 ) : 70 * 100
Trong đó: CNj : chuẩn nghèo năm thứ j
CTLTTP: chi tiêu cho lương thực thực phẩm
CSG : tốc độ giá gia tăng của rổ hàng hoá
Chia 70 và nhân 100 là chi tiêu cho LTTP chiếm 70% tổng chi tiêu
Phương pháp này gặp nhiều nhược điểm, bao gồm sự phức tạp trong việc tính toán giá cả rổ hàng hóa, do sự khác biệt giá giữa các vùng miền, khu vực thành thị và nông thôn Việc xác định giá trị trung vị hoặc trung bình hợp lý trở nên khó khăn, dẫn đến sự không hợp lý của chuẩn nghèo tại địa phương, mặc dù nó có thể có ý nghĩa chung ở cấp quốc gia Ngoài ra, việc thu thập thông tin về chi tiêu thực tế của cư dân cũng rất phức tạp, chỉ một số ít người có khả năng thực hiện, trong khi chi phí điều tra lại cao Rổ hàng hóa cần phải thường xuyên thay đổi và dễ bị ảnh hưởng bởi yếu tố chủ quan Hơn nữa, giá cả hàng hóa tiêu dùng và không tiêu dùng luôn biến động và khác nhau giữa thành phố và nông thôn, cũng như giữa các vùng, làm gia tăng khả năng sai số trong quá trình tính toán.
1.2.2.Phương pháp xác định chuẩn nghèo dựa vào so sánh với thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình
Phương pháp xác định chuẩn nghèo được áp dụng tại nhiều nước phát triển ở Châu Âu và Mỹ, dựa trên tiêu chí thu nhập Theo đó, người nghèo được hiểu là những người có thu nhập không đủ để trang trải chi phí cho lương thực thực phẩm và các dịch vụ xã hội cơ bản Chuẩn nghèo được xác định bằng khoảng 1/2 thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình trong cả nước.
Công thức tính cụ thể cho nước ta như sau:
Công thức tính: CNj = ( TNj /2 + TNj/3) : 2
Trong đó: CNj là chuẩn nghèo năm thứ j
TNj đại diện cho thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình trong năm thứ j Chuẩn nghèo được xác định ở mức giữa 1/2 và 1/3 thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình.
Phương pháp này nổi bật với sự đơn giản và dễ tính toán, đồng thời liên kết chặt chẽ với tốc độ tăng thu nhập của dân cư, giúp tiết kiệm chi phí nhờ vào việc sử dụng số liệu có sẵn và cho phép các địa phương tự xác định chuẩn nghèo Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp là sự điều chỉnh chuẩn nghèo có độ dao động lớn, từ 1/2 đến 1/3, dễ bị ảnh hưởng bởi ý muốn chủ quan của người tính toán, và việc so sánh giữa các quốc gia và vùng miền không đảm bảo tính đồng nhất.
1.2.3 Phương pháp điều chỉnh chuẩn nghèo
Phương pháp điều chỉnh giá cả rổ hàng hóa và giá các mặt hàng phi lương thực thực phẩm cần được thực hiện định kỳ, thường là 2 đến 3 năm một lần, dựa trên kết quả điều tra thực tế Nếu khoảng thời gian giữa các lần điều chỉnh quá dài, cần xem xét lại cơ cấu rổ hàng hóa để đảm bảo tính chính xác và phù hợp với tình hình thực tế.
Bước một là điều chỉnh số lượng, khối rổ hàng hoá ( nếu cần thiết)
Bước hai là tính giá cả rổ hàng hoá mới điều chỉnh
Bước ba là điều chỉnh tỷ lệ chi tiêu cho lương thực, thực phẩm và phi lương thực thực phẩm Thông thường, khi kinh tế phát triển, tỷ lệ chi cho nhu cầu lương thực thực phẩm có xu hướng giảm, trong khi tỷ lệ chi cho nhu cầu phi lương thực thực phẩm lại tăng lên.
Bước bốn là tính giá cả chi tiêu cho phi LTTP
Bước năm là tính tổng nhu cầu chi tiêu mới (chuẩn nghèo mới)
Rổ hàng hoá được áp dụng tính chuẩn nghèo có khoảng 42 mặt hàng nhằm đảm bảo cung cấp 2100 K.calo cho một người trong một ngày.
Từ năm 2004 đến nay, nước ta đã 6 lần điều chỉnh chuẩn nghèo, cụ thể như sau:
- Năm 2004 là 170 nghìn đồng 1 người 1 tháng đối với khu vực nông thôn và
220 nghìn đồng 1 người 1 tháng đối vớikhu vực thành thị.
- Năm 2006 là 200 nghìn đồng 1 người 1 tháng đối với khu vực nông thôn và
260 nghìn đồng 1 người 1 tháng đối với khu vực thành thị.
- Năm 2008 là 290 nghìn đồng 1 người 1 tháng đối với khu vực nông thôn và
370 nghìn đồng 1 người 1 tháng đối với khu vực thành thị.
- Năm 2010 là 350 nghìn đồng 1 người 1 tháng đối với khu vực nông thôn và
440 nghìn đồng 1 người 1 tháng đối với khu vực thành thị.
Giai đoạn 2011-2015: (Quyết định số 09/2011/ QĐ-TTg )
Chuẩn hiện hành: 500.000VND đối với khu vực thành thị và 400.000VND đối với khu vực nông thôn.
Thực trạng nghèo đói
1.3.1 Vấn đề nghèo trên thế giới
Theo Ngân hàng Thế giới, năm 1981, thế giới có 1,5 tỷ người nghèo, chiếm 40% dân số toàn cầu Đến năm 1993, con số này giảm xuống còn 1,314 tỷ người, tương đương 29% dân số Đến năm 2001, 1,1 tỷ người (21% dân số) sống với thu nhập dưới 1 đô la Mỹ theo sức mua địa phương Phần lớn người nghèo tập trung ở Châu Phi và Châu Á Mặc dù tỷ lệ nghèo đói ở Đông Á giảm mạnh từ 58% xuống còn 16% nhờ tăng trưởng kinh tế, nhưng số lượng người nghèo nhất lại gia tăng ở Châu Phi, gần gấp đôi so với trước đây.
Từ năm 1981 đến 2001, khu vực phía Nam sa mạc Sahara chứng kiến sự gia tăng đáng kể về số lượng người nghèo Tại Đông Âu và Trung Á, tỷ lệ người nghèo đã tăng lên 6% vào năm 2004 Nếu xác định ngưỡng nghèo là 2 đô la Mỹ mỗi ngày, tổng số người nghèo trên toàn cầu lên tới 2,7 tỷ, chiếm gần một nửa dân số thế giới.
Năm 2008, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính và lương thực toàn cầu, số lượng và tỷ lệ người sống dưới 1,25 USD/ngày đã giảm ở mọi khu vực Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới (WB) vào năm 2010, tình trạng nghèo đói toàn cầu chỉ còn bằng một nửa so với năm 1990 Điều này cho thấy thế giới đã đạt được "mục tiêu phát triển thiên niên kỷ" của Liên Hợp Quốc về giảm nghèo đói xuống còn một nửa từ năm 1990 đến 2015, sớm hơn 5 năm so với kế hoạch Mặc dù gặp phải cuộc khủng hoảng kép, tốc độ giảm nghèo dài hạn vẫn duy trì trên 1% trong giai đoạn 2008-2010.
1.3.2 Vấn đề nghèo ở Việt Nam
Theo báo cáo của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc, vào năm 2004, chỉ số nghèo tổng hợp (Human Poverty Index - HPI) của Việt Nam đứng thứ 41 trong tổng số 95 quốc gia Thông tin này phản ánh tình hình nghèo đói tại Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu.
Năm 2002, tỷ lệ nghèo theo chuẩn quốc gia của Việt Nam là 12.9%, trong khi theo chuẩn thế giới là 29%, và tỷ lệ nghèo lương thực ước tính đạt 10.87% Chuẩn nghèo ở Việt Nam đã trải qua nhiều lần thay đổi, và bảng dưới đây minh họa tỷ lệ nghèo theo khu vực trong các năm 2004, 2006, 2008 và 2010.
Tỷ lệ hộ nghèo chia theo khu vực Đơn vị tính: %
8 vùng Đồng bằng sông Hồng 12.
0 Duyên hải Nam Trung Bộ 21.
2 0 2 Đông Nam Bộ 6.1 4.6 3.7 2.2 3.4 Đồng bằng sông Cửu Long 15.
Nguồn: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (dựa vào Khảo sát mức sống gia đình 2010_Tổng cục Thống Kê)
Theo kết quả điều tra năm 2010, cả nước có 3.055.560 hộ nghèo, chiếm 14,2% tổng số hộ, cùng với 1.612.381 hộ cận nghèo, tương đương 7,53% Số liệu này cho thấy tình trạng nghèo đói và cận nghèo vẫn ở mức cao, với sự phân bố khác nhau giữa các vùng miền.
Số hộ nghèo và cận nghèo trong cả nước năm 2010
STT Tỉnh/Thành phố Hộ nghèo Hộ cận nghèo
Tổng số Tỷ lệ Tổng số Tỷ lệ
II Miền núi Tây Bắc 236.365 39,16 80.118 13,27
III Đồng bằng Sông Hồng 409.823 8,30 261.586 5,30
VIII ĐB sông Cửu Long 575.880 13,48 321.905 7,53
Nguồn: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, 2011
Nguyên nhân
1.4.1 Đặc điểm của người nghèo
Sau gần 30 năm đổi mới, thu nhập và mức sống của người dân Việt Nam đã được cải thiện đáng kể Trước đây, các chương trình giảm nghèo chủ yếu tập trung vào nhu cầu lương thực thực phẩm, nhưng hiện nay, với sự phát triển kinh tế, nhu cầu về nhà ở, y tế, giáo dục và giao tiếp xã hội cũng ngày càng tăng Tuy nhiên, sự phân hóa giàu-nghèo vẫn gia tăng, dẫn đến sự khác biệt trong cơ hội phát triển và thụ hưởng thành quả giữa nhóm giàu và nhóm nghèo.
Nhiều vùng miền, đặc biệt là khu vực dân tộc khó khăn, vẫn phải đối mặt với tình trạng nghèo đói đa dạng Người dân thường thiếu ăn trong một vài tháng mỗi năm, sống trong những ngôi nhà tạm bợ và có tỷ lệ trẻ em bỏ học cao Ngoài ra, người nhập cư tại đô thị thường gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm ổn định với thu nhập thấp và không được tiếp cận bình đẳng với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục.
Trước khi thực hiện chính sách "đổi mới", nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn do xuất phát điểm thấp, phải trải qua hơn 30 năm chiến tranh Nguồn lực của Nhà nước chưa đủ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, cùng với điều kiện tự nhiên không thuận lợi ở một số vùng miền.
- Phong tục, tập quán lạc hậu tồn tại hàng thế kỷ nay chưa dỡ bỏ được.
- Thời gian dài nền kinh tế chậm phát triển (Cơ chế bao cấp)
Khi chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường, nhiều vấn đề xã hội mới phát sinh, đặc biệt là tình trạng nghèo đói Đây chính là mặt trái của quá trình hội nhập kinh tế, đòi hỏi sự chú ý và giải quyết kịp thời để đảm bảo sự phát triển bền vững cho xã hội.
- Khủng hoảng kinh tế thế giới ảnh hưởng đến các Quốc gia
- Nạn tham nhũng, lãng phí đâu đó còn tồn tại
- Người nghèo vẫn khó tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản
- Do tác động của cơ chế chính sách:
Cơ chế chính sách hiện nay chưa phù hợp và kịp thời với điều kiện kinh tế xã hội mới, dẫn đến việc chi tiêu cho y tế, giáo dục và đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước không được cân đối giữa các cấp hành chính, vùng miền và các ngành kinh tế, đặc biệt là giữa nông nghiệp và công nghiệp, cũng như giữa khu vực nông thôn và thành thị.
Kinh tế phát triển không bền vững, với tăng trưởng chủ yếu nhờ vào vốn đầu tư trực tiếp và đầu tư vào con người, nhưng hiệu quả còn hạn chế Số lượng lao động được đào tạo chưa đáp ứng đủ nhu cầu thị trường, trong khi nông dân gặp khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng từ ngân hàng nhà nước.
* Nhóm nguyên nhân chủ quan
- Thiếu vốn sản xuất – kinh doanh
- Thiếu kiến thức sản xuất – kinh doanh
- Thiếu thông tin về thị trường
- Thiếu đất và không có đất sản xuất
- Đông con, thiếu lao động
- Không tìm được việc làm
- Gia đình có người mắc tệ nạn xã hội
- Cá biệt có người lười lao động
Trong xã hội hiện nay, người nghèo thường gặp nhiều khó khăn và thiệt thòi, đặc biệt trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo Họ gặp trở ngại trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản và tham gia vào thị trường lao động, tạo nên một vòng luẩn quẩn của nghèo đói.
VÒNG LUẨN QUẨN CỦA NGHÈO ĐÓI
Tệ nạn xã hội Thất học
Chủ trương và các hoạt động xoá đói giảm nghèo
Nhận thức về chủ trương xóa đói giảm nghèo
Công tác xã hội đã có một lịch sử lâu dài trong việc hỗ trợ giải quyết nghèo đói, từ việc hỗ trợ cá nhân đến phát triển cộng đồng và xây dựng chính sách xã hội xoá đói giảm nghèo Với vai trò quan trọng và nhân văn, công tác xã hội hướng đến sự công bằng xã hội, trong đó nghèo đói được coi là một trong những vấn đề chính cản trở mục tiêu này.
Giảm nghèo là một vấn đề toàn cầu, ảnh hưởng không chỉ đến Việt Nam và các quốc gia đang phát triển, mà còn là thách thức đối với các nước phát triển.
Giảm nghèo là một yêu cầu cấp bách của toàn nhân loại và tại Việt Nam, đây là một chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước Quá trình giảm nghèo không chỉ là một chính sách mà còn là một cuộc cách mạng xã hội sâu sắc, thu hút sự tham gia của quần chúng, đặc biệt ở các địa phương Để thực hiện hiệu quả mục tiêu này, cần xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ và phát triển nguồn lực, trong đó nguồn nhân lực từ Trung ương đến địa phương, cũng như sự phối hợp giữa các nhà hoạch định chính sách và những người tổ chức thực hiện ở cấp cơ sở, đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Khi Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, tình trạng phân hoá giàu nghèo diễn ra nhanh chóng, đòi hỏi phải tích cực xoá đói giảm nghèo và giải quyết các vấn đề xã hội để đạt được cuộc sống ấm no, tốt đẹp Trong giai đoạn 1996-2000, nhà nước đã triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có chương trình xoá đói giảm nghèo, coi đây là vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng Để xoá đói giảm nghèo hiệu quả, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, đặc biệt là tại các vùng sâu, vùng xa, hải đảo Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển công nghiệp nông thôn và mở rộng thị trường là giải pháp thiết yếu để tạo việc làm và thu hút lao động, từ đó góp phần xoá đói giảm nghèo Tiếp tục đổi mới nền kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá dưới sự điều tiết của nhà nước sẽ là con đường giúp mọi người vượt qua đói nghèo và tăng cường tiềm lực kinh tế của nhà nước trong công cuộc xoá đói giảm nghèo.
Hồ Chủ Tịch đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giúp đỡ người dân vươn lên trong cuộc sống Chương trình xoá đói giảm nghèo không chỉ tạo ra thu nhập ổn định cho nông dân mà còn là nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững Điều này góp phần vào sự nghiệp đổi mới đất nước và mang lại ý nghĩa chính trị xã hội to lớn.
Xoá đói giảm nghèo không chỉ nâng cao trình độ dân trí và chăm sóc sức khoẻ nhân dân, mà còn giúp họ tự vươn lên, hoà nhập cộng đồng và xây dựng mối quan hệ xã hội lành mạnh Điều này giảm khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, ổn định tinh thần và củng cố niềm tin vào đường lối của Đảng và Nhà nước Đồng thời, việc này cũng hạn chế các tệ nạn xã hội và bảo vệ môi trường Nếu không giải quyết thành công các nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo, nguy cơ phân hoá giàu nghèo và bần cùng hoá sẽ gia tăng, đe doạ ổn định chính trị và xã hội, làm chệch hướng phát triển kinh tế - xã hội Chương trình xoá đói giảm nghèo không thành công sẽ cản trở công bằng xã hội và phát triển bền vững, từ đó không thể khai thác hiệu quả nguồn lực con người, ảnh hưởng đến sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và khả năng phát triển tương đương với quốc tế và khu vực.
Đảng và Nhà nước ta đã triển khai công tác xóa đói giảm nghèo, đạt được nhiều kết quả tích cực, đặc biệt trong giai đoạn 2006-2010 Thời gian này chứng kiến sự thành công trong việc xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách và giải pháp nhằm tăng cường năng lực và đẩy mạnh công tác xã hội hóa Kết quả là tốc độ giảm nghèo diễn ra nhanh chóng, theo tổng kết của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
Từ năm 2006 đến 2010, khoảng 5 triệu hộ nghèo đã được vay vốn tín dụng ưu đãi với mức bình quân 6-7 triệu đồng mỗi hộ Trong giai đoạn này, 30.000 lớp tập huấn kỹ thuật đã được tổ chức, cùng với 8.500 mô hình trình diễn, thu hút 3 triệu lượt người nghèo tham gia Khoảng 100.000 lao động nghèo đã được dạy nghề miễn phí, trong đó 60% đã tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm Mô hình giảm nghèo đã được triển khai tại 218 xã thuộc 35 tỉnh, với 27.566 hộ tham gia, trong đó 70% là hộ nghèo Hơn 2.000 công trình hạ tầng phục vụ sản xuất đã được đầu tư cho 273 xã đặc biệt khó khăn 52 triệu lượt người nghèo đã được cấp thẻ bảo hiểm y tế, 8 triệu học sinh nghèo được miễn giảm học phí, và 2,8 triệu học sinh nhận hỗ trợ sách vở Ngoài ra, 140.000 cán bộ giảm nghèo đã được tập huấn nâng cao năng lực, và khoảng 350.000 hộ nghèo đã nhận được hỗ trợ nhà ở.
Trong giai đoạn II của Chương trình 134,135, Chính phủ đã phân bổ 14.024,7 tỷ đồng cho chương trình 135 và 4.482 tỷ đồng cho chương trình 134 từ năm 2004 đến 2009 Kết quả cho thấy đã có 8.237 công trình hạ tầng cơ sở được xây dựng, trong đó 5.465 công trình đã hoàn thành và đưa vào sử dụng Chương trình 134 đã hỗ trợ 373.400 nhà ở cho hộ nghèo dân tộc thiểu số và giao 1.552 ha đất cho 71.713 hộ.
(Số liệu đánh giá sau 4 năm 2005-2009 chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2005-2010-Bộ Lao động Thương binh và Xã hội)
Mặc dù được cộng đồng quốc tế và người dân trong nước ghi nhận những thành tựu đáng kể trong công tác xóa đói, giảm nghèo, nhưng hiện tại, Việt Nam vẫn đối mặt với một số thách thức trong nỗ lực này.
Tốc độ giảm nghèo ở Việt Nam không đồng đều giữa các khu vực, với tỷ lệ nghèo ở nông thôn cao gấp đôi so với thành thị Tại miền núi, tỷ lệ này cũng cao hơn từ 1,7 đến 2 lần so với mức trung bình toàn quốc Đặc biệt, quá trình giảm nghèo ở các nhóm dân tộc thiểu số diễn ra chậm hơn.
Kết quả giảm nghèo hiện nay chưa bền vững, với tỷ lệ hộ tái nghèo dao động từ 7 đến 10% Bên cạnh đó, công tác xóa đói giảm nghèo còn gặp khó khăn do những hạn chế trong các chương trình và chính sách hiện hành.
Bà Nguyễn Thị Kim Ngân cho biết rằng chương trình giảm nghèo hiện nay chưa đạt tính toàn diện, với nhiều chính sách ngắn hạn và chồng chéo, thiếu sự kết nối chặt chẽ nhằm hướng đến mục tiêu giảm nghèo Bên cạnh đó, những hạn chế trong công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức cũng là rào cản lớn trong nỗ lực giảm nghèo.
Các hoạt động của chương trình xóa đói giảm nghèo
Bao gồm các chính sách và dự án sau:
2.2.1 Chính sách ưu đãi tín dụng cho người nghèo:
Mục tiêu chính là cung cấp tín dụng ưu đãi cho khoảng 3,5-4 triệu hộ nghèo có nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh doanh, với lãi suất thấp và không yêu cầu thế chấp từ ngân hàng.
Vào năm 2005, tổng vốn vay của ngân hàng phục vụ người nghèo đã được nâng lên 10.000 tỷ đồng, chủ yếu thông qua việc huy động từ cộng đồng và vay từ các tổ chức tín dụng ngân hàng Nhà nước đã cấp bù lãi suất chênh lệch huy động và cho vay với tổng số tiền 750 tỷ đồng trong 5 năm Mục tiêu là hỗ trợ khoảng 5 triệu lượt hộ vay, với mức bình quân từ 2-3 triệu đồng mỗi hộ Ngân hàng cam kết đảm bảo vốn vay được cấp đúng đối tượng, sử dụng đúng mục đích, đạt hiệu quả cao và duy trì tài chính lành mạnh.
2.2.2 Chính sách hỗ trợ người nghèo về y tế.
Mục tiêu chính của chương trình là hỗ trợ người nghèo trong việc khám chữa bệnh thông qua việc mua thẻ bảo hiểm y tế, cấp thẻ và giấy chứng nhận khám chữa bệnh miễn phí, cũng như tổ chức các hoạt động khám chữa bệnh từ thiện Đồng thời, chương trình còn chú trọng đến việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn.
Cung cấp trang thiết bị và thuốc cho các tuyến y tế cơ sở tại các huyện nghèo là một giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng phục vụ y tế Việc khuyến khích và tăng cường đội ngũ cán bộ y tế cơ sở sẽ góp phần cải thiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng.
Để đảm bảo tài chính hỗ trợ khám chữa bệnh cho người nghèo, cần điều chỉnh và phân bố ngân sách y tế giữa các tỉnh, cũng như điều tiết mức thu viện phí phù hợp giữa các nhóm đối tượng như người giàu, người có khả năng kinh tế và người nghèo.
Chúng tôi kêu gọi cộng đồng tham gia xây dựng quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo, quỹ bảo trợ người nghèo và tổ chức bữa ăn nhân đạo Đồng thời, khuyến khích các đội y tế lưu động phục vụ tại vùng cao, vùng sâu và biên giới hải đảo Bên cạnh đó, cần xác định trách nhiệm của người nghèo trong việc phòng bệnh, tự bảo vệ sức khỏe và chia sẻ một phần kinh phí cho việc khám chữa bệnh.
2.2.3 Chính sách hỗ trợ người nghèo về giáo dục:
Mục tiêu chính là đảm bảo rằng tất cả trẻ em từ các hộ nghèo được cung cấp đầy đủ các điều kiện cần thiết để học tập Chúng tôi hướng tới việc giảm thiểu sự chênh lệch về môi trường học tập và sinh hoạt giữa các trường ở thành phố và nông thôn, cũng như giữa các khu vực đồng bằng, miền núi và các vùng khó khăn so với những vùng phát triển hơn.
Chính sách miễn giảm học phí và các khoản đóng góp cho xây dựng trường lớp nhằm hỗ trợ học sinh tiểu học có hoàn cảnh khó khăn Bên cạnh đó, việc cung cấp vở viết, sách giáo khoa và cấp học bổng cho học sinh nghèo cũng được chú trọng Đặc biệt, các giải thưởng và học bổng được trao cho những học sinh nghèo học khá, học giỏi nhằm khuyến khích tinh thần học tập và tạo điều kiện phát triển cho các em.
Để nâng cao chất lượng giáo dục tại các trường dân tộc nội trú, cần tăng cường cơ sở vật chất nhằm đào tạo cán bộ cho các xã đặc biệt khó khăn Việc cải thiện hạ tầng giáo dục sẽ góp phần tạo ra môi trường học tập tốt hơn, từ đó phát triển nguồn nhân lực chất lượng cho các vùng khó khăn.
Khuyến khích các tổ chức và cá nhân tình nguyện tham gia vào việc nâng cao trình độ học vấn cho người nghèo là rất cần thiết Cần tổ chức các hình thức giáo dục phù hợp nhằm xóa mù chữ và ngăn chặn tình trạng tái mù, như các lớp bổ túc văn hóa, lớp học tình thương và lớp học chuyên biệt.
2.2.4 Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn.
Mục tiêu chính là hỗ trợ các gia đình đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn để ổn định cuộc sống và phát triển sản xuất Chúng tôi hướng tới việc thay đổi phương thức sản xuất lạc hậu, đồng thời hướng dẫn đồng bào tiếp cận các phương thức sản xuất mới Điều này không chỉ giúp nâng cao dân trí mà còn bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, góp phần thực hiện xoá đói giảm nghèo bền vững.
Chúng tôi cam kết hỗ trợ các đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn trong việc ổn định cuộc sống thông qua việc cung cấp lương thực cứu đói, quần áo chống rét, chăn màn và dụng cụ gia đình Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sẽ hỗ trợ xây dựng giếng nước hoặc hệ thống nước tự chảy cho một nhóm hộ gia đình, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo nguồn nước sạch cho sinh hoạt.
Hỗ trợ các gia đình dân tộc đặc biệt khó khăn trong việc phát triển sản xuất để tự đảm bảo cuộc sống là rất quan trọng Trong lĩnh vực nông nghiệp, cần chọn và cung cấp giống cây mới có năng suất cao, khuyến khích thâm canh và tăng vụ lúa nước, lúa nương Đồng thời, tăng cường phát triển đàn gia súc, gia cầm phù hợp với khả năng của từng hộ gia đình, hướng dẫn kỹ thuật và khuyến khích khai hoang ruộng đồng để mở rộng diện tích canh tác Về lâm nghiệp, cần hỗ trợ khoanh nuôi và bảo vệ rừng, cung cấp công cụ sản xuất và thuốc bảo vệ thực vật, mở rộng diện tích trồng rừng, trồng cây công nghiệp, và phát triển mô hình kinh tế VAC.
2.2.5 Chính sách hỗ trợ pháp lý cho người nghèo.
Mục tiêu chính là giúp người nghèo tiếp cận kiến thức pháp luật cơ bản, từ đó nâng cao vai trò của họ trong đời sống kinh tế - xã hội Điều này giúp họ nhận thức rõ hơn về trách nhiệm và quyền lợi của bản thân trong gia đình cũng như cộng đồng.
- Ban hành pháp lệnh về trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thực thi pháp luật
Sổ tay trợ giúp pháp lý đã được phát hành dành cho các chuyên viên và cộng tác viên, cùng với tờ gấp pháp lý nhằm hỗ trợ các tỉnh trong việc tuyên truyền, phổ biến và giải đáp các vấn đề pháp luật.
- Tập huấn nghiệp vụ cho các cán bộ trợ giúp pháp lý cấp TW, tỉnh, huyện, xã.
- Trợ giúp pháp lý ở 61 tỉnh thành, trợ giúp các vụ việc tư vấn pháp lý
2.2.6 Chính sách an sinh xã hội, trợ giúp các đối tượng yếu thế.
Công tác xã hội đối với người nghèo đói
Các phương pháp tiếp cận hỗ trợ người nghèo
Hiện nay, có bốn phương pháp tiếp cận phổ biến trong việc giúp đỡ người nghèo:
Cách tiếp cận đảm bảo quyền con người tập trung vào quyền tồn tại, quyền an toàn về vật chất và sức khỏe, cũng như quyền phát triển toàn diện và bình đẳng.
Cách tiếp cận thứ hai tập trung vào việc đáp ứng các nhu cầu cơ bản, nhằm bảo vệ quyền con người cho người nghèo Điều này tạo điều kiện cho họ phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần và tình cảm.
Cách tiếp cận chia sẻ trách nhiệm xã hội nhấn mạnh tầm quan trọng của cả yếu tố cá nhân và tập thể, khuyến khích sự tương hỗ và hỗ trợ lẫn nhau Phương pháp này nhằm giúp người nghèo vươn lên trong cuộc sống, tạo ra một cộng đồng bền vững và phát triển.
Cách tiếp cận thứ tư nhấn mạnh sự công bằng xã hội, tập trung vào việc tạo ra môi trường thuận lợi cho mọi người tiếp cận các cơ hội về vật chất, giáo dục, y tế, văn hóa và xã hội Đặc biệt, phương pháp này chú trọng đến việc hỗ trợ các nhóm đối tượng yếu thế, nhằm đảm bảo sự phát triển đồng đều cho tất cả.
Định hướng của nghề công tác xã hội với người nghèo
Theo Michael Sherraden, nghề công tác xã hội được định hướng bởi bốn chủ đề cơ bản, nhằm thúc đẩy sự tham gia mạnh mẽ hơn của các chuyên gia trong lĩnh vực này.
Công tác xã hội cung cấp các dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản và giải quyết vấn đề cho những người nghèo, những người đang phải chịu đựng nhiều thiếu thốn Họ thường không có đủ thức ăn, áo ấm và chỗ ở an toàn, dẫn đến việc không đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu cho sự sinh tồn Những khó khăn do nghèo khó mang lại khiến họ gặp nhiều vấn đề, do đó cần có sự hỗ trợ để giải quyết những khó khăn này.
Công tác xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự công bằng xã hội, luôn đồng hành cùng những người nghèo để bảo vệ quyền lợi và vận động chính sách Mục tiêu của công tác xã hội là tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận và chia sẻ các nguồn lực xã hội, từ đó cải thiện chất lượng cuộc sống của họ.
Công tác xã hội không chỉ tập trung vào việc hỗ trợ người nghèo mà còn hướng đến việc thực hiện các quyền con người, như quyền tiếp cận công bằng tới dịch vụ giáo dục và quyền tham gia bình đẳng vào các hoạt động công cộng Bên cạnh đó, công tác xã hội còn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển xã hội bằng cách hỗ trợ người nghèo và cộng đồng, giúp họ phát huy tối đa tiềm năng bản thân, từ đó góp phần vào sự phát triển chung của xã hội.
Các dịch vụ công tác xã hội với giảm nghèo
Trên toàn cầu, các dịch vụ công tác xã hội trong việc giảm nghèo được chia thành hai hình thức tiếp cận chính Hình thức đầu tiên là cung cấp dịch vụ trực tiếp nhằm hỗ trợ cá nhân, gia đình và cộng đồng Hình thức thứ hai tập trung vào việc xây dựng các chính sách và chương trình nhằm giải quyết vấn đề nghèo đói.
- Các dịch vụ công tác xã hội trực tiếp
Các dịch vụ công tác xã hội trực tiếp nhằm hỗ trợ nhu cầu của người nghèo, bao gồm cung cấp thực phẩm, áo ấm, chỗ ở an toàn, và kết nối với dịch vụ chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần Tại Canada, nhiều ngân hàng thực phẩm được thành lập để cung cấp thực phẩm miễn phí cho những người nghèo Nhân viên xã hội cũng tìm kiếm chỗ ở cho người vô gia cư và kết nối họ với dịch vụ chăm sóc sức khỏe khi cần thiết, đồng thời cung cấp tư vấn cho những người gặp vấn đề tâm lý xã hội Đối với gia đình nghèo, họ cung cấp dịch vụ tư vấn và kết nối với các chương trình tài chính để cải thiện tình hình kinh tế Ngoài ra, công tác xã hội còn phát triển cộng đồng, nâng cao nhận thức về vấn đề nghèo và khuyến khích sự hỗ trợ từ cộng đồng đối với người nghèo và gia đình họ.
- Các dịch vụ công tác xã hội liên quan đến chính sách, chương trình xã hội hỗ trợ người nghèo.
Công tác xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng chính sách và chương trình hỗ trợ người nghèo trên toàn thế giới Nhân viên xã hội giúp chính phủ hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và nhu cầu của người nghèo, từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp Ví dụ, họ có thể kiến nghị về nhu cầu tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe miễn phí hoặc các chương trình phát triển cộng đồng nhằm giảm nghèo hiệu quả.
Kinh nghiệm quốc tế về giải quyết vấn đề đói nghèo
Giải quyết đói nghèo ở Thái Lan
Trong thập kỷ 80, tỷ lệ nghèo ở Thái Lan đạt 30% dân số, nhưng đến năm 1996, con số này đã giảm xuống còn 3%, tương đương với 13 triệu người Sự thay đổi này là nhờ vào những biện pháp hiệu quả mà chính phủ Thái Lan đã thực hiện.
- Đối với người nghèo Chính phủ cho vay bằng hiện vật để sản xuất, cho vay vật tư giá rẻ, chất lượng tốt.
Ngân hàng hỗ trợ nông dân bằng cách cho vay vốn với lãi suất thấp (3% năm) và cho phép họ dùng thóc làm tài sản thế chấp Nông dân có thể thu mua các sản phẩm ngũ cốc với giá rẻ, và khi giá thóc tăng, họ sẽ bán thóc để hoàn trả vốn cho ngân hàng.
Chính phủ Thái Lan kết hợp chính sách phát triển quốc gia với phát triển nông thôn nhằm tạo ra những xí nghiệp tại các vùng quê nghèo Mô hình này tập trung vào việc phát triển kinh doanh vừa và nhỏ, đồng thời mở rộng các trung tâm dạy nghề ở nông thôn để giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Chính phủ Thái Lan đã thực hiện chính sách cải cách ruộng đất, cho phép người dân có quyền sở hữu ruộng đất Nhà nước cũng hỗ trợ nông dân mở rộng quy mô sản xuất, khuyến khích họ chuyển hướng sang sản xuất hàng hóa.
Giải quyết đói nghèo ở Trung Quốc
Trung Quốc, quốc gia đông dân nhất thế giới, hiện có khoảng 250 triệu người sống trong cảnh nghèo khó, chiếm khoảng 8,8% dân số theo số liệu của FAO năm 1990 Kể từ những năm 1980, Chính phủ Trung Quốc đã triển khai chương trình xóa đói giảm nghèo với những biện pháp phù hợp, giúp giảm số người nghèo từ 125 triệu vào những năm 1990 xuống còn 65 triệu vào năm 1995.
Trong quá trình phát triển kinh tế, Trung Quốc đã đầu tư mạnh mẽ vào các chương trình hỗ trợ người nghèo nhằm giảm thiểu tình trạng nghèo đói Chính phủ tập trung vào phát triển ngành công nghiệp địa phương, đặc biệt là công nghiệp nông thôn, để chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp Đối với các vùng sâu, vùng xa, Trung Quốc đã kết hợp khai thác nông nghiệp tổng hợp, đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phát triển nghề địa phương, phòng chống dịch bệnh, nâng cao giáo dục và kỹ thuật cho người lao động, đồng thời kiểm soát tình trạng gia tăng dân số và bảo vệ môi trường Ngoài ra, chính phủ cũng áp dụng chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo, khuyến khích đầu tư và hỗ trợ từ các tổ chức xã hội, với mục tiêu “Bà con giúp đỡ lẫn nhau” để nhân rộng những kinh nghiệm thành công từ các vùng khác.
Giải quyết vấn đề nghèo đói ở Ấn Độ
Ấn Độ hiện đang đối mặt với tình trạng nghèo đói nghiêm trọng, với khoảng 420 triệu người, chiếm 55% dân số, sống trong cảnh thiếu thốn Để khắc phục vấn đề này, Ấn Độ đã triển khai các chương trình phát triển toàn diện nhằm khai thác tiềm năng nông thôn, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, từ đó nâng cao năng suất cây trồng và vật nuôi, đồng thời phát triển công nghiệp nông thôn Những nỗ lực này đã giúp Ấn Độ chuyển mình từ một quốc gia phải nhập khẩu lương thực sang một nước tự cung tự cấp Các kế hoạch ngắn hạn và dài hạn được thiết lập với mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống về kinh tế, văn hóa và xã hội cho người dân.
Giải quyết vấn đề đói nghèo ở Nhật Bản
Nhật Bản đã trở thành một cường quốc kinh tế nhờ áp dụng hiệu quả các biện pháp xóa đói giảm nghèo, từ đó nâng cao đời sống của người dân.
Quá trình dân chủ hóa sau chiến tranh đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường đa dạng, nơi có sự bình đẳng tương đối giữa các chủ thể trong sản xuất và kinh doanh, đồng thời thúc đẩy dân chủ hóa trong lĩnh vực lao động.
Xóa bỏ các nguyên nhân gây ra sự phân hóa giàu nghèo là cần thiết để xây dựng một xã hội bình đẳng hơn Đặc biệt, cần thực hiện mục tiêu "ruộng đất cho dân cày" nhằm đảm bảo quyền sở hữu tài sản và đất đai cho người dân, từ đó tạo ra cơ hội phát triển công bằng cho tất cả mọi người.
- Can thiệp mạnh mẽ của nhà nước vào nền kinh tế thị trường, đảm bảo sự phát triển mục tiêu ưu tiên.
Tập trung vào phát triển kinh tế là nền tảng quan trọng để cải cách, hỗ trợ cuộc sống cho người nghèo, giảm thiểu sự phân hóa giàu nghèo và tạo ra sự cân bằng xã hội.
- Thực hiện chính sách cùng hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế.
- Thực hiện đánh thuế thu thập nhằm giảm bớt chênh lệch trong thu nhập.
Thực hiện các chính sách phúc lợi xã hội thông qua một hệ thống bảo hiểm đa dạng, bao gồm các lĩnh vực như tương trợ công cụ, dịch vụ và bảo hiểm xã hội, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
THỐNG DỊCH VỤ XÃ HỘI HỖ TRỢ NGƯỜI NGHÈO
Hỗ trợ người nghèo về nhà ở và đất sản xuất
Người nghèo phải nỗ lực không ngừng để đảm bảo nhu cầu cơ bản cho bản thân và gia đình, tham gia vào mọi hoạt động kinh tế nhằm mưu sinh Việc sở hữu nhà ở, đặc biệt là ở vùng nông thôn, miền núi hay hải đảo, trở thành một điều xa xỉ đối với họ Do đó, cần thiết phải thực hiện các chính sách xã hội hỗ trợ người nghèo về nhà ở, ưu tiên cho các hộ nghèo có người cao tuổi, người khuyết tật, phụ nữ đơn thân và gia đình cách mạng Đây là nỗ lực nhằm mang lại công bằng xã hội, giúp người nghèo có nơi ở ổn định để yên tâm làm việc và nuôi sống gia đình, đồng thời là trách nhiệm lớn lao của đội ngũ làm công tác xã hội.
NVXH đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và tác động đến các cơ chế, chính sách xã hội Họ tìm kiếm các dịch vụ hỗ trợ nhà ở cho người nghèo tại đô thị, kết hợp huy động nguồn lực từ cộng đồng, gia đình, dòng họ và các tổ chức chính trị xã hội.
Chương trình 134 (Quyết định 134/2004) và Quyết định 167 đã được triển khai nhằm hỗ trợ nhà ở và đất sản xuất cho đồng bào dân tộc và hộ nghèo, giúp giải quyết nhu cầu cơ bản về nhà ở cho các hộ gia đình khó khăn Bên cạnh đó, người nghèo tại khu vực thành thị cũng được hưởng nhiều chính sách hỗ trợ từ Nhà nước, bao gồm việc bán nhà cho người có thu nhập thấp và xây dựng các khu chung cư dành cho đối tượng này.
Thực hiện có hiệu quả chương trình đầu tư xây dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp 5với các nội dung sau:
Mục tiêu chính của chương trình là hỗ trợ các hộ nghèo có được nhà ở ổn định và an toàn, từ đó từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần vào việc xoá đói và giảm nghèo một cách bền vững.
1.1 Đối tượng, phạm vi áp dụng và nguyên tắc áp dụng:
Là hộ nghèo, đang cư trú tại địa phương, có trong danh sách hộ nghèo do UBND cấp xã quản lý.
Ngày 12/12/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 167/2008/QĐ-TTg nhằm hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở Tiếp theo, vào ngày 29/10/2010, Quyết định 67/2010/QĐ-TTg được ban hành để sửa đổi và bổ sung một số điều của Quyết định 167/2008/QĐ-TTg, nhằm cải thiện chính sách hỗ trợ cho các hộ nghèo.
Hộ gia đình không có nhà ở hoặc đang sống trong nhà ở tạm bợ, hư hỏng, dột nát, có nguy cơ sập đổ và không đủ khả năng tự cải thiện điều kiện nhà ở.
Hộ không thuộc diện đối tượng được hỗ trợ nhà ở theo quy định tại QĐ số
Ngày 20/7/2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 134/2004/QĐ-TTg nhằm hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và có đời sống khó khăn Quyết định này cũng quy định các chính sách hỗ trợ nhà ở khác để cải thiện điều kiện sống cho các hộ dân tộc thiểu số.
Xếp loại thứ tự ưu tiên hỗ trợ: Thực hiện ưu tiên hỗ trợ trước cho các đối tượng theo thứ tự sau đây:
+ Hộ gia đình có công với cách mạng;
+ Hộ gia đình là đồng bào dân tộc thiểu số;
+ Hộ gia đình trong vùng thường xuyên xảy ra thiên tai;
+ Hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn (già cả, neo đơn, tàn tật.);
+ Hộ gia đình đang sinh sống trong vùng đặc biệt khó khăn;
+ Các hộ gia đình còn lại.
Chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở được áp dụng đối với các hộ có đủ 3 điều kiện sau:
+ Hộ nghèo đang cư trú tại địa phương, có trong danh sách hộ nghèo do
UBND cấp xã quản lý;
Hộ gia đình chưa có nhà ở hoặc đang sống trong những ngôi nhà tạm bợ, hư hỏng, dột nát, có nguy cơ sập đổ và không có khả năng tự cải thiện tình trạng nhà ở của mình.
+ Hộ không thuộc diện đối tượng được hỗ trợ nhà ở theo quy định tại QĐ số
Theo Quyết định 134/2004/QĐ-TTg, những người đang cư trú tại khu vực không phải đô thị trên toàn quốc, hoặc tại các thôn, làng, buôn, bản, ấp, phum, sóc (gọi chung là thôn, bản) thuộc phường, thị trấn hoặc xã của thị xã, thành phố thuộc tỉnh, và sinh sống chủ yếu bằng nghề nông, lâm, ngư nghiệp sẽ được hưởng các chính sách hỗ trợ.
Hỗ trợ trực tiếp đến hộ gia đình để xây dựng nhà ở theo đối tượng quy định.
Đảm bảo công khai, công bằng và minh bạch cho từng hộ gia đình dựa trên pháp luật và chính sách của Nhà nước, đồng thời tôn trọng phong tục tập quán của các dân tộc và vùng miền Bảo tồn bản sắc văn hóa của từng dân tộc là yếu tố quan trọng, cùng với việc phù hợp với điều kiện thực tiễn và gắn liền với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương.
Nhà nước hỗ trợ và cộng đồng giúp đỡ để các hộ gia đình cùng tham gia xây dựng nhà ở có diện tích tối thiểu 24 m², với tuổi thọ dự kiến từ 10 năm trở lên.
1.2 Mức hỗ trợ, mức vay và phương thức cho vay
Ngân sách trung ương hỗ trợ 06 triệu đồng cho mỗi hộ dân thuộc diện được hỗ trợ nhà ở tại các đơn vị hành chính khó khăn Đối với những hộ dân cư trú tại các khu vực được quy định trong QĐ số 30/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ, mức hỗ trợ sẽ tăng lên 07 triệu đồng/hộ.
Các địa phương có trách nhiệm hỗ trợ thêm ngoài phần ngân sách trung ương hỗ trợ và huy động cộng đồng giúp đỡ các hộ làm nhà ở.
1.2.2 Mức vay và phương thức cho vay:
Hộ dân có nhu cầu xây dựng nhà ở có thể vay tín dụng từ Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCSXH) với mức vay tối đa 8 triệu đồng/hộ Lãi suất vay là 3%/năm, thời hạn vay lên đến 10 năm, trong đó có 5 năm ân hạn Sau thời gian ân hạn, hộ dân sẽ có 5 năm để trả nợ, với mức trả nợ tối thiểu hàng năm là 20% tổng số vốn đã vay.
NHCSXH áp dụng phương thức cho vay uỷ thác từng phần thông qua các tổ chức chính trị - xã hội hoặc cho vay trực tiếp Đối với hình thức uỷ thác, NHCSXH chịu trách nhiệm quản lý vốn, ghi chép kế toán và tổ chức giải ngân cho người vay thông qua các tổ chức này.
1.3.1 Bình xét và phê duyệt danh sách hỗ trợ nhà ở:
- Cơ sở thôn, bản tổ chức bình xét đối tượng và phân loại ưu tiên theo đúng quy định, đảm bảo công khai, minh bạch
UBND cấp xã sẽ tổng hợp danh sách các hộ gia đình được hỗ trợ và lập danh sách các hộ có nhu cầu vay vốn, sau đó báo cáo lên UBND huyện để trình UBND cấp tỉnh phê duyệt.
Hỗ trợ người nghèo về giáo dục
Giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu của Đảng và Nhà nước, với ngân sách đầu tư lớn hàng năm Tuy nhiên, người nghèo, đặc biệt là ở vùng dân tộc thiểu số và hải đảo, có mức độ tham gia giáo dục thấp do thiếu tiền bạc, cơ sở vật chất và thời gian Điều này tạo ra vòng luẩn quẩn của đói nghèo, khiến họ không có kiến thức và vốn xã hội để giải quyết vấn đề Các hoạt động của NVXH nhằm hỗ trợ giáo dục cho người nghèo là rất cần thiết, giúp họ nhận thức về vấn đề của mình và có trách nhiệm với cộng đồng NVXH cũng tích cực đưa chính sách xã hội đến người nghèo, như miễn giảm học phí và hỗ trợ học bổng, đồng thời thực hiện các mô hình giáo dục đặc thù cho người nghèo Nhờ đó, giáo dục cho người nghèo được mở rộng, tạo điều kiện cho họ tham gia học tập và nâng cao kiến thức xã hội.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhân viên xã hội là vận động và tập trung các dịch vụ giáo dục nhằm phổ cập xoá nạn mù chữ cho nhóm người nghèo, đặc biệt là trẻ em và thanh niên trong độ tuổi lao động Mục tiêu này được Nhà nước đặc biệt quan tâm, nhằm nâng cao trình độ dân trí, giúp họ hoà nhập với xã hội tiên tiến và tạo điều kiện cho họ tự nhận thức, vươn lên trong cuộc sống, xoá đói giảm nghèo.
Chương trình nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay chưa tác động trực tiếp đến học sinh nghèo, đặc biệt là trẻ em dân tộc thiểu số, do hệ thống giáo dục chủ yếu sử dụng thiết bị cao cấp mà họ không thể tiếp cận Hơn nữa, chương trình dạy nghề cho học sinh nghèo và nông thôn chưa được ưu tiên, dẫn đến việc thiếu trung tâm dạy nghề và nguồn kinh phí hạn chế từ nhà nước và viện trợ nước ngoài Trẻ em nghèo thường không đủ điều kiện kinh tế và thời gian để theo học các lớp dạy nghề, khiến họ không được hưởng lợi từ chương trình này Do đó, cần có sự can thiệp từ các chuyên gia xã hội để vận động, hoạch định chính sách và hỗ trợ đào tạo trực tiếp cho người dân, giúp họ có cơ hội học nghề và thoát nghèo bền vững.
Hỗ trợ các nhóm người nghèo tiếp cận dịch vụ xã hội là giải pháp quan trọng giúp họ nâng cao kiến thức và năng lực, từ đó giảm nghèo bền vững Kiến thức giúp họ có thông tin, tham gia hoạt động xã hội, và thiết lập mối quan hệ trong cộng đồng Qua đó, họ có thể tiếp cận nguồn lực xã hội như vốn và khoa học - kỹ thuật, tự phá vỡ vòng luẩn quẩn của nghèo đói Sự trợ giúp từ các cấp có thẩm quyền và nhóm hỗ trợ cộng đồng, đặc biệt là đội ngũ nhân viên xã hội, sẽ trao quyền cho người nghèo, giúp họ làm chủ cuộc sống và tham gia vào quá trình xóa đói giảm nghèo của đất nước.
Việc kết nối các nhóm người nghèo với dịch vụ giáo dục gặp nhiều khó khăn về thời gian, nhận thức và sự hợp tác Để hỗ trợ hiệu quả, người làm công tác xã hội cần có hiểu biết sâu sắc về cộng đồng và văn hóa địa phương, gắn bó và chia sẻ khó khăn với người nghèo Họ cần hiểu rõ vấn đề và nhu cầu thực sự của người nghèo trước khi tư vấn về các dịch vụ giáo dục Do đó, việc thành lập các trung tâm hỗ trợ cộng đồng và mô hình trợ giúp cho người nghèo là cần thiết, nơi có sự tham gia của nhân viên xã hội trong toàn bộ quá trình quản lý và triển khai các chương trình này.
Việc thực hiện hiệu quả chính sách miễn, giảm học phí và hỗ trợ học bổng cho học sinh nghèo, đặc biệt ở bậc mầm non, là rất quan trọng Cần tiếp tục áp dụng chính sách tín dụng ưu đãi cho học sinh, sinh viên, nhất là những người có hoàn cảnh khó khăn Đồng thời, cần thực hiện các biện pháp ưu đãi và thu hút giáo viên làm việc tại các khu vực khó khăn, khuyến khích xây dựng và mở rộng các chương trình hỗ trợ giáo dục.
“Quỹ khuyến học"; ưu tiên đầu tư trước để đạt chuẩn cơ sở trường, lớp học ở các xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn.
Nghị định 49/2010/NĐ-CP ban hành ngày 14/5/2010 của Chính phủ quy định về việc miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập cho các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, áp dụng từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 - 2015 Đồng thời, Thông tư liên tịch 29/2010/TTLT-BGDĐT-BTC-BLĐTBXH ngày 15/11/2010 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định này, nhằm đảm bảo sự công bằng và hỗ trợ cho học sinh, sinh viên trong quá trình học tập.
Mục đích của chương trình là hỗ trợ trẻ em từ hộ nghèo có cơ hội học tập bình đẳng như các bạn cùng trang lứa, từ đó góp phần nâng cao trình độ văn hóa cho cộng đồng nghèo.
Đối tượng được hỗ trợ bao gồm con em hộ nghèo trong danh sách do xã quản lý trên toàn quốc, học sinh ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định hiện hành, và học sinh thuộc các dân tộc thiểu số tại vùng Tây Nguyên theo quy định hiện hành.
Chính sách hỗ trợ học sinh bao gồm việc miễn giảm học phí theo quy định của nhà nước, miễn giảm các khoản đóng góp xây dựng trường học theo quy định địa phương, và hỗ trợ sách vở, đồ dùng học tập cho học sinh nghèo thuộc đồng bào dân tộc thiểu số.
+ Cách thức miễn giảm, hỗ trợ:
UBND xã xác nhận học sinh là con em hộ nghèo trong danh sách hộ nghèo xã quản lý;
Các cơ sở Giáo dục- Đào tạo thực hiện việc miễn giảm học phí cho học sinh thuộc diện hộ nghèo;
Hỗ trợ trực tiếp sách giáo khoa, vở viết cho học sinh nghèo dân tộc thiểu số thông qua các cơ sở giáo dục- đào tạo.
Ngoài chính sách hỗ trợ giáo dục của nhà nước, các hộ nghèo còn nhận được sự hỗ trợ từ nguồn lực cộng đồng, bao gồm dụng cụ học tập, học bổng khuyến học và học bổng cho học sinh nghèo vượt khó Các lớp học tình thương, do chính quyền địa phương, tổ chức xã hội hoặc cá nhân hảo tâm tổ chức, cung cấp miễn phí sách vở và đồ dùng học tập cho học sinh Một số địa phương còn hỗ trợ nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, giúp các em có cơ hội tiếp cận giáo dục tốt hơn.
Hỗ trợ người nghèo về chăm sóc sức khỏe
Chăm sóc sức khỏe và cung cấp thông tin y tế là nhu cầu thiết yếu đối với mọi người, đặc biệt là người nghèo Tuy nhiên, nhóm người này thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản, chưa nói đến các dịch vụ cao cấp Việc khám bệnh định kỳ hay khám thai cũng trở nên xa xỉ với họ, nhất là ở các vùng dân tộc thiểu số Điều kiện sống khó khăn về kinh tế và môi trường khiến người nghèo dễ mắc suy dinh dưỡng, sức khỏe giảm sút và khả năng kháng bệnh thấp Do đó, hỗ trợ người nghèo thay đổi nhận thức và tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe là rất cần thiết Cần từng bước giúp họ tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản và nâng cao, đồng thời thay đổi tư duy cổ hủ về số phận và sức khỏe của bản thân.
Để cải thiện sức khỏe cộng đồng, việc thay đổi tư duy và nhận thức là cần thiết, bên cạnh đó, các dịch vụ khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe tại các vùng nghèo cũng được chú trọng phát triển Các hình thức phát triển dịch vụ này bao gồm việc thành lập các tổ, đội y tế lưu động để khám, chữa bệnh và thực hiện các hoạt động phòng bệnh định kỳ tại các thôn, bản.
Chính sách cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo cần được thực hiện hiệu quả, đồng thời hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm cho hộ cận nghèo Cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các chính sách hỗ trợ người nghèo mắc bệnh nặng và bệnh hiểm nghèo Bên cạnh đó, nghiên cứu các chính sách cung cấp dinh dưỡng cho phụ nữ, trẻ em trong cộng đồng nghèo và các đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương khác cũng rất quan trọng.
Cần tăng cường chính sách ưu đãi để thu hút cán bộ y tế làm việc tại các cộng đồng nghèo, đặc biệt là ở miền núi, hải đảo và vùng sâu, vùng xa Đồng thời, cần ưu tiên đầu tư để nâng cấp cơ sở bệnh viện và trạm y tế tại các huyện, xã nghèo, nhằm đảm bảo đạt tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ y tế.
Các hoạt động này nhằm thúc đẩy sự phát triển của các dịch vụ xã hội liên quan đến chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là cho người dân nghèo.
Hiện nay, dịch vụ y tế ngày càng đa dạng, bao gồm từ thăm khám sức khỏe thông thường đến các dịch vụ chất lượng cao, cả trong khuôn khổ Nhà nước và tư nhân Việc khuyến khích các nhóm người nghèo tham gia lập kế hoạch và tiếp cận dịch vụ y tế là nguyên tắc cơ bản, giúp họ có quyền lựa chọn và sử dụng dịch vụ phù hợp với nhu cầu của mình.
Để đáp ứng nhu cầu sức khỏe cho người nghèo, cần có sự hỗ trợ từ Nhà nước và cộng đồng, trong đó nhân viên xã hội (NVXH) đóng vai trò quan trọng Họ không chỉ cung cấp thông tin và hướng dẫn lập kế hoạch mà còn giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế Việc xây dựng phòng công tác xã hội trong các bệnh viện là cần thiết để NVXH có thể hỗ trợ trực tiếp cho bệnh nhân, đặc biệt là người nghèo NVXH cũng đóng vai trò như một bác sĩ xã hội, cung cấp sự động viên và thông tin cần thiết cho bệnh nhân và gia đình họ Hơn nữa, việc thành lập các câu lạc bộ chăm sóc sức khỏe cộng đồng với sự tham gia của NVXH sẽ tạo ra một mô hình hỗ trợ hiệu quả, giúp người dân dễ dàng tiếp cận dịch vụ y tế hơn.
"Phòng bệnh hơn chữa bệnh" là nguyên tắc quan trọng, đặc biệt đối với người nghèo, khi mà việc chữa trị có thể gặp nhiều khó khăn Đội ngũ nhân viên xã hội tại cộng đồng đóng vai trò là những tuyên truyền viên tích cực, giúp nâng cao nhận thức và cung cấp kiến thức về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho người dân.
Để thực hiện hiệu quả chính sách cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo và hỗ trợ mua thẻ cho hộ cận nghèo, cần xây dựng các chính sách hỗ trợ cho người nghèo mắc bệnh nặng Đồng thời, nghiên cứu chính sách cung cấp dinh dưỡng cho phụ nữ và trẻ em nghèo tại các khu vực khó khăn cũng rất quan trọng Cần tăng cường ưu đãi và thu hút cán bộ y tế làm việc tại các địa bàn nghèo, đồng thời ưu tiên đầu tư để nâng cao tiêu chuẩn cơ sở bệnh viện và trạm y tế ở các huyện, xã nghèo.
- Mục đích: Hỗ trợ người nghèo tiếp cận dịch vụ y tế khi ốm đau thuận lợi hơn, bình đẳng hơn; giảm thiểu khó khăn, rủi ro cho người nghèo.
Phạm vi hỗ trợ bao gồm các hộ nghèo được quản lý ở cấp xã, trừ những đối tượng đã được hỗ trợ mua thẻ BHYT theo các chính sách khác, như trẻ em dưới 6 tuổi, người có công, đối tượng bảo trợ xã hội và người già từ đủ 80 tuổi.
- Nội dung: Người nghèo được cấp thẻ BHYT theo mệnh giá quy định của nhà nước trong từng thời kỳ; được khám chữa bệnh miễn phí khi ốm đau.
Các đối tượng này có quyền khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế mà không cần đóng tiền tạm ứng khi nhập viện Tuy nhiên, nếu người bệnh tự chọn cơ sở khám chữa bệnh trái tuyến hoặc khám chữa bệnh theo yêu cầu, họ sẽ phải thanh toán viện phí theo quy định của Bộ Y tế.
- Quy trình cấp thẻ BHYT
+ Sở LĐTBXH các tỉnh, thành phố lập danh sách đối tượng người nghèo thuộc diện cấp thẻ BHYT gửi cơ quan BHXH cùng cấp;
+ Cơ quan bảo hiểm xã hội tổ chức cấp thẻ BHYT cho người nghèo theo trình tự, thủ tục, quy định của Pháp luật;
+ Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế là cơ sở y tế có ký hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh với tổ chức bảo hiểm y tế, bao gồm:
Trạm y tế xã và tương đương, nhà hộ sinh;
Phòng khám đa khoa, chuyên khoa;
Bệnh viện đa khoa, chuyên khoa.
Ngoài việc cấp thẻ BHYT cho người nghèo, họ còn nhận được nhiều hỗ trợ chăm sóc sức khỏe từ các nguồn khác như các đoàn y bác sĩ tự nguyện khám và cấp thuốc miễn phí, Hội bảo trợ bệnh nhân nghèo, Hội chữ thập đỏ, cũng như các chương trình vận động kế hoạch hóa gia đình và tiêm chủng mở rộng.
Hỗ trợ người nghèo về kỹ thuật sản xuất
Người nghèo thường thiếu thốn về kinh tế, kiến thức và mối quan hệ xã hội, dẫn đến khả năng tạo ra sản phẩm chất lượng và hiệu quả kinh tế thấp Để cải thiện tình hình, cần tạo điều kiện cho họ tiếp cận các dịch vụ xã hội về kỹ thuật sản xuất, cung cấp nguồn vốn và hướng dẫn làm kinh tế, khuyến nông, khuyến lâm, cũng như chuyển giao công nghệ vào sản xuất Thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi cho người nghèo, đặc biệt là hộ nghèo khuyết tật và phụ nữ, sẽ giúp họ có kiến thức và tay nghề cần thiết để tham gia lao động sản xuất, từ đó tạo ra của cải vật chất và tăng thu nhập cho gia đình.
Trong nhiều năm qua, các chính sách của Đảng và Nhà nước đã thúc đẩy người nghèo nâng cao tay nghề và trình độ sản xuất trong các lĩnh vực như trồng trọt, chăn nuôi và thủ công nghiệp Cam kết hỗ trợ từ các tổ chức xã hội và sự tích cực của người nghèo đã mang lại nhiều thay đổi tích cực về kỹ năng và kiến thức Nhiều hộ nghèo đã được hưởng lợi từ dịch vụ đào tạo kỹ thuật sản xuất, giúp họ tìm được cuộc sống ổn định Sự kết hợp nguồn lực bên ngoài như vốn, khoa học kỹ thuật và thông tin là yếu tố quan trọng để nâng cao kỹ thuật sản xuất và phát triển các mô hình kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi cho người nghèo.
Phối hợp tổ chức các lớp tập huấn cho người lớn về kỹ thuật sản xuất nông nghiệp như trồng lúa, rau vụ đông, hoa màu và chăn nuôi gia cầm, gia súc mang lại hiệu quả thiết thực Những lớp học này không chỉ cung cấp kiến thức lý thuyết mà còn tạo cơ hội cho người dân tham quan các mô hình trang trại và học hỏi kinh nghiệm thực tiễn Qua đó, họ có thể lập kế hoạch phát triển kinh tế hộ gia đình, từ đó góp phần vào việc phát triển kinh tế và giảm nghèo bền vững.
Hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ trợ giúp pháp lý
Các tổ chức xã hội và cộng đồng đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ và cung cấp dịch vụ xã hội cho hộ nghèo Nhiều mô hình dịch vụ hỗ trợ người nghèo và các nhóm dễ bị tổn thương như người già, người khuyết tật, và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đã được hình thành và phát triển hiệu quả, với tiềm năng nhân rộng cao.
Người nghèo và cộng đồng nghèo thường gặp khó khăn toàn diện về kinh tế, thông tin, mối quan hệ xã hội và kiến thức, dẫn đến việc khó tiếp cận các văn bản, chính sách và dịch vụ hỗ trợ pháp lý Để thay đổi cuộc sống của họ, việc hỗ trợ và thúc đẩy các dịch vụ pháp lý đến tay người nghèo là rất quan trọng Điều này yêu cầu nhân viên xã hội không chỉ có kiến thức và kỹ năng chuyên môn mà còn cần hiểu biết về sự đa dạng văn hóa và các chính sách pháp luật của Nhà nước, cũng như các dịch vụ hỗ trợ pháp lý dành cho người dân, đặc biệt là người nghèo.
Người nghèo thường e ngại khi tiếp cận chính quyền địa phương và ít có khả năng biện minh cho hoàn cảnh của mình để nhận hỗ trợ Việc tạo điều kiện cho họ tiếp cận các chính sách công và dịch vụ trợ giúp pháp lý là rất cần thiết, giúp họ phát huy vai trò trong cộng đồng Họ có quyền tham gia ý kiến và đóng góp vào quá trình phát triển địa phương và đất nước Sự tham gia của người nghèo thông qua việc tham khảo ý kiến là cách hiệu quả nhất để đánh giá đúng nhu cầu và vấn đề của họ, từ đó đảm bảo sự tham gia của toàn dân, toàn quân và toàn xã hội.
Thực hiện hiệu quả chính sách trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo là nhiệm vụ quan trọng của các cấp chính quyền, nhằm giúp người nghèo hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình Điều này tạo điều kiện cho họ chủ động tiếp cận các chính sách trợ giúp của Nhà nước, từ đó vươn lên thoát nghèo.
Mục đích chính là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, nhằm đảm bảo công lý và công bằng trong việc tiếp cận pháp luật Đồng thời, nâng cao hiểu biết pháp luật cho người nghèo giúp họ thực thi quyền lợi, tham gia vào phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo và thực hiện dân chủ tại cộng đồng.
Đối tượng hưởng lợi từ chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP bao gồm người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại các huyện nghèo Chương trình này nhằm hỗ trợ 61 huyện nghèo, giúp cải thiện đời sống và phát triển kinh tế bền vững cho cộng đồng.
+ Nội dung chích sách hỗ trợ pháp lý cho người nghèo:
Thực hiện hỗ trợ pháp lý trực tiếp cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo;
Tăng cường năng lực cho các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý, Tư pháp xã và Tổ hòa giải là cần thiết để cung cấp hỗ trợ pháp lý trực tiếp cho người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo.
+ Các hoạt động để thực hiện chính sách hỗ trợ pháp lý:
Các hoạt động hỗ trợ pháp lý trực tiếp cho người nghèo:
Cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí;
Tổ chức các đợt trợ giúp pháp lý lưu động về các xã thuộc các huyện nghèo để cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí;
Quyết định 52/2010/QĐ-TTg, ban hành ngày 18 tháng 8 năm 2010 bởi Thủ tướng Chính phủ, nhằm triển khai chính sách hỗ trợ pháp lý, với mục tiêu nâng cao nhận thức và hiểu biết về pháp luật cho người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo trong giai đoạn 2011 - 2020.
Tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý nhằm giải quyết các vướng mắc pháp luật và cung cấp thông tin pháp lý, từ đó nâng cao nhận thức và hiểu biết về pháp luật cho cộng đồng.
Tổ chức sinh hoạt các tổ hòa giải để giải quyết các tranh chấp nhỏ trong cộng đồng dân cư;
Phổ biến, giáo dục và truyền thông pháp luật;
Truyền thông về trợ giúp pháp lý;
Tổ chức thực hiện các hoạt động đăng ký khai sinh, chứng thực và các công tác Tư pháp - Hộ tịch khác.
Tăng cường năng lực tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý là một nhiệm vụ quan trọng, nhằm nâng cao hiệu quả của người thực hiện trợ giúp pháp lý, Tổ viên tổ hòa giải và cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cấp xã Việc này không chỉ giúp cải thiện chất lượng dịch vụ pháp lý mà còn đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người dân, góp phần xây dựng một xã hội công bằng và văn minh.
Mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý;
Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức pháp luật, chuyên môn nghiệp vụ và cung cấp tài liệu bồi dưỡng cho cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cấp xã;
Tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ và kỹ năng hòa giải;
Hỗ trợ cho cán bộ làm việc tại Chi nhánh của Trung tâm trợ giúp pháp lý;
Hỗ trợ kinh phí đào tạo trung cấp luật cho cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cấp xã.
+ Cơ chế nhân lực và tài chính bảo đảm thực hiện chính sách:
Để nâng cao nguồn nhân lực, ưu tiên lựa chọn cán bộ tham gia các hoạt động tăng cường năng lực là những người sống tại các xã nghèo, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số hoặc có khả năng nói tiếng dân tộc thiểu số Ngoài ra, cần chú trọng đến cán bộ nữ và những người đã có kinh nghiệm trong hỗ trợ pháp lý Đồng thời, việc thu hút già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ và những người có uy tín trong cộng đồng các tộc người tham gia làm Cộng tác viên trợ giúp pháp lý cũng rất quan trọng.
Ngân sách trung ương được cấp từ Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP, cùng với hỗ trợ từ các dự án hợp tác quốc tế và đóng góp của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước Các nguồn vốn này được phân bổ trong dự toán ngân sách hàng năm của Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam.
Ngân sách địa phương đảm bảo chi phí cho hoạt động thường xuyên, biên chế, cơ sở vật chất và trang thiết bị của Chi nhánh Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tại các huyện.